Văn học dân gian là một trong những bộ phận quan trọng trong nền văn học của dân tộc ta. Đây cũng là thể loại nhận được sự quan tâm của đông đảo độc giả ở nhiều lứa tuổi khác nhau. Về văn xuôi thì văn học dân gian bao gồm những thể loại như truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyền thuyết…Trong đó truyện An Dương Vương và Mỵ Châu Trọng Thủy là một câu chuyện vừa mang tính chất truyền thuyết lại vừa là câu chuyện lịch sử dân tộc.
Truyện An Dương Vương và Mỵ Châu Trọng Thủy là câu chuyện nói về quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta thời xa xưa. Trong đó một nhân vật chúng ta không thể không nhắc tới chính là An Dương Vương. Đây là vị vua có thực trong lịch sử Việt Nam, vừa là nhân vật gắn với những truyền thuyết hư cấu, li kỳ. Trong tác phẩm ông là hiện thân của hai hình tượng: một là vị vua yêu nước thương dân và còn là một người cha hết lòng bao dung, che trở cho con cái.
Trước hết, khi đứng trên cương vị của một vị vua, người đứng đầu cả nước thì An Dương Vương đã thể hiện là một người yêu nước, lo cho nhân dân, lo cho vận mệnh của đất nước. Khi nhận được ngôi báu, ông đã rời đô từ một vùng đồi núi về vùng đồng bằng Cổ Loa. Qua đó thể hiện ý chí và quyết sách sáng suốt, tầm nhìn xa trông rộng của An Dương Vương. Bởi chúng ta có thể dễ dàng thấy được muốn dân cư lạc nghiệp, phát triển hưng thịnh thì chọn đồng bằng màu mỡ là lựa chọn đúng đắn. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng có những nguy cơ nhất định. Đứng đầu một đất nước nhỏ bé ngay cạnh một nước lớn nên những áp lực mà ông phải chịu đựng là rất lớn và chứa nhiều bất trắc về sự an nguy của đất nước về chủ quyền của dân tộc. Ông còn chứng tỏ là một người biết nhìn xa trông rộng khi trong quá trình dựng nước đã cho xây dựng thành Cổ Loa, xây thành đắp lũy để phòng trừ giặc ngoại xâm. Việc xây dựng thành không phải trong ngày một ngày hai mà còn gặp rất nhiều khó khăn. Thành “hễ cứ đắp tới đâu lại lở tới đấy”, tốn nhiều công sức mà không thành. Có lẽ người khác sẽ nản lòng trước nhiều lần thất bại nhưng An Dương Vương với một lòng yêu nước thương dân, một người có bản lĩnh vững vàng đã không quản ngại khó khăn gian khổ. Ngày cho lập đàn để cầu, hỏi kế sách của cụ già có tướng lạ, rồi đích thân ra tận cửa Đông xứ Thanh Giang để rước Rùa Vàng giúp đỡ.
Trước hết, khi đứng trên cương vị của một vị vua, người đứng đầu cả nước thì An Dương Vương đã thể hiện là một người yêu nước, lo cho nhân dân, lo cho vận mệnh của đất nước. Khi nhận được ngôi báu, ông đã rời đô từ một vùng đồi núi về vùng đồng bằng Cổ Loa. Qua đó thể hiện ý chí và quyết sách sáng suốt, tầm nhìn xa trông rộng của An Dương Vương. Bởi chúng ta có thể dễ dàng thấy được muốn dân cư lạc nghiệp, phát triển hưng thịnh thì chọn đồng bằng màu mỡ là lựa chọn đúng đắn. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng có những nguy cơ nhất định. Đứng đầu một đất nước nhỏ bé ngay cạnh một nước lớn nên những áp lực mà ông phải chịu đựng là rất lớn và chứa nhiều bất trắc về sự an nguy của đất nước về chủ quyền của dân tộc. Ông còn chứng tỏ là một người biết nhìn xa trông rộng khi trong quá trình dựng nước đã cho xây dựng thành Cổ Loa, xây thành đắp lũy để phòng trừ giặc ngoại xâm. Việc xây dựng thành không phải trong ngày một ngày hai mà còn gặp rất nhiều khó khăn. Thành “hễ cứ đắp tới đâu lại lở tới đấy”, tốn nhiều công sức mà không thành. Có lẽ người khác sẽ nản lòng trước nhiều lần thất bại nhưng An Dương Vương với một lòng yêu nước thương dân, một người có bản lĩnh vững vàng đã không quản ngại khó khăn gian khổ. Ngày cho lập đàn để cầu, hỏi kế sách của cụ già có tướng lạ, rồi đích thân ra tận cửa Đông xứ Thanh Giang để rước Rùa Vàng giúp đỡ.
Thành Cổ Loa kiên cố hoàn thành như để minh chứng cho sự tài trí cũng như tầm nhìn của mình An Dương Vương tiếp tục nhìn nhận đến những khía cạnh khác đó là thành cao hào sâu chưa chắc đã có thể ngăn được kẻ thù mà còn cần vũ khí lợi hại, quân đội tinh nhuệ. Đứng trước những băn khoăn của nhà vua, Rùa Vàng đã cảm động và giúp đỡ chế tạo nên nỏ thần nhờ móng vuốt của mình. Mặc dù dã có sự chuẩn bị về nhiều mặt nhưng bi kịch nước mất nhà tan vẫn xảy ra. Mặc dù có công lớn trong việc xây dựng đất nước nhưng bi kịch này vua An Dương Vương không tránh khỏi trách nhiệm. Chính An Dương Vương đã mắc sai lầm nghiêm trọng khiến cảnh nước mất nhà tan. Nhiều người cho rằng sai lầm của An Dương Vương ngay từ khi chấp nhận lời cầu hôn của Triệu Đà, gả Mỵ Châu cho hắn rồi còn cho ở rể. Đó là sự chủ quan, không phán đoán được âm mưu của kẻ thù. Việc liên minh bằng hôn nhân chính trị trong lịch sử cũng không hề xa lạ, mặc dù xuất phát điểm của ông là tốt đẹp khi mong muốn hòa bình, giảm bớt chiến tranh nhưng lại quá nhẹ dạ cả tin.
Cũng không ít người nó hành vi cho Trọng Thủy ở rể là “nuôi ong tay áo, nuôi cáo trong nhà”. Đây chẳng khác nào đặt một gián điệp bên cạnh mình, nhất là khi không có sự giám sát chặt chẽ. Nhưng có lẽ sai lầm nghiêm trọng nhất đó là không giữ bí mật quốc gia. Việc cho con gái biết bí mật quân sự lẫn việc quá khinh địch, không biết bảo vệ những cơ mật. Thậm chí còn quá ỷ lại vào sức mạnh của nỏ thần. Khi hay tin Triệu Đà phát binh đánh thì An Dương Vương còn điềm nhiên, tự mãn, ngồi đánh cờ. Tất cả đã tạo nên sai lầm nghiêm trọng dẫn tới bi kịch của chính bản thân và cả quốc gia phải gánh chịu.
Đứng trên cương vị của một người cha thì Trước khi xảy ra việc mất nước thì An Dương Vương là một người rất yêu quý con gái. Điều này thể hiện bằng việc nghe lời con, cho biết cả những bí mật quân sự mặc dù Mỵ Châu là con gái. Nhưng bên cạnh đó cũng là một người cha tuyệt tình, dứt khoát khi trên đường trốn chạy, lúc biết con mình chính là kẻ gây ra cơ sự thì đã không ngần ngại rút đao chém con. Qua đó cho thấy ông là một người dứt khoát, đề cao việc nước lên trên việc nhà.
Qua tác phẩm chúng ta giúp cho chúng ta có cái nhìn mới về lịch sử về vị vua trong truyền thuyết. Bên cạnh đó còn đêm lại cho chúng ta bài học đó là không nên coi thường, ỷ lại với lợi thế của mình mà khinh địch mà cần phải cận trọng xem xét, đánh giá nghiêm túc đối thủ của mình.
>> Xem thêm: Phân tích truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy
Cảm nhận về nhân vật An Dương Vương - Bài số 3
“Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu
Trái tim lầm chỗ để trên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu”
(Tố Hữu)
“Nỗi cơ đồ” trong thơ Tố Hữu ngàn năm nay vẫn được nhắc lại như một bài học về đạo trị quốc. Nhân vật An Dương Vương trong truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy” là điển hình cho bậc đế vương chủ quan trước thôn tính của giặc ngoại xâm để cuối cùng tạo ra chuỗi bi kịch đau đớn trong lịch sử văn học dân tộc. Tuy chỉ là truyền thuyết hư cấu xong nhân vật An Dương Vương đã tạo nên cảm hứng sâu sắc về triết lí nhân tình thế thái ở đời.
Truyền thuyết là tên gọi dùng để chỉ một nhóm những sáng tác dân gian truyền miệng nhằm lý giải một số hiện tượng tự nhiên hay sự kiện lịch sử nào đó với đặc trưng là sử dụng yếu tố kỳ diệu, huyễn tưởng, nhưng lại được cảm nhận xác thực, diễn ra ở ranh giới giữa thời gian lịch sử và thời gian thần thoại. Truyền thuyết thuộc thể văn học dân gian, mang tính truyền miệng nên không có tác giả cụ thể.
“An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy” là một sản phẩm của sự tưởng tượng nhân dân để lí giải sự kiện nước ta rơi vào tay giặc xâm lược, qua đó người xưa muốn nhắc nhở hậu thế bài học về giữ nước. Truyền thuyết khá ấn tượng trong cách xây dựng và thể hiện tâm lí, tính cách nhân vật. Nhân vật An Dương Vương là điển hình cho một ông vua yêu nước, thương dân song quá chủ quan trước mưu cao kế hiểm của quân nhà Triệu, cuối cùng đi tới thảm cảnh mất nước. Tuy vậy, ở nhân vật An Dương Vương cũng rất có nhiều điểm đáng trân trọng.
Trước hết, hình ảnh An Dương Vương được thể hiện qua chuyện xây thành Cổ Loa. Cổ Loa là địa danh có thật ở Việt Nam. Theo như truyền thuyết này, thành Cổ Loa được lí giải về quá trình xây dựng có nhiều li kì, yếu tố siêu nhiên. Vua An Dương Vương bấy giờ cho xây thành cổ Loa để tương lai trở thành tường trì kiên cố bảo vệ đất nước trước quân xâm lăng. Tuy nhiên, công trình xây dựng nhiều lần không thành vì cứ hễ đắp tới đâu là lở tới đấy. Được thần linh giúp đỡ, cuối cùng An Dương Vương cũng hoàn thành. Sự giúp đỡ thần kì đó đã khẳng định vua An Dương Vương là người được thần linh tối cao chọn lựa và gian xứ mệnh cai trị đất nước, giống như câu thơ “thần” xưa:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư”
(“Nam quốc sơn hà” – Lý Thường Kiệt)
Tuy nhiên, An Dương Vương là một ông vua vì quá chủ quan và yêu thương con gái mù quáng nên cuối cùng gây ra cảnh nước mất nhà tan.
Sự mất cảnh giác biểu hiện ngay trong việc nhà vua không phát hiện ra bản chất thực sự của Triệu Đà. Triệu Đà không chỉ âm mưu thôn tính Âu Lạc mà còn cho con trai Trọng Thủy cầu hôn công chúa Mị Châu để biến người Âu Lạc thành người phương Bắc.
Tình yêu con gái quá mức khiến vua An Dương Vương không thể nhận ra Trọng Thủy đã lừa Mị Châu, xem trộm nỏ thần và đã tìm cách đánh tráo lẫy nỏ. Có thể nói, vua An Dương Vương đã vô tình bao che cho Mị Châu tiết lộ bí mật quốc gia, vô tình “cõng rắn cắn gà nhà”.
Tới khi Triệu Đà sang xâm lược, An Dương Vương cậy có nỏ thần, điềm nhiên đánh cờ, cười mà nói rằng: “Đà không sợ nỏ thần sao?”. Sự mất cảnh giác trước thế lực thù địch trong phút chốc khiến đất nước rơi vào bi kịch đô hộ. Đây có lẽ là bài học trị quốc mà hàng nghìn năm nay vẫn còn nguyên tính thời sự.