LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Nội dung giáo lí của phật giáo

nội dung giáo lí của phật giáo

1 trả lời
Hỏi chi tiết
270
1
0
Phonggg
11/11/2020 20:52:01
+5đ tặng

Giáo   lý cơ bản  của  đạo Phật nằm gọn trong bốn Chân  lý cao cả (cattari ariyasaccani: Tứ Diệu  Đế hay Tứ Thánh  Đế) là:

1- Dukkha (Khổ đế). 2- Samudaya (Tập đế) nguyên  nhân của Dukkha. 3- Nirodha (Diệt  đế) sự ngừng  dứt của Dukkha và 4- Magga (Đạo đế) con đường dẫn đến sự diệt Dukkha.

Cái  Chân   lý thứ nhất  (Dukkha-ariyasacca) đại khái được toàn thể các nhà bác học  dịch là: Cái  Chân   lý cao cả về Sự Khổ,  làm cho con người ta phải ngầm  hiểu rằng,  theo Phật giáo,   có sống  là có đau có khổ. Lối diễn  dịch  ấy không  được đúng  lắm  và chỉ làm  cho người ta sai lạc. Chính vì đây  mà nhiều người lầm, cho Phật  giáo  là một  nền  giáo  lý bi quan. Sự thật, Phật giáo không  bi quan mà cũng không  lạc quan. Phật giáo hoàn toàn đứng ở cái  gốc   hết   sức  là thực  tế mà nhìn đời sống  và thế giới. Mà sự thật,  lắm khi không được tươi đẹp như chúng ta mong. Nhưng Phật giáo khách quan mà xét nhận,  dù điều  ấy có làm  cho chúng ta vui lòng hay phẫn ý  cũng vậy. Phật giáo không kiếm cách ru ngủ chúng ta bằng  ảo vọng, Phật giáo cũng không  cố dìm chúng ta xuống  cái trũng hồi hộp của mọi  thức sợ hãi và tội lỗi tưởng tượng. Chúng ta như thế nào, cuộc đời như thế nào, Phật giáo khách quan (yathabutam = như thị)  mà nói như thế, Phật giáo chỉ đường  cho chúng ta đi đến chỗ tự tại hoàn toàn, đi đến chỗ an lạc, tịch tĩnh, hạnh phúc.

Một bác sĩ có thể, bệnh  ít nói nhiều   và từ chối không chịu cho thuốc. Trái lại, một bác sĩ khác có thể,  vì thiếu  tài, nói rằng bệnh nhân không đau gì hết, không  cần uống thuốc và đánh lừa con bệnh bằng những lời vỗ về thất thiệt.  Cứ xét hai trường hợp  ấy đủ thấy:  ông trước  thì bi quan, ông sau thì lạc quan, cả hai đều nguy hiểm như nhau. Nhưng ông thứ ba lại không thế, ông kỹ lưỡng  xem xét các chứng,  lên bệnh  án một cách đúng đắn rồi, sau khi định  rõ nguyên nhân và loại  bệnh,  ông quyết ý đầu thang, con bệnh  uống  vào là khỏi,  Đức Phật  giáo  như vị bác sĩ thứ ba này.  Ngài  là bậc  vô thượng y vương liễu vị trị các bệnh thế gian.

Quả thật, danh từ  Pa li dukkha (Phạn ngữ: duhkha) thông thường   có nghĩa là "khổ thống", là "đau đớn",  là "khốn khổ", ngược lại với danh từ sukha, có nghĩa là"hạnh phúc", "an nhàn". Nhưng trong văn  cú của Thánh   đế thứ nhất,  danh từ  dukkha được dùng theo nghĩa triết học, vì vậy hàm chứa một ý  nghĩa rộng  rãi hơn nhiều. Ở  đây, ngoài  cái nghĩa hiểu  nhận  là đau khổ, danh từ dukkha còn bao quát những khái niệm thâm trầm hơn về cái lẽ vô thường, không vô ngã, xung khắc.  Vậy thấy rõ không  thể nào tìm ra một danh từ khác  đủ nghĩa bằng danh từ dukkha trong văn  cú của đệ nhất Thánh  đế.

Phật giáo không chối cãi rằng trong đời không có hạnh phúc. Trái lại, Phật giáo nhìn nhận  có nhiều  thứ hạnh  phúc, vật chất và tinh thần,  mà kẻ tại gia cũng như những người xuất gia đều hưởng được. Nhưng những hạnh  phúc ấy không  lọt khỏi vùng dukkha. Dù  ở những bậc tham thiền  nhập  định  tới trình độ cao nhất đi nữa, mà tâm trạng được hoàn toàn thanh tịnh, hoàn toàn giải thoát mọi thống khổ, theo nghĩa thông thường và được xem như một trạng  thái an lạc  khó tả, dù trong chánh định là lúc mà tâm không  còn thấy khổ, thấy sướng,  luôn luôn bình đẳng, luôn luôn  sáng  suốt,  tất cả những "thiền duyệt"(5)   ấy cũng  còn kẹt trong vòng dukkha. Còn kẹt, vì còn bị chi phối, vì còn chịu luật biến dịch, vì vô thường, vì vô ngã.

Cái khái niệm  về dukkha có thể xét nét dưới  ba quan điểm:

1- Quan điểm khổ (dukkha-dukkhatà), 2- Quan điểm biến dịch (viparinama-dukkhatà), 3- Quan  điểm duyên khởi,  uẩn  tập (sankhara-dukkhatà).

Tất cả những hình thức đau khổ gặp trên bước thế đồ, nhưng những đau khổ thuộc  về sanh, già, bệnh,  chết,  tất cả những  gì thuộc  về các cảnh  đứt ruột nát lòng,  như thương mà phải lìa, muốn mà không  được,  lại như những phút sầu muộn, cực lòng, nguy khốn,  nói tóm lại,  tất cả những  gì mà toàn thể nhân loại đồng ý công  nhận  là đớn đau, đều nằm trong dukkha, dưới cái quan điểm  thứ nhất là khổ.

Một tình trạng thích ý, một  địa  vị sung sướng  có bao giờ lâu dài. Chẳng sớm thì muộn, phải có sự thay đổi. Những cái ấy mà mất đi thì tránh sao khỏi buồn rầu, đau khổ. Sự biến thiên  ấy cũng nằm trong dukkha, dưới cái quan điểm biến dịch.

Cái hình thức thứ ba của dukkha, dưới quan điểm uẩn tập, đòi hỏi vài giải thích. Muốn  hiểu thế nào là uẩn tập, cần phải phân  tách cái mà chúng  ta quen xem như một "vật",  một "cá nhân",  cái mà chúng  ta gọi  là "ta". Tất cả những  cái ấy, theo Phật  giáo,  chỉ là một sự kết hợp của nhiều năng lực luôn luôn biến dịch, trong đó người ta nhận thấy có năm khối chồng chất, tập hợp  mà thành  (pancakkandha  = ngũ uẩn). Đức Phật dạy : "Nói  tắt, năm  uẩn ấy là dukkha". Thật  vậy, cần phải nhận  rõ rằng dukkha và năm uẩn không phải riêng khác nhau, mà năm uẩn  là dukkha vậy. Chúng ta sẽ hiểu  rõ lẽ này hơn, nếu chúng ta tìm xét coi năm  uẩn  ấy là gì, năm uẩn mà sự tổng hợp  kết thành  cái mà chúng ta đồng ý gọi một "vật".

Uẩn  thứ nhất  (rùpakkhanda = sắc uẩn) thuộc về vật chất. Triết học Phật giáo dùng danh từ này để chỉ bốn  yếu  tố trọng đại  (tứ đại), là ba yếu  tố bền chặt (địa), yếu tố lỏng  chảy  (thủy), yếu  tố tinh lực (hỏa)  và yếu tố lay động (phong), luôn  cả những cái tùy thuộc  của bốn yếu tố ấy. Những  tùy thuộc  này gồm có năm giác quan vật chất, lấy mắt, tai, mũi, lưỡi và thân làm cơ sở, luôn cả những  đối tượng  của những  giác quan ấy  ở ngoại cảnh là: Những  hình tướng mắt thấy, tiếng tăm, mùi vị, những vật đụng  chạm  và những vật do tâm thức hình dung (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp).  Vậy sắc uẩn bao gồm trọn  vẹn  cái cảnh giới vật chất,  sắc tướng  của thân  và tâm.

Uẩn thứ nhì (vedenàkkhandha = thọ  uẩn)  là khối cảnh giác, gồm  tất cả những cảnh giác của chúng ta, bất luận lạc hay khổ, hoặc không  lạc mà cũng không  khổ, do sự tiếp xúc của những giác quan với ngoại  cảnh làm nảy sanh, như khi mắt tiếp xúc với hình dáng, tai tiếp xúc với tiếng  tăm, mũi tiếp xúc với các thứ mùi, lưỡi tiếp xúc với các thứ vị, thân tiếp xúc với những  rờ đụng được và chốt hết khi ý thức  (mà  tâm  lý học Phật giáo xem như giác quan thứ sáu) tiếp xúc với những  vật tưởng  tượng. Vậy tất cả những  cảm giác thuộc  về thể xác và tâm thức đều xếp vào cái uẩn thứ nhì này.

Uẩn  thứ ba (sannakkhandla  = tưởng   uẩn)  là khối  của  tư tưởng, do sự tiếp xúc với ngoại  cảnh mà phát sinh, giống như những cảm giác.

Uẩn thứ tư (sankhàrakkhandha = hành uẩn) là khối của những hành động trong tâm  thức,  hoặc  thiện  hoặc  ác và có thể tạo những hậu quả về mặt nghiệp  báo. Như sự chú ý (manasikàra), ý   chí (chanda),  quyết  định (adhimokkha),  tin cậy (saddhà), định ý  (samàdhio), trí tuệ (pannà),  trí lực (viriya), tham lam (raga), sân hận (patigha), kiêu mạn (màna), ngã kiến, ngã chấp (sakkàyaditthi), v.v.. Tâm   lý học Phật giáo phân tích có 52 thứ hành  động  của tâm thức mà tổng số kết thành  hành  uẩn.

Uẩn thứ năm  (vinnànakkhandha = thức uẩn)  là cái khối  của tâm thức hay tri thức. Tri thức  là một  phản  ứng,  là một  lời đáp, lấy mắt, tai, mũi, lưỡi, thân  và ý làm cơ sở (căn)  và lấy một hiện tượng  bên ngoài làm đối tượng  (trần).  Nhãn thức (cái biết bằng mắt), thí dụ,  lấy mắt làm "căn"  và lấy một hình dáng thấy được làm "trần".  Những cái thức ấy của các "căn"  khác cũng thế.

 

Đại  khái,  năm  uẩn là như vậy.  Cái mà chúng  ta quen gọi một"vật", một"người" hay "ta" chỉ là một  cái danh đặt ra để chỉ cái khối  năm  uẩn  ấy mà cơ cấu  có thể  như một thế này hay như một thế khác. Năm uẩn này vô thường  vì nằm trong cái dòng  sinh, diệt triền  miên,  bất đoạn. Một  vật này mất, để làm duyên  cho một vật khác sinh ra, sinh diệt, diệt sinh kết thành  một tràng  nhân  quả liên tục.  Tất cả những  cái sinh diệt, diệt sinh ấy ví như một bức màng  mà phía sau không có một cái gì có thể  gọi  là "chủ tể" thường còn (àtman),  là một cá tánh;  không   có gì, chân chính mà nói,  đáng  gọi là"ta". Vật  chất  là "ta" ư? Cảm giác, tư tưởng   là "ta" ư? Những tính toan lo nghĩ, những  cái biết bằng  mắt, bằng  tai v.v.. là  "ta" ư? Không, trong tất cả những  cái ấy, không  một cái nào đáng gọi thực là "ta". Lúc nào những  khối vật chất và tình thức (chỉ năm uẩn) cùng nhau tương giao tương hợp trong cái máy thân tâm  ấy thì ý  niệm "ta" nảy sinh. Nhưng đó là một  ấn  tượng (impression) sai lầm. Cái "ta" hư phù (apparent)  ấy, thật ra, không gì khác hơn là một  ý  niệm (idée), là một  trong 51 cái "tâm  sở" mà các nhà tâm  lý học  tinh vi của Phật  giáo đã tìm thấy khi phân tách cái khối "hành  uẩn".  Toàn thể năm uẩn, mà ta xem như là một  vật,  là dukkha với cái nghĩa là những trạng thái duyên  khởi (sankhàra-dukkhatà).  Không có  "vật" nào,  không   có "chủ tể" nào đứng  phía sau năm  uẩn  để thọ dukkha (khổ).  Nói một cách khác,  không  có người  tư tưởng đứng  sau tư tưởng,  không   có tâm  vương đứng  sau tâm  sở. Chính tư tưởng  là người  tư tưởng, chính tâm  sở là tâm  vương đó. Lấy  tâm sở đi, không  còn tâm vương. Cái quan niệm này của Phật  giáo  thật  là trái hẳn với câu:  'Tôi  tư tưởng, vậy thời có tôi" của Descartes.

Cái  chân  lý về dukkha là vậy.  Chân  lý ấy không   mảy  may làm cho đời sống  người  Phật  tử  buồn  thảm,  ảo não như một số người lầm tưởng.  Một đệ tử chân  chính của Phật, trái lại, người hết sức sung sướng trên thế gian: Không sống trong sợ sệt, âu lo, luôn luôn bình thản, an nhàn, không xao động trước những biến cố, không  thất kinh tán đảm trước tai họa, "vì như thị" mà nhìn mà nhận vạn vật. Đức Phật trọn  đời không  biết buồn là gì. Các người  đồng  thời với Ngài đều nói rằng  lúc nào cũng thấy Ngài với "nụ  cười trên  môi".  Dù vẽ trên  tranh, dù đắp  thành  tượng, gương mặt Ngài đều được nhất luận diễn tả dưới những nét hoan hỷ và an tĩnh. Không khi nào trên gương mặt ấy ta thoáng thấy một vẻ u buồn, phiền muộn. Hai quyển sách xưa, Theragàthà và Therigàthà,  chứa đầy những lời hoan lạc của các thiện  nam tín nữ đã nhờ giáo pháp  của Ngài  mà sống  trong an lạc. Một hôm, vua nước Kosala bạch với Phật:  Không   biết  thế nào mà đệ tử các đạo  giáo khác, mỗi khi gặp họ, thì thấy  họ có vẻ hung tợn, khắc nghiệt,  mặt mét, mình gầy,  còn  trái  lại  đệ tử của Ngài, ông nào ông nấy đều vui tươi, bình tĩnh, mặt mày như hoa nở, thung dung, tự tại,  an nhiên,  tâm hồn thư thái lạ lùng".  Nhà vua nói thêm:"Các  đại đức mà được  thanh tịnh như thế,  chắc  chắn  là đã thực  chứng  được  cái giáo lý cao cả và thâm  sâu của Thế  Tôn"(6). Tinh thần  của Phật  giáo  là hoàn toàn nghịch  hẳn với một thái độ trầm  ngâm  và  ủ rủ,  vì đó là một  trở ngại cho sự tu chứng. Lại nữa,  nên  nhớ rằng  Hỷ là một trong bảy đức tánh cần phải trau dồi, để chứng quả Niết bàn.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Lịch sử Lớp 11 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư