nội dung giáo lí của phật giáo
Bằng cách nhấp vào Đăng nhập, bạn đồng ý Chính sách bảo mật và Điều khoản sử dụng của chúng tôi. Nếu đây không phải máy tính của bạn, để đảm bảo an toàn, hãy sử dụng Cửa sổ riêng tư (Tab ẩn danh) để đăng nhập (New Private Window / New Incognito Window).
Giáo lý cơ bản của đạo Phật nằm gọn trong bốn Chân lý cao cả (cattari ariyasaccani: Tứ Diệu Đế hay Tứ Thánh Đế) là:
1- Dukkha (Khổ đế). 2- Samudaya (Tập đế) nguyên nhân của Dukkha. 3- Nirodha (Diệt đế) sự ngừng dứt của Dukkha và 4- Magga (Đạo đế) con đường dẫn đến sự diệt Dukkha.
Cái Chân lý thứ nhất (Dukkha-ariyasacca) đại khái được toàn thể các nhà bác học dịch là: Cái Chân lý cao cả về Sự Khổ, làm cho con người ta phải ngầm hiểu rằng, theo Phật giáo, có sống là có đau có khổ. Lối diễn dịch ấy không được đúng lắm và chỉ làm cho người ta sai lạc. Chính vì đây mà nhiều người lầm, cho Phật giáo là một nền giáo lý bi quan. Sự thật, Phật giáo không bi quan mà cũng không lạc quan. Phật giáo hoàn toàn đứng ở cái gốc hết sức là thực tế mà nhìn đời sống và thế giới. Mà sự thật, lắm khi không được tươi đẹp như chúng ta mong. Nhưng Phật giáo khách quan mà xét nhận, dù điều ấy có làm cho chúng ta vui lòng hay phẫn ý cũng vậy. Phật giáo không kiếm cách ru ngủ chúng ta bằng ảo vọng, Phật giáo cũng không cố dìm chúng ta xuống cái trũng hồi hộp của mọi thức sợ hãi và tội lỗi tưởng tượng. Chúng ta như thế nào, cuộc đời như thế nào, Phật giáo khách quan (yathabutam = như thị) mà nói như thế, Phật giáo chỉ đường cho chúng ta đi đến chỗ tự tại hoàn toàn, đi đến chỗ an lạc, tịch tĩnh, hạnh phúc.
Một bác sĩ có thể, bệnh ít nói nhiều và từ chối không chịu cho thuốc. Trái lại, một bác sĩ khác có thể, vì thiếu tài, nói rằng bệnh nhân không đau gì hết, không cần uống thuốc và đánh lừa con bệnh bằng những lời vỗ về thất thiệt. Cứ xét hai trường hợp ấy đủ thấy: ông trước thì bi quan, ông sau thì lạc quan, cả hai đều nguy hiểm như nhau. Nhưng ông thứ ba lại không thế, ông kỹ lưỡng xem xét các chứng, lên bệnh án một cách đúng đắn rồi, sau khi định rõ nguyên nhân và loại bệnh, ông quyết ý đầu thang, con bệnh uống vào là khỏi, Đức Phật giáo như vị bác sĩ thứ ba này. Ngài là bậc vô thượng y vương liễu vị trị các bệnh thế gian.
Quả thật, danh từ Pa li dukkha (Phạn ngữ: duhkha) thông thường có nghĩa là "khổ thống", là "đau đớn", là "khốn khổ", ngược lại với danh từ sukha, có nghĩa là"hạnh phúc", "an nhàn". Nhưng trong văn cú của Thánh đế thứ nhất, danh từ dukkha được dùng theo nghĩa triết học, vì vậy hàm chứa một ý nghĩa rộng rãi hơn nhiều. Ở đây, ngoài cái nghĩa hiểu nhận là đau khổ, danh từ dukkha còn bao quát những khái niệm thâm trầm hơn về cái lẽ vô thường, không vô ngã, xung khắc. Vậy thấy rõ không thể nào tìm ra một danh từ khác đủ nghĩa bằng danh từ dukkha trong văn cú của đệ nhất Thánh đế.
Phật giáo không chối cãi rằng trong đời không có hạnh phúc. Trái lại, Phật giáo nhìn nhận có nhiều thứ hạnh phúc, vật chất và tinh thần, mà kẻ tại gia cũng như những người xuất gia đều hưởng được. Nhưng những hạnh phúc ấy không lọt khỏi vùng dukkha. Dù ở những bậc tham thiền nhập định tới trình độ cao nhất đi nữa, mà tâm trạng được hoàn toàn thanh tịnh, hoàn toàn giải thoát mọi thống khổ, theo nghĩa thông thường và được xem như một trạng thái an lạc khó tả, dù trong chánh định là lúc mà tâm không còn thấy khổ, thấy sướng, luôn luôn bình đẳng, luôn luôn sáng suốt, tất cả những "thiền duyệt"(5) ấy cũng còn kẹt trong vòng dukkha. Còn kẹt, vì còn bị chi phối, vì còn chịu luật biến dịch, vì vô thường, vì vô ngã.
Cái khái niệm về dukkha có thể xét nét dưới ba quan điểm:
1- Quan điểm khổ (dukkha-dukkhatà), 2- Quan điểm biến dịch (viparinama-dukkhatà), 3- Quan điểm duyên khởi, uẩn tập (sankhara-dukkhatà).
Tất cả những hình thức đau khổ gặp trên bước thế đồ, nhưng những đau khổ thuộc về sanh, già, bệnh, chết, tất cả những gì thuộc về các cảnh đứt ruột nát lòng, như thương mà phải lìa, muốn mà không được, lại như những phút sầu muộn, cực lòng, nguy khốn, nói tóm lại, tất cả những gì mà toàn thể nhân loại đồng ý công nhận là đớn đau, đều nằm trong dukkha, dưới cái quan điểm thứ nhất là khổ.
Một tình trạng thích ý, một địa vị sung sướng có bao giờ lâu dài. Chẳng sớm thì muộn, phải có sự thay đổi. Những cái ấy mà mất đi thì tránh sao khỏi buồn rầu, đau khổ. Sự biến thiên ấy cũng nằm trong dukkha, dưới cái quan điểm biến dịch.
Cái hình thức thứ ba của dukkha, dưới quan điểm uẩn tập, đòi hỏi vài giải thích. Muốn hiểu thế nào là uẩn tập, cần phải phân tách cái mà chúng ta quen xem như một "vật", một "cá nhân", cái mà chúng ta gọi là "ta". Tất cả những cái ấy, theo Phật giáo, chỉ là một sự kết hợp của nhiều năng lực luôn luôn biến dịch, trong đó người ta nhận thấy có năm khối chồng chất, tập hợp mà thành (pancakkandha = ngũ uẩn). Đức Phật dạy : "Nói tắt, năm uẩn ấy là dukkha". Thật vậy, cần phải nhận rõ rằng dukkha và năm uẩn không phải riêng khác nhau, mà năm uẩn là dukkha vậy. Chúng ta sẽ hiểu rõ lẽ này hơn, nếu chúng ta tìm xét coi năm uẩn ấy là gì, năm uẩn mà sự tổng hợp kết thành cái mà chúng ta đồng ý gọi một "vật".
Uẩn thứ nhất (rùpakkhanda = sắc uẩn) thuộc về vật chất. Triết học Phật giáo dùng danh từ này để chỉ bốn yếu tố trọng đại (tứ đại), là ba yếu tố bền chặt (địa), yếu tố lỏng chảy (thủy), yếu tố tinh lực (hỏa) và yếu tố lay động (phong), luôn cả những cái tùy thuộc của bốn yếu tố ấy. Những tùy thuộc này gồm có năm giác quan vật chất, lấy mắt, tai, mũi, lưỡi và thân làm cơ sở, luôn cả những đối tượng của những giác quan ấy ở ngoại cảnh là: Những hình tướng mắt thấy, tiếng tăm, mùi vị, những vật đụng chạm và những vật do tâm thức hình dung (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp). Vậy sắc uẩn bao gồm trọn vẹn cái cảnh giới vật chất, sắc tướng của thân và tâm.
Uẩn thứ nhì (vedenàkkhandha = thọ uẩn) là khối cảnh giác, gồm tất cả những cảnh giác của chúng ta, bất luận lạc hay khổ, hoặc không lạc mà cũng không khổ, do sự tiếp xúc của những giác quan với ngoại cảnh làm nảy sanh, như khi mắt tiếp xúc với hình dáng, tai tiếp xúc với tiếng tăm, mũi tiếp xúc với các thứ mùi, lưỡi tiếp xúc với các thứ vị, thân tiếp xúc với những rờ đụng được và chốt hết khi ý thức (mà tâm lý học Phật giáo xem như giác quan thứ sáu) tiếp xúc với những vật tưởng tượng. Vậy tất cả những cảm giác thuộc về thể xác và tâm thức đều xếp vào cái uẩn thứ nhì này.
Uẩn thứ ba (sannakkhandla = tưởng uẩn) là khối của tư tưởng, do sự tiếp xúc với ngoại cảnh mà phát sinh, giống như những cảm giác.
Uẩn thứ tư (sankhàrakkhandha = hành uẩn) là khối của những hành động trong tâm thức, hoặc thiện hoặc ác và có thể tạo những hậu quả về mặt nghiệp báo. Như sự chú ý (manasikàra), ý chí (chanda), quyết định (adhimokkha), tin cậy (saddhà), định ý (samàdhio), trí tuệ (pannà), trí lực (viriya), tham lam (raga), sân hận (patigha), kiêu mạn (màna), ngã kiến, ngã chấp (sakkàyaditthi), v.v.. Tâm lý học Phật giáo phân tích có 52 thứ hành động của tâm thức mà tổng số kết thành hành uẩn.
Uẩn thứ năm (vinnànakkhandha = thức uẩn) là cái khối của tâm thức hay tri thức. Tri thức là một phản ứng, là một lời đáp, lấy mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý làm cơ sở (căn) và lấy một hiện tượng bên ngoài làm đối tượng (trần). Nhãn thức (cái biết bằng mắt), thí dụ, lấy mắt làm "căn" và lấy một hình dáng thấy được làm "trần". Những cái thức ấy của các "căn" khác cũng thế.
Đại khái, năm uẩn là như vậy. Cái mà chúng ta quen gọi một"vật", một"người" hay "ta" chỉ là một cái danh đặt ra để chỉ cái khối năm uẩn ấy mà cơ cấu có thể như một thế này hay như một thế khác. Năm uẩn này vô thường vì nằm trong cái dòng sinh, diệt triền miên, bất đoạn. Một vật này mất, để làm duyên cho một vật khác sinh ra, sinh diệt, diệt sinh kết thành một tràng nhân quả liên tục. Tất cả những cái sinh diệt, diệt sinh ấy ví như một bức màng mà phía sau không có một cái gì có thể gọi là "chủ tể" thường còn (àtman), là một cá tánh; không có gì, chân chính mà nói, đáng gọi là"ta". Vật chất là "ta" ư? Cảm giác, tư tưởng là "ta" ư? Những tính toan lo nghĩ, những cái biết bằng mắt, bằng tai v.v.. là "ta" ư? Không, trong tất cả những cái ấy, không một cái nào đáng gọi thực là "ta". Lúc nào những khối vật chất và tình thức (chỉ năm uẩn) cùng nhau tương giao tương hợp trong cái máy thân tâm ấy thì ý niệm "ta" nảy sinh. Nhưng đó là một ấn tượng (impression) sai lầm. Cái "ta" hư phù (apparent) ấy, thật ra, không gì khác hơn là một ý niệm (idée), là một trong 51 cái "tâm sở" mà các nhà tâm lý học tinh vi của Phật giáo đã tìm thấy khi phân tách cái khối "hành uẩn". Toàn thể năm uẩn, mà ta xem như là một vật, là dukkha với cái nghĩa là những trạng thái duyên khởi (sankhàra-dukkhatà). Không có "vật" nào, không có "chủ tể" nào đứng phía sau năm uẩn để thọ dukkha (khổ). Nói một cách khác, không có người tư tưởng đứng sau tư tưởng, không có tâm vương đứng sau tâm sở. Chính tư tưởng là người tư tưởng, chính tâm sở là tâm vương đó. Lấy tâm sở đi, không còn tâm vương. Cái quan niệm này của Phật giáo thật là trái hẳn với câu: 'Tôi tư tưởng, vậy thời có tôi" của Descartes.
Cái chân lý về dukkha là vậy. Chân lý ấy không mảy may làm cho đời sống người Phật tử buồn thảm, ảo não như một số người lầm tưởng. Một đệ tử chân chính của Phật, trái lại, người hết sức sung sướng trên thế gian: Không sống trong sợ sệt, âu lo, luôn luôn bình thản, an nhàn, không xao động trước những biến cố, không thất kinh tán đảm trước tai họa, "vì như thị" mà nhìn mà nhận vạn vật. Đức Phật trọn đời không biết buồn là gì. Các người đồng thời với Ngài đều nói rằng lúc nào cũng thấy Ngài với "nụ cười trên môi". Dù vẽ trên tranh, dù đắp thành tượng, gương mặt Ngài đều được nhất luận diễn tả dưới những nét hoan hỷ và an tĩnh. Không khi nào trên gương mặt ấy ta thoáng thấy một vẻ u buồn, phiền muộn. Hai quyển sách xưa, Theragàthà và Therigàthà, chứa đầy những lời hoan lạc của các thiện nam tín nữ đã nhờ giáo pháp của Ngài mà sống trong an lạc. Một hôm, vua nước Kosala bạch với Phật: Không biết thế nào mà đệ tử các đạo giáo khác, mỗi khi gặp họ, thì thấy họ có vẻ hung tợn, khắc nghiệt, mặt mét, mình gầy, còn trái lại đệ tử của Ngài, ông nào ông nấy đều vui tươi, bình tĩnh, mặt mày như hoa nở, thung dung, tự tại, an nhiên, tâm hồn thư thái lạ lùng". Nhà vua nói thêm:"Các đại đức mà được thanh tịnh như thế, chắc chắn là đã thực chứng được cái giáo lý cao cả và thâm sâu của Thế Tôn"(6). Tinh thần của Phật giáo là hoàn toàn nghịch hẳn với một thái độ trầm ngâm và ủ rủ, vì đó là một trở ngại cho sự tu chứng. Lại nữa, nên nhớ rằng Hỷ là một trong bảy đức tánh cần phải trau dồi, để chứng quả Niết bàn.
Tham gia Cộng đồng Lazi trên các mạng xã hội | |
Fanpage: | https://www.fb.com/lazi.vn |
Group: | https://www.fb.com/groups/lazi.vn |
Kênh FB: | https://m.me/j/AbY8WMG2VhCvgIcB |
LaziGo: | https://go.lazi.vn/join/lazigo |
Discord: | https://discord.gg/4vkBe6wJuU |
Youtube: | https://www.youtube.com/@lazi-vn |
Tiktok: | https://www.tiktok.com/@lazi.vn |
Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi
Vui | Buồn | Bình thường |