Văn học dân gian -món ăn tinh thần của người dân lao động - là tâm tư tình cảm của con người ,đồng thời cũng chính là nguồn cảm hứng sâu sắc , là cơ sở hình thành văn học viết .Văn học dân gian bao gồm nhiều thể loại, trong đó ca dao là một trong những mãng lớn tạo nên những nét đặc sắc của văn học dân gian ; nó là tiếng tơ đàn muôn điệu ,là nỗi chứa giàu tâm tư tình cảm ,cũng chính là những làn điệu quê hương đầm ấm . Văn học dân dan là những tác phẩm ngôn từ truyền miệng cũng là sản phẩm của quá trình sáng tác tập thể , lại có nhiều nét đặc trưng cơ bản riêng biệt . Gía trị văn học dân gian được coi như là kho tri thức mang nhiều giá trị nhân đạo và là chuẩn mực noi theo. Mỗi tác phẩm của văn học dân gian là những cung bậc tâm tư , tình cảm ,tiếng nói của con người việt thể hiện nhân cách sống và thấu hiểu tâm hồn của người dân lao động giàu tình cảm và chứa đựng nhiều cảm xúc .Nói tóm lại , văn học dân gian là nơi tâm hồn ,tình cảm, cốt cách và phẩm giá của con người được trào dâng. Nó cũng mang nhiều giá trị to lớn.
Không giống như các thể loại văn học: Thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết… văn học dân gian không xuất hiện giọng điệu của chủ thể cá nhân. Nó được ra đời từ sáng tác tập thể, trong nó được biểu thị tâm tư tình cảm của một loại người, cộng đồng nào đó trong xã hội. Mà mỗi khi đọc lên ta lại thấy được cái giọng điệu, quan điểm của tập thể đã được toát lên như thế nào.
Gập lại cuốn sách Văn học Dân gian cái hay, vẻ đẹp của Lê Xuân Mậu đã giúp tôi hiểu rõ hơn phần nào về kho tàng văn học ấy. Một kho tàng tri thức vô giá mang trong mình những lời dạy, lời đúc kết quý báu của bao đời dành cho các thế hệ sau. Dù nó được thể hiện dưới dạng văn vần, câu thơ, tục ngữ hay chỉ là bài đồng giao, câu đố. Thì những giá trị của nó dành cho con người là vô giá. Vậy mà sự tồn tại và cách đi của nó để có thể ăn sâu được vào tâm trí của từng người dân lại bằng con đường rất đơn giản: “truyền miệng”.
Một thể loại phải nhớ tới đầu tiên khi nhắc tới nền văn dân gian này là ca dao. Lời của ca dao không là lời của nhân vật cụ thể. Nên những giọng điệu tươi vui, hoan hỉ hay thương cảm, oán trách… của nó chỉ là những trạng thái cảm xúc, sắc điệu của tình cảm. Và những hình tượng nhân vật trong nó bao giờ cũng đem tính phiếm chỉ, không phải một cá nhân nào mà lại là bất kì ai trong hoàn cảnh đó. Ví như một lời oán trách:
Nào khi anh bủng anh beo
Tay bưng bát thuốc, tay đèo múi chanh.
Bây giờ anh khỏi anh lành
Anh vui duyên mới anh tình phụ tôi.
Hay là một lời cảnh tỉnh:
Có quán tình phụ cây đa
Ba năm quán đổ, cây đa vẫn còn.
Cũng thật trùng hợp khi có cùng quan điểm với tác giả rằng ca dao đâu cần hoa mỹ mới hay. Vì hầu hết các bài ca dao chỉ sử dụng những ngôn ngữ tự nhiên – đời thường, không cầu kỳ hoa mỹ và rất giản dị, mộc mạc nữa. Vì khi được nghe những câu ca dao như vậy ta sẽ không phài tìm tòi, suy ý kiểu vòng vo, ám chỉ bóng gió xa xôi mà cảnh tình đã được suy diễn trực tiếp.
Thương anh hãy đứng xa xa
Con mắt anh liếc cũng bằng ba đứng gần.
Rất thẳng, thực và trực tiếp. Chẳng có gì là kín đáo, bóng gió nhưng những thấy được những mặt tinh vi của tình cảm được khêu gợi nếu ta có chút kinh nghiệm yêu đương và giao tiếp.
Một điều nữa mà ta thấy không thể thiếu được trong ca dao đó là ví von. Và chẳng thế mà khi ca dao hát lên mọi người vẫn thường nói là hát ví, hay cũng quen thuộc với cụm từ “ví ví von von”. Nhưng với cuốn sách tôi đã nhận được ví von ở ca dao gắn liền với thao tác so sánh trong tư duy hình tượng của người sáng tác, gắn liền với hoạt động liên tưởng:
Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?
Cũng có thể là một dạng nhân hóa:
Con cò chết rũ trên cây
Cò con mở sách xem ngày làm ma.
Cố nhiên, do đặc điểm của ca dao và do yêu cầu được cộng đồng tiếp nhận của văn học dân gian nói chung. Những hình ảnh ví von tuy không phải là không có những hình ảnh mỹ lệ, nhưng nó vẫn có tính chất quen thuộc, ít xa lạ, ít mới mẻ. Và vì thế mà sức liên tưởng mạnh mẽ ở nhiều bài ca dao vẫn đầy sức hấp dẫn, những hình ảnh đẹp, những cảm xúc thẩm mĩ và kết quả nhân văn từ kết quả ví von.
Khi nhắc đến ca dao chắc hằn không ai không thể nhắc đến tục ngữ. Ở tục ngữ ta thấy được sự thể hiện về những tư tưởng, tình cảm tốt đẹp trong cuộc sống, trong phẩm chất đạo đức của người Việt ta. Nhưng để có được cái hồn ấy, tục ngữ lại có hình hài, da thịt đầy vẻ hấp dẫn. Và cái hay vẻ đẹp của ngôn từ cũng chính là cái duyên của tục ngữ. Khi nghe và đọc nhiều câu tục ngữ khác nhau, ta thấy được việc sử dụng những ngôn ngữ tài hoa như vậy là không hiếm. Có những từ ngữ sử dụng rất sáng tạo, gợi cảm và gây nhiều bất ngờ.
Cái nết đánh chết cái đẹp.
Hay:
Gió đông là chồng lúa chiêm, gió bấc là duyên lúa mùa.
…
Cũng rất nhiều từ đồng âm hay đa nghĩa được sử dụng rất tinh tế trong tục ngữ. Như câu “chó đen giữ mực”, hay “được voi đòi tiên” đã có sự tồn tại của các từ địa phương đồng âm với từ dùng trong ngôn ngữ toàn dân.
Không những vậy ta còn biết đến tục ngữ không chỉ có một nghĩa. Nghĩa đen – nghĩa bóng là sự phân biệt thông thường với các nghĩa có thể có ở một câu.
Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ.
…
Chuyện nghĩa đen nghĩa bóng ở tục ngữ thường được sử dụng là không có gì mới, nhưng không ít khi ta lại phải phân vân để phân tích khi như một chuyên gia.
Cái hay ở tục ngữ là vốn quý không chỉ về đạo lý, về kinh nghiệm ứng xử với thiên nhiên và con người mà còn là một kho kiến thức dùng ngôn ngữ cho mọi người và nói theo.
Những hình ảnh khi còn bé vẫn cùng chúng bạn chạy quanh, hát những bài đồng giao của tôi lại hiện về khi được gặp lại những bài hát đó trong cuốn sách. Tôi cũng chẳng ngờ được từ những bài đồng giao đó đã dạy tôi cách nói năng. Nó đã giúp tôi phát âm chính xác âm “N” như khi bày chơi “Nu na nu nống, cái cống nằm trong, cái nong nằm ngoài…” Hay tôi đã biết thêm các bài vè về các loài cá, loài chim hay những loài hoa rồi đến cả các tháng trong năm.
Tháng giêng là gió hây hây
Tháng hai gió mát, trăng bay vào đền
Tháng ba gió đưa nước lên
…
Ôi! Những bài đồng giao với ca từ mộc mạc, đơn giản. Vậy mà lại dạy được tôi những điều hay đến thế, vừa học vừa chơi một sự kết hợp đầy tinh tế cho cái tuổi ăn tuổi chơi trong những ngày thơ ấu.
Không chỉ dừng lại ở những bài đồng giao mà chính tôi có thể đọc vanh vách lúc còn nhỏ, khi mà chưa biết được đến các mặt chứ i, t. Tuổi thơ tôi còn được lớn lên cùng những câu đó dân gian đầy hứng thú bên những ổ rơm khi cả gia đình tôi quây quần.
Sừng sững mà đứng góc nhà
Ai mà động đến là òa khóc ngay (Cối xay thóc)
Hay
Hai gươm tám giáo, mặc áo da bò, thập thò cửa lỗ. (Con cua)
Đã làm tôi phải nhảy lên vì những câu trả lời nhận được mà trong khi vò đầu bứt tóc cũng chẳng ra. Những câu đố vui, không khó nhưng lại cần tài quan sát, phát hiện để sao tránh khỏi được những cú “lừa” tinh tế. Những câu đố tương tự của mọi người dành cho tôi đã giúp tôi lớn lên nhiều và đó cũng là vũ khí lợi hại của tôi dành cho những người bạn nhí của mình, chí ít là cái thời ngây ngô khi được hồ hởi mang bút, phấn đến lớp học vỡ lòng tại trường làng.
Văn học Dân gian là một kho tàng tri thức vô giá. Thật rộng lớn cho tôi để có thể hiểu hết về nó. Nhưng với tôi khi gập lại cuốn sách thì những câu đố tinh quái, bài đồng giao với đa dạng chủ đề hay những câu ca dao, câu vần vè mượt mà đã ăn sâu trong tôi từ thủa ấu thơ lại được khuấy động và sục sôi hơn nữa. Và những bài học từ những câu ca dao, tục ngữ được đúc kết từ kinh nghiệm quý báu của cha ông sẽ mãi là kim chỉ nam cho tôi trong cuộc sống, một cuộc sống tốt đẹp và hạnh phúc.