Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Giải bài có thưởng!

Ca dao là linh hồn dân tộc, qua những bài ca dao khác và sự hiểu biết của mình, em hãy làm rõ ý trên

«Ca dao là linh hồn dân tộc »qua những bài ca dao khác và sự hiểu biết của mình em hãy làm rõ ý trên

0 trả lời
Hỏi chi tiết
228
0
0
Nguyễn tuấn anh
28/10/2020 19:09:40
+5đ tặng

Ca dao là văn chương truyền khẩu, chữ nghĩa đời thường, cấu trúc đơn giản, ý tứ mộc mạc. Cũng phải cung cách ấy, điệu thức ấy mới ứng với tâm tính dân ta chất phác, đôn hậu, hướng nội, hướng tới sự quân bình, hài hòa...

Ca dao gần như nhất quán một thể thơ lục bát – lục bát ca dao, ca dao lục bát. Thơ lục bát ôm vần, cắt nhịp chẵn, bước thơ đều đều nhịp đôi nhẹ-nặng, dày đặc các thanh bằng, nghe cũng có phần đơn điệu thật.

Cuộc sống một phong phú, một nổi trôi, tình người càng đằm, càng đa đoan, ca dao theo đó trau chuốt hạ chữ, gieo vần gợi cảm, vang dội thanh âm, bay bổng giai điệu, chất chồng cấu tứ, đầy tính cách thơ: “Đêm đêm tưởng giải ngân hà. Mối sầu tinh đẩu đã ba năm tròn”.

Thông thường là vậy. Để chuyển tải đầy đủ các cung bậc, sắc thái cuộc sống, tư duy, tình cảm, ca dao lục bát còn vươn lên những biến tấu kỳ diệu: Vì sông / nên phải lụy đò. Vì chiều tối/ phải/ lụy cô bán hàng. Vì tình/ nên phải đa mang. Vì duyên/ thiếp biết quê chàng/ ở đây.


Ca dao là thân xác, lục bát là vòng tay. Cứ thế lục bát ôm trọn ca dao vào lòng đểấp ủ cái hương thơ của hồn quê, của tình người. Tự nhiên như không, ca dao thành câu hát ru, thành khúc dân ca. Ca dao ru con trẻ vào giấc ngủ “Con cò bay lả bay la”. Ca dao tình tự gái trai nên vợ nên chồng thuận hòa “tát bể đông cũng cạn”.

Một dạo, nhiều người nhất hô bá ứng đòi ca dao trả lại hai câu cuối trong bài thơ Trăng quê cho chính chủ Bàng Bá Lân làm hồi giữa thập niên ba mươi của thế kỷ trước.

Không hiểu từ đâu, vì sao, chỉ hăm mấy năm sau đấy, học giả Vũ Ngọc Phan lại đưa câu lục bát “Hỡi cô tát nước bên đàng. Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi” vào hai tập tuyển ca dao công phu, được giới văn nghệ đương thời tán dương. Phần vì quá cách trở, phần vì uy tín quá lớn của soạn giả uyên bác, Bàng Bá Lân cho đến cuối đời vẫn không một lần đánh tiếng cải chính đó là thơ mình làm.

Hẳn trong thâm tâm thấy ca dao chỉ chỉnh, đảo một chữ thôi trong câu thơ của mình “… lại múc trăng vàng” thành ca dao “múc ánh trăng vàng” làm dậy lên một hồi âm đẹp tuyệt, một hình tượng nghệ thuật thật đắt để biến một câu lục bát thường thường bậc trung thành câu thơ tuyệt vời.

Trước đó, “ánh trăng” không sáo mòn ấy đã làm nên câu thơ mới trọn vẹn bước thơ, vang dội cấu tứ trong bài Nhớ rừng để đời của Thế Lữ: “Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan”. Sau này, Cung Trầm Tưởng tân kỳ lục bát là thế cũng “Ánh trăng quện nước gầu sòng. Trời loang loãng cháo dưới dòng sao tâm”.

Như bao nhà thơ khác, Bàng Bá Lân một mực ngưỡng mộ câu ca dao lục bát: “Gió đưa hoa cải lên trời. Rau răm ở lại chịu đời đắng cay” thơ hơn bất kỳ một câu thơ trác tuyệt nào khác. Một tính thơ mơ hồ, đa nghĩa, huyền ảo của câu lục bát ca dao ấy đến độ cực đại. Giữa các từ ngữ, nhịp điệu, hình tượng là những quãng không. Mỗi lần đọc là một thao tác lấp đầy các khoảng trống đó, là một diễn dịch mới mênh mông thi tứ, đong đầy cảm xúc.

Nghe Tùng Dương hát Quê nhà của Trần Tiến, ai mà chẳng thấy phiêu linh cứ như bay, bay lên tít trời cao xanh cùng hoa cải, nhưng lại nặng lòng nỗi đắng cay, ngọt bùi nhân gian níu kéo lại với rau răm nơi trần thế. Đằng nào hơn, sao tỏ tường được đây, mỗi người mỗi phách!

Qua bốn ngàn năm, các thi sĩ tài hoa dân gian đã đi vào dĩ vãng, ca dao còn lại thành di sản văn chương, không đứt đoạn với thơ ca mà làm nền móng vững chãi, màu mỡ để lục bát thăng hoa hiện đại.

Huy Cận đã làm thay đổi thẩm mỹ lục bát ca dao – triệt hạ tính tự sự để chất ngất cái trữ tình, cổ kính hóa lục bát như thơ Đường cao sang bằng sự cô đọng chắt chiu, biến cái buồn mênh mang thành nỗi sầu vạn cổ…

Bái phục, nhưng Cung Trầm Tưởng vẫn cứ thoát khỏi vầng vàng son ảnh hưởng, tác động lớn lao ấy để bước trên con đường lục bát ca dao tân kỳ của mình.

Giữa thế kỷ trước, Cung Trầm Tưởng xuất hiện trên thi đàn chói sáng với tập thơ đầu tay Tình ca được đón nhận nhiệt liệt – năm trong số 13 bài được các nhạc sĩ đua nhau phổ nhạc. Trong số đó, nổi trội đặc sắc bài thơ hẹn tình Kiếp sau với cô gái bên trời Âu: “Quên em xanh mắt bồ câu. Tơ vàng sợi nhỏ xin hầu kiếp sau” mang hơi thơ cổ điển, nặng hồn lục bát ca dao.

Với Cung Trầm Tưởng, làm thơ là làm chữ, chữ cặp với chữ thành bước thơ tung tẩy thi tứ. Trong Kiếp sau, ông trau chuốt buông chữ: bù em, quên em… đầu câu: Bù em nối núi chung đồi, rồi treo chữ: cũng rồi, nghe dường… vần lưng trong câu tám kế tiếp: Thiêu nương đốt lá cũng rồi hoang sơ, lại đảo chữ – mòn trông, tạo cảnh: chiều lu: Mòn trông ngưỡng cửa chiều lu mãi sầu.

Ông khổ công gieo chữ thần tình, làm lỗi nhịp, đảo cái thần lục bát ca dao là nhằm tục lụy hóa cái cổ điển, hóa thân ca dao lục bát hiện sinh. Bà Thụy Khuê lý luận văn chương ở Pháp rúng động: “Cung Trầm Tưởng đã xướng lên một thứ cổ dao tân kỳ hiện sinh”: …“Quên thôi bông sẽ phai hường. Mà xưa tiếng gọi nghe dường thiên thu. Non sông bóng mẹ sầu u. Mòn trông ngưỡng cửa chiều lu mãi sầu…”.

Ca dao nhất nhất nói lên điều hay lẽ phải, cái đẹp cái hay, tính hướng thiện, lòng nhân ái. Ca dao là tâm hồn dân tộc. Nó chuyển tải suy tư, chất chứa tâm tình cho người, cho đời. Cho những hẹn hò gái trai, cho những náo nức hội mùa, cho làng trên xóm dưới. Cho cả những vết thương lòng. Ca dao còn “lấy nhân nghĩa thắng hung tàn”, cảm hóa người thương cảm người hơn, san sẻ cho nhau hơn, bồi đắp tình làng nghĩa xóm.

Ca dao tuyệt nhiên không dung cái xấu xa, cay nghiệt, cái hận thù, ác độc, sự chém giết, sát hại lẫn nhau. Ca dao không bao giờ có cô Tấm từ trong trái thị thơm tho bước ra lại ác nghiệt xúi dại em gái Cám tắm gội bằng nước rõ sôi hòng da dẻ trắng mịn như trứng gà bóc, rồi làm mắm trả ác với dì ghẻ. Ca dao chỉ trải nghiệm: “Mấy đời bánh đúc có xương. Mấy đời mẹ ghẻ có thương con chồng” thế thôi.

Cứu cánh của ca dao là nuôi dưỡng tâm hồn Việt: “Mẹ ru cái lẽ ở đời. Sữa nuôi thân xác, hát nuôi phần hồn” (Yên bình), Huy Cận tinh tế, cảm nhận ngay cái “hồn thiêng đất nước” trong tiếng ru hời ca dao mẹ Việt Nam: “Sơ sinh lòng mẹ đưa nôi. Hồn thiêng đất nước còn ngồi bên con”.

Thế hệ sau, Trịnh Công Sơn lòng quặn thắt những xô bồ, ác nghiệt xô đẩy cuộc sống, đời người xa rời lời ru ca dao lục bát của mẹ: “Em chưa hát ca dao một lần… máu lạnh trong tim… lời nói yêu thương mất rồi”.

Cùng một suy tư âu lo ấy, Cao Xuân Hạo, sinh thời, không biết bao lần khẩn khoản đề nghị đưa ngay ca dao vào học đường, khi con trẻ vừa cắp sách tới trường. Trước là dễ học, dễ nhớ để một yêu: “Tiếng Việt rung rinh nhịp đập trái tim… Tiếng trong trẻo như hồn dân tộc Việt”. Sau là “Ai đời sau nói tiếp những lời yêu” (Lưu Quang Vũ), “Từ nay người biết yêu người” như Văn Cao khát khao cất lên thành tiếng hát Mùa xuân đầu tiên.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng ký tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
+4đ tặng

Ca dao không những là tiếng nói của khối óc mà chủ yếu còn là tiếng nói trái tim của nhân dân ta. Thật vậy, trong hàng ngàn năm sống, làm việc và chiến đấu đã qua, cha ông ta đã bày tỏ tình cảm buồn vui của mình trong vô vàn câu ca dao gợi cảm. Qua đó, chúng ta cảm nhận được những tình cảm thiết tha và cao quý của người Việt Nam mình thật rõ rệt.

Đầu tiên, tiếng nói trái tim ấy thể hiện khá sinh động tình yêu quê hương đất nước của cha ông ta. Đó là niềm tự hào, gắn bó khăng khít với bao danh lam thắng cảnh của nơi chôn nhau cắt rốn.

Điều này dễ hiểu. Thời xưa, điều kiện đi lại khó khăn, hiểu biết của mỗi người đều có hạn, ít ai hình dung được hết một dải gấm vóc non sông trải dài từ Bắc chí Nam của đất nước mình. Do vậy, mỗi người, ai cũng gắn bó máu thịt với làng mạc quê hương, ruộng lúa, bờ tre, ngọn rau, tấc đất của mình. Chính vì lẽ đó mà người dân xứ Lạng tự hào:

Đồng Đăng có phố Kì Lừa
Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh
Ai lên xứ Lạng cùng anh
Bỏ công hác mẹ sinh thành ra em.
Người con của mảnh đất xứ Nghệ cũng hãnh diện về quê hương mình:
Đường vô xứ nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
 

Xưa kia hay ngay cả bây giờ, trong hàng triệu người Việt Nam, có biết bao người chưa một lần đặt chân đến Kinh Kì (Đông Đô, Thăng Long, Hà Nội), mảnh đất trái tim Tổ quốc. Thế nhưng ai lại không xúc động tâm hồn khi nghe thấy những lời ca thắm thiết:

Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.

Dù yêu một cây đa bến nước vô danh, hay yêu bức "họa đồ" của một vùng "non xanh nước biếc" hữu danh nào đó, thì đấy cùng là khởi điểm của tình yêu đất nước, là tình cảm cao quý, thiêng liêng đối với hồn thiêng sông núi Việt Nam.

Chính từ tình yêu cao cả ấy mà mỗi người Việt Nam xác định được một thái độ tình cảm đúng đắn, đôi xử với nhau, "chị ngã em nâng", "lá lành đùm lá rách", hỗ trợ nhau trong hoàn cảnh ngặt nghèo. Khi ấy, lòng yêu nước thể hiện ra ở tình cảm đồng bào máu thịt:

Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.

Bầu và bí tuy là khác giống, nhưng vẫn là nghĩa chị tình em, vì cùng sinh trưởng chung trên một giàn. Con người đâu khác. Tuy nguồn gốc, hoàn cảnh và địa vị xã hội khác nhau, nhưng mọi người vẫn tồn tại trong cùng chung một đất nước. Trong quá trình dài lâu sống chung với nhau như thế, tình cảm hình thành, phát triển, trong ngôn ngữ Việt Nam chúng ta có từ đồng bào để chỉ "người trong một nước". Từ đó, một câu ca dao đầy gợi cảm đã nảy sinh từ nghìn xưa, đến nay ai ai cũng nhớ nằm lòng:

Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng.

Trong ca dao Việt Nam, tình yêu đất nước đồng bào thiết tha, nồng thắm bao nhiêu thì tình cảm gia đình càng thiết tha nồng thắm bấy nhiêu. Điều này đã rõ. Gia đình từ nghìn xưa vốn là đơn vị cơ bản của đất nước. Gia đình thuận hòa, êm ấm là góp phần làm nên một xã hội phồn vinh hạnh phúc. Ai cũng biết trong tình cảm gia đình, cao quý nhất là tình cảm của con cái đối với các bậc sinh thành. Ca dao có biết bao câu tuyệt đẹp về mối quan hệ này:

Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Đặc biệt, ca dao có những câu tuyệt đẹp về tình cảm mẹ con:
Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương.
Vì thế, khi chia xa, phải rời mẹ, có người con nào không khỏi bâng khuâng đau xót:
Chiều chiều chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau.

Trân trọng tình cảm gia đình, nhân dân ta đề cao tình yêu vợ chồng gắn bó nồng thắm, thủy chung. "Thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn". Cả trong cảnh ngộ đói nghèo, khổ cực, người bình dân vẫn yêu đời:

Râu tốm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon.
Bởi lẽ họ nghĩ là:
Thà rằng ăn bát cơm rau
Còn hơn cá thịt nói nhau nặng lời.

Trong cuộc sống, nhân dân phải làm việc vất vả, thường xuyên va chạm với biết bao trở ngại chông gai, hiểm nguy, cùng cực, nhưng từ nghìn xưa, người lao động vẫn luôn giữ được lòng son sắt với cuộc đời. Có gì nhọc nhằn hơn công việc một nắng hai sương, dầm mưa dãi gió, để mong sao có được "dẻo thơm một hạt". Thế mà họ làm nên được bao khúc hòa ca lao động:

Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.

Mỗi thành viên một việc làm, kể cả con trâu nữa chứ! Đủ thấy đối với nhà nông, thật đúng "con trâu là đầu cơ nghiệp", nên được họ yêu thương biết mấy. Thử nghe lời họ thủ thỉ với con trâu:

Trâu ơi! Ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây, trâu đấy, ai mà quản công
Bao giờ cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.

Gắn bó khăng khít với thiên nhiên, hơn ai hết, người nông dân cảm thấy yêu mến, hãnh diện trước bức tranh thiên nhiên hào phóng, tươi đẹp, có cả phần xương máu, mồ hôi của cha ông bao đời, của cả chính mình góp phần tô điểm:

Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng mênh mông bát ngát
Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng bát ngát mênh mông
Thân em như chẽn lúa đòng đòng
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai.

Chính lòng yêu đời, niềm lạc quan, đã giúp người lao động vượt lên mọi gian khổ để vui sống, vững tin:

Công lênh chẳng quản bao lâu
Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng.

Cho dù phải lâm vào cảnh đời đau thương tủi cực, phải lỡ bước sa chân, người nông dân hướng thiện, trước sau vẫn giữ vẹn một tấm lòng nhân hậu thủy chung, nào khác con cò trong câu ca dao gợi cảm: dù chết vẫn muốn được chết trong sạch, thanh cao:

Cỏ xáo thời xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.
 

Bởi vậy, có người so sánh vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân với hoa sen:

Nhụy vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Là phương tiện để bày tỏ tiếng nói trái tim, nói chung, ca dao đã thể hiện khá sinh động, tuy chưa phải là đầy đủ và toàn diện những sắc thái tình cảm thiết tha và cao quý của nhân dân lao động, nhưng cũng đủ cho ta thấy một đời sống tinh thần phong phú, đa dạng của những người đã sản sinh ra nó.

Ngày nay đọc lại, ai cũng thấy ngoài giá trị nghệ thuật văn chương, ca dao còn có giá trị nhân văn to lớn.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 7 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo