Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Đánh giá vai trò của Quốc tế lll (Lê nin) đối với phong trào độc lập dân tộc ở Việt Nam?

2 trả lời
Hỏi chi tiết
372
0
0
Le Hoai Quoc
20/12/2020 08:35:47
+5đ tặng
Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 1 Trong Thế chiến I, phái tả trong Quốc tế II tổ chức hai hội nghị quốc tế tại Zimmerwald (9-1915) và Kienthal (4-1916), thuộc Thụy Sĩ. Họ đã lên tiếng chống chiến tranh đế quốc đòi hòa bình, giành chủ nghĩa xã hội. Phái tả Zimmerwald chủ trương đoạn tuyệt với Quốc tế II, đoàn kết các lực lượng cách mạng lại trong một tổ chức quốc tế mới. Đó là bước chuẩn bị cho sự ra đời của Quốc tế III. Ngày 1-1-1914, Đảng Bolchevik Nga, dưới sự lãnh đạo của Lenin, ra tuyên ngôn: “Biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng” và “tuyên bố đoạn tuyệt với Quốc tế II”. Tại các cuộc hội nghị của những người xã hội quốc tế, Lenin đã tập hợp phái tả đề ra cương lĩnh riêng đồng thời đặt ra một cách rất kiên quyết vấn đề lập tức đoạn tuyệt với Liên hiệp Zimmerwald và thành lập Quốc tế III. Tại Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng Xã hội - Dân chủ Nga (4-1917), Lenin đề nghị Đảng Bolchevik đảm nhận sứ mệnh lập quốc tế cách mạng. Tháng 1-1918, Hội nghị đại biểu phái tả trong các đảng xã hội - dân chủ họp ở Petrograd thông qua nghị quyết về sự cần thiết lập quốc tế mới, Hội nghị nêu rõ điều kiện tham gia quốc tế mới là tán thành con đường đấu tranh chống chính phủ tư sản nước mình; ủng hộ Cách mạng tháng Mười và chính quyền Xô viết. Tháng 11-1919, Hội nghị các tổ chức và đảng cộng sản Nga, Ba Lan, Hungary, Đức, Áo, Latvia, Phần Lan và Liên hiệp Cách mạng Balkan) họp ở Moskva dưới sự chỉ đạo của Lenin đã thông qua thư kêu gọi thành lập Quốc tế Cộng sản. Tháng 2-1919, Quốc tế II họp Hội nghị ở Berne (Thụy Sĩ) tìm cách ngăn cản Quốc tế III thành lập nhưng không đạt kết quả. Yêu cầu thành lập tổ chức Quốc tế cách mạng trở thành nhiệm vụ cấp bách. Đại hội thành lập Quốc tế III tổ chức ở Moskva từ ngày 2 đến 6-3-1919, có 51 đại biểu thay mặt cho 30 nước tới dự. Ngoài đại biểu phương Tây còn có đại biểu các nước phương Đông là Triều Tiên, Trung Quốc, VAI TRÒ CỦA QUỐC TẾ III TRONG VIỆC BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA MARX - LENIN TS. ĐỖ THỊ HIỆN Trong 24 năm tồn tại (1919 - 1943), Quốc tế III đã hiện thực hóa chủ nghĩa Marx trong xây dựng và bảo vệ CNXH ở một nước và củng cố, đoàn kết, phát triển phong trào công nhân và cộng sản trên toàn thế giới. Quốc tế III đã kiên định tính giai cấp và tính quốc tế của phong trào công nhân và cộng sản trong hoàn cảnh phải đối đầu sự điên cuồng chống Cộng, chống CNXH từ bên ngoài và sự đối lập bên trong phong trào. 2 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 Thổ Nhĩ Kỳ, chứng tỏ Quốc tế III là tổ chức của giai cấp lao động của cả các nước thuộc địa và phụ thuộc. Đại hội được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Lenin. Đề cương Về dân chủ tư sản và chuyên chính vô sản của Lenin đã được thông qua. Đề cương vạch trần bản chất giai cấp của dân chủ tư sản, giải thích ý nghĩa của chính quyền Xô viết - một hình thức chuyên chính vô sản. Lenin khẳng định: chỉ có nền dân chủ tư sản và dân chủ vô sản, không có nền dân chủ thứ ba. Dân chủ vô sản là nền dân chủ cao nhất, do vậy nhiệm vụ của Quốc tế III là phải xác lập được dân chủ vô sản. Đại hội lần thứ I của Quốc tế Cộng sản III thông qua Cương lĩnh của Quốc tế Cộng sản, trong đó trình bày những nguyên lý quan trọng nhất của chủ nghĩa Lenin về chủ nghĩa đế quốc và lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa, xác định nhiệm vụ trước mắt của giai cấp vô sản và phương pháp đấu tranh. Đại hội thông qua Tuyên ngôn của Quốc tế Cộng sản  gửi những người  vô sản trên thế giới, Lời kêu gọi “gửi công nhân tất cả các nước” và một số nghị quyết khác. Nguyên tắc tổ chức của Quốc tế Cộng sản là tập trung dân chủ. Một ban chấp hành được bầu ra gồm đại biểu cộng sản nhiều nước. Sự thành lập Quốc tế Cộng sản có ý nghĩa quan trọng đặc biệt đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Nó góp phần đẩy nhanh sự hình thành các đảng cộng sản ở nhiều nước, Quốc tế III ra đời đánh dấu thắng lợi của chủ nghĩa Marx - Lenin với chủ nghĩa cơ hội - xét lại. Tất cả các đảng cách mạng chân chính đã đoàn kết dưới ngọn cờ Quốc tế III - trung tâm lãnh đạo của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, mà hạt nhân là Đảng Bolchevik Nga và Lenin. Trong thời gian tồn tại của mình, Quốc tế Cộng sản đã tiến hành 7 kỳ đại hội. Từ Đại hội I đến Đại hội IV do Lenin trực tiếp lãnh đạo. Đại hội V đến Đại hội VII do Stalin lãnh đạo. Về “địa vị lịch sử của Quốc tế III”, Lenin đã viết: “Ý nghĩa lịch sử toàn thế giới của Quốc tế III, Quốc tế Cộng sản, là ở chỗ nó đã bắt đầu thực hiện khẩu hiệu vĩ đại nhất của Marx, khẩu hiệu tổng kết thực tiễn trong một thế kỷ của CNXH và của phong trào công nhân, khẩu hiệu biểu hiện bằng khái niệm: chuyên chính của giai cấp vô sản”(1). Nét đặc trưng nhất của Quốc tế III là gắn với sự ra đời của CNXH, mở đầu là Liên bang Cộng hòa XHCN Xô viết (Liên Xô), đã khẳng định sự đúng đắn của Đồng chí Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội toàn quốc Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tours, tháng 12-1920. Ảnh: TL. Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 3 Lenin và Đảng Cộng sản Nga, kiên định thực hiện khẩu hiệu nói trên trong vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx, chống chủ nghĩa cơ hội các màu sắc, chống trào lưu xã hội - dân chủ. Tính sáng tạo trong vận dụng chủ nghĩa Marx của Quốc tế III là đã thống nhất nhận định của Lenin về sự phát triển của thời đại cho phép thay đổi luận điểm của Marx và Engels: cách mạng vô sản không thể nổ ra ở một nước riêng biệt, bằng luận điểm mới: cách mạng có thể nổ ra và giành thắng lợi ở riêng một nước, nơi tập trung những mâu thuẫn gay gắt làm cho nước đó trở thành mắt xích yếu nhất của hệ thống đế quốc. Quốc tế III và Lenin đã quan niệm đúng chủ nghĩa Marx không phải là giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động và làm sáng tỏ cơ sở thực tiễn của sự thay đổi luận điểm đã nêu trên. Đó là sự chuyển hóa CNTB thời kỳ tự do cạnh tranh thành CNTB độc quyền - chủ nghĩa đế quốc, với quy luật phát triển không đều về kinh tế và chính trị của CNTB đã khiến trong hệ thống CNTB xuất hiện khâu yếu ở một nước riêng lẻ, mà ở đó, đội tiền phong của giai cấp công nhân thực hiện được sự liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, nắm bắt được thời cơ thì có thể phát động quần chúng cách mạng, giành chính quyền và xây dựng CNXH. Việc xây dựng CNXH trong một nước thành công là hoàn toàn có khả năng thực hiện. Sự dũng cảm sáng tạo này không xa rời nguyên tắc mà đã quán triệt sâu sắc khẩu hiệu vĩ đại nhất của Marx: thiết lập nền chuyên chính vô sản thay cho nền chuyên chính tư sản; thực hiện chế độ dân chủ vô sản, ưu việt gấp triệu lần dân chủ tư sản, ở chỗ “lần đầu tiên trên thế giới… kiến lập chế độ dân chủ cho quần chúng, cho những người lao động, cho công nhân và tiểu nông”, mà “trước đây trên thế giới chưa có một chính quyền nhà nước nào do đa số quần chúng nắm giữ, một chính quyền thật sự là của đa số này”(2). Liên Xô đã xóa bỏ bóc lột và trở thành một cường quốc, đã chiến thắng trong Thế chiến II, chẳng những cứu đất nước Xô viết và cứu nhân loại khỏi họa phát xít mà còn tạo điều kiện cho sự ra đời hệ thống XNCN thế giới. Quốc tế III cũng đã chủ trương liên hiệp giai cấp vô sản với các dân tộc bị áp bức, ủng hộ phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa ở các châu lục: Á, Phi, Mỹ Latin, trong đó có Việt Nam, khi chủ trương lập Mặt trận nhân dân ở các nước, tập hợp rộng rãi các lực lượng dân chủ chống chủ nghĩa phát xít. Sau hơn 70 năm xây dựng CNXH, Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu sụp đổ. Sự kiện đó đã làm cho những kẻ chống cộng trên thế giới có cơ hội để ra sức bôi nhọ chế độ XHCN, lên án Quốc tế III, đả kích các đảng cộng sản, bác bỏ tính cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Marx - Lenin. Họ cũng lảng tránh vì sao chủ nghĩa Marx ngày nay vẫn được giới trí thức tiến bộ trên thế giới tôn vinh và vì sao hiện nay, trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, người ta tìm đọc 4 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 lại Tư bản của Marx. Về hoạt động này, nhà triết học marxist người Anh Maurice Cornforth đã có nhận xét: “Một lẽ hoàn toàn tự nhiên (và thậm chí là tất yếu) là khi các đảng marxist mắc phải những sai lầm và mắc vào thế nan giải, thì kẻ thù của họ ngay lập tức tuyên bố rằng chủ nghĩa Marx có lỗi về mọi tai họa ấy và sau đó nhiều năm chúng còn tiếp tục nhắc lại lời buộc tội ấy. Hơn nữa, khi các đảng marxist sửa chữa sai lầm của mình, kẻ thù của họ lạm dụng điều đó và kêu lên: ‘A ha, các anh cho rằng chủ nghĩa Marx của các anh đã không mang lại một điều gì tốt đẹp cho các anh, mà chỉ dẫn các anh tới những sai lầm’”(3). Khi đề cập “con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lenin”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bày tỏ cảm xúc “vui mừng đến phát khóc lên” khi Người đọc Luận cương của Lenin về dân tộc và thuộc địa, tìm được con đường giải phóng cho dân tộc mình, khiến cho Người hoàn toàn tin theo Lenin, tin theo Quốc tế III. Người cho rằng: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lenin” và “Việt Nam muốn cách mạng thành công thì tất phải nhờ Đệ tam Quốc tế”. Vì vậy, bác bỏ chủ nghĩa Marx - Lenin, cũng là gián tiếp bác bỏ tư tưởng Hồ Chí Minh, bởi tư tưởng Hồ Chí Minh, xét về nguồn gốc lý luận, thuộc hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, với tính đặc thù là kết hợp nhuần nhuyễn với văn hóa Việt Nam, bao gồm trong đó tinh hoa văn hóa phương Đông Việt Nam hóa, mà thành công của Người là nắm vững “linh hồn sống”, lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Marx - Lenin. Chỉ như thế mới có thể giải quyết đúng đắn, sáng tạo những vấn đề thực tiễn cách mạng. Kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Quốc tế III trong tình hình hiện nay có ý nghĩa thiết thực đối với việc tổng kết kinh nghiệm, phát triển lý luận để định ra cương lĩnh, con đường và bước đi thích hợp với đặc thù cách mạng từng khu vực và mỗi quốc gia; tạo sự chuyển biến tiến bộ xã hội phù hợp với quy luật phát triển lịch sử trong thời đoạn trước mắt của thời đại, khi hòa bình và phát triển là xu thế chủ đạo, những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại trên thế giới, xu thế toàn cầu hóa kinh tế, đa cực hóa thế giới, đang tạo ra cơ hội để mỗi nước ở các trình độ phát triển khác nhau tận dụng nhằm tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia. Trong tình hình đó, bài học của Quốc tế III về tính kiên định trong bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Marx - Lenin, chống chủ nghĩa chống cộng và chủ nghĩa cơ hội vẫn đang sống động và mãi mãi có ý nghĩa hiện thực đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trong thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới r --------------------------- (1) Lenin toàn tập, tập 38, Nxb. Tiến bộ, Moskva, 1978, tr.364. (2) Sđd, tr.369. (3) Triết học mở và xã hội mở, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002 , tr.357. Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 5 Cách đây mấy ngàn năm, các Vua Hùng đã gây dựng nên bờ cõi, non sông, lập nên nhà nước Văn Lang độc lập, có chủ quyền của người Việt cổ, tạo tiền đề phát triển bền vững cho quốc gia sau này. Các đền, lăng tẩm trên núi Nghĩa Lĩnh đã in đậm dấu tích về thời đại Hùng Vương; cũng nơi đây, các vua Hùng tiến hành các nghi lễ tín ngưỡng, họp bàn các việc hệ trọng của đất nước. Trải qua nhiều biến cố của lịch sử, Đền Hùng luôn được các triều đại và nhân dân gìn giữ, phụng thờ. Cách đây 102 năm, xét bản tấu trình của quan Tuần phủ Phú Thọ Lê Trung Ngọc, ngày 25-7- 1917, Bộ Lễ triều Nguyễn đã chính thức định lệ ngày quốc lễ - Giỗ Tổ Hùng Vương là ngày mồng 10-3 âm lịch hàng năm, dù dân gian đã truyền nhau bao đời lời dặn: Dù ai đi ngược về xuôi/ Nhớ ngày giỗ Tổ mùng Mười tháng Ba. 65 năm trước, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, ngày 19-9-1954, Bác Hồ đã về thăm Đền Hùng (Phú Thọ), gặp gỡ và giao nhiệm vụ cho các cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn 308 (Đại đoàn Quân Tiên Phong) trước khi Đại đoàn về tiếp quản thủ đô. Người căn dặn: “Ngày xưa các vua Hùng đã có công dựng nước, ngày nay Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước...”. Lời dặn dò ấy trở thành một lời hịch thiêng liêng của non sông, âm vang trong tâm hồn mỗi người con đất Việt ở khắp mọi miền, với mọi thế hệ. Lời Bác dạy đã khái quát cả mấy ngàn năm lịch sử, rút ra quy luật tồn tại và phát triển muôn đời của đất nước ta: “Dựng nước phải đi đôi với giữ nước”. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, “giữ nước” là toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Bởi nhân dân là gốc của đất nước; đấy chính là “kế sâu rễ bền gốc” mà ông cha ta truyền lại. Khi dự lễ dâng các Vua Hùng trong dịp giỗ Tổ Hùng Vương 10-3 năm Canh Thìn (2000), đồng chí Đỗ Mười, Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đã khẳng định: “Lời nói của Bác Hồ năm xưa còn ghi lại nơi này… Phải chăng đó là tiếng hịch của non sông mà chúng ta mãi mãi ghi nhớ… Nhân dân cả nước hãy gìn giữ tôn tạo mảnh đất thiêng liêng này, TỰ HÀO GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG NGUYỄN VĂN THANH Quốc giỗ Hùng Vương là tinh hoa của hồn Việt và nhân loại, là dịp để cháu con hôm nay nghĩ suy về truyền thống cha ông, tự hào về sức mạnh cội nguồn, về sự trường tồn của dân tộc. 6 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 mãi mãi là nơi hun đúc lòng yêu nước, là cội nguồn sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, là niềm kêu hãnh của mỗi người dân Việt Nam chung ta”(1). Cùng với những thành tựu khoa học nghiên cứu về thời đại Hùng Vương, cùng với quá trình nhận thức về giá trị truyền thống lịch sử văn hóa vùng Đất Tổ, Đền Hùng đã không ngừng được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương. Niềm tự hào, tôn kính ấy càng được nhân lên khi UNESCO công nhận Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở tỉnh Phú Thọ là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại (ngày 6-12-2012). Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương 10-3 không chỉ thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn” mà còn là niềm tự hào của người Việt trước bạn bè quốc tế. Không chỉ vậy, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương không những có mặt tại nhiều địa phương ở Việt Nam mà còn có mặt ở nhiều nơi trên toàn thế giới, những nơi có cộng đồng dân cư người Việt sinh sống và tụ cư. Người Việt lập làng ở đâu thì lập đền thờ Vua Hùng ở đấy với quan niệm con cháu ở đâu thì tổ tiên ở đó. Vì vậy, thờ cúng Hùng Vương thực sự đã trở thành một hiện tượng văn hóa có sức sống mãnh liệt, có sức lan tỏa rộng, sâu, lâu bền trong cộng đồng người Việt. Theo truyền thống, hàng ngàn năm qua, triều đình các triều đại phong kiến và nhân dân ta đều tổ chức cúng lễ để tưởng nhớ đấng Thánh Tổ nước Nam xưa và nay đã trở thành ngày Quốc lễ vào ngày 10-3 âm lịch. Từ năm 2007, Chính phủ đã chính thức quy định giỗ Tổ Hùng Vương là ngày nghỉ lễ. Đến nay, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đang ngày càng lan tỏa và có một vị trí đặc biệt trong tâm thức của những người con đất Việt và ngày càng khẳng định vị trí vững chắc trong đời sống xã hội đương đại. Với mục đích giáo dục truyền thống yêu nước, biết ơn sâu sắc các Vua Hùng, các bậc tiền nhân đã có công dựng nước và giữ nước, đồng thời để giáo dục truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta chính thức tổ chức lễ giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng tại khu di tích lịch sử Đền Hùng, thành phố Việt Trì và các xã, phường vùng ven Đền Hùng, các di tích thờ Hùng Vương và các danh nhân, danh tướng thời Hùng Vương trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Phần lễ thường gồm lễ dâng hương tưởng niệm các Vua Hùng tại Đền Thượng, lễ giỗ Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân và lễ dâng hương tưởng niệm Tổ Mẫu Âu Cơ, lễ rước kiệu về Đền Hùng. Phần hội thường gồm các lễ hội văn hóa dân gian đường phố, chương trình nghệ thuật chào mừng, tổ chức trình diễn Hát Xoan, biểu diễn múa rối nước... (Xem tiếp trang 18) Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 7 Từ trước đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã luôn xem chống tham nhũng là một nhiệm vụ quan trọng. Xin điểm qua nghị quyết của 4 kỳ đại hội Đảng gần nhất để thấy rõ. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (năm 2001), trong phần Đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế có hẳn một mục về chống tham nhũng, trong đó nêu rõ: “Tăng cường tổ chức và cơ chế, tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị, ở các cấp, các ngành, từ Trung ương đến cơ sở. Gắn chống tham nhũng với chống lãng phí, quan liêu, buôn lậu, đặc biệt chống các hành vi lợi dụng chức quyền để làm giàu bất chính”. Văn kiện Đại hội X (năm 2006) cũng một mục riêng về phòng chống tham nhũng và gắn với công tác phòng chống lãng phí với tên chung là Tích cực phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí, trong đó khẳng định: “Toàn Đảng, toàn bộ hệ thống chính trị và toàn xã hội phải có quyết tâm chính trị cao đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí”. Đại hội XI (năm 2011) tiếp tục khẳng định về mục tiêu chống tham nhũng, đồng thời còn nhấn mạnh thêm: “Phòng và chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài. Mọi cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân từ trung ương đến cơ sở và từng đảng viên, trước hết là người đứng đầu phải gương mẫu thực hiện và trực tiếp tham gia đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí”. Đại hội XII (năm 2016) thì nêu cụ thể: “Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền; thực hành tiết kiệm trong các cơ quan nhà nước và trong đội ngũ cán bộ, công chức”. Từ sau Đại hội XII, công tác phòng chống tham nhũng được đẩy lên một tầm cao mới với những quyết tâm chưa từng có. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, người đứng đầu Đảng, người lãnh đạo công cuộc chống “nội xâm” đã có những phát biểu làm nức lòng cán bộ, đảng viên. Tháng 7-2017, khi tiếp xúc cử tri tại Hà Nội, đồng chí tuyên bố: “Cái lò đã nóng lên rồi thì củi tươi vào đây cũng phải cháy. Củi khô, củi vừa vừa cháy trước, rồi cả lò nóng lên, tất cả các cơ quan vào cuộc, có ai đứng ngoài đâu. Và không thể đứng ngoài được”. Ngày 10-4-2018, chủ trì cuộc họp của Ban Bí thư nghe báo cáo tổng hợp kết quả kiểm tra việc tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa ĐẨY MẠNH ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG VÂN TÂM Quán triệt nghị quyết đại hội đảng các cấp 8 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đồng chí đã nhấn mạnh: “Có ý kiến cho rằng “không cẩn thận sẽ làm nhụt chí, không ai muốn làm nữa”, rõ ràng tư tưởng đó sai. Tôi đã nói, nếu ai thấy cản trở, nhụt chí thì dẹp sang một bên cho người khác làm”. Điều đó cho thấy, người đứng đầu Đảng và Nhà nước đã thể hiện sự kiên quyết rất cao trước đại nạn tham nhũng. Những chỉ đạo và phát biểu của đồng chí không chỉ mang tính định hướng mà còn có ý nghĩa động viên sâu sắc toàn hệ thống chính trị, tất cả cán bộ, đảng viên và nhân dân đấu tranh quyết liệt với tham nhũng. Thế nhưng, có một số kẻ bất mãn, cơ hội chính trị, phản động đã không ngừng rêu rao rằng công cuộc chống tham nhũng ở nước ta hiện nay thực chất là “cuộc đấu đá nội bộ”, là “phe nọ đánh phe kia”, là “tranh chấp giữa các nhóm lợi ích”… Cũng có không ít kẻ cho rằng, các hoạt động chống tham nhũng thời gian qua chẳng qua là “bắt chước” cuộc vận động “đả hổ diệt ruồi” ở Trung Quốc và các quyết tâm của đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng chẳng qua là “học theo” cách làm của người Phát biểu tại phiên họp lần thứ 15 diễn ra vào ngày 21-1-2019, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Trưởng ban Chỉ đạo Trung ương về Phòng chống tham nhũng Nguyễn Phú Trọng chỉ đạo phải kịp thời phát hiện những vụ việc mới, chú ý các khâu như thu hồi tài sản, khắc phục thiệt hại, bảo đảm thi hành án… Ảnh: VOV. Quán triệt nghị quyết đại hội đảng các cấp Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 9 đứng đầu Đảng Cộng sản và Nhà nước Trung Quốc… Các luận điệu đó được một số cây bút nhai đi nhai lại trên các trang blog, diễn đàn của một số tờ báo tiếng Việt ở nước ngoài vốn có thành kiến với Đảng và Nhà nước ta như Đài Tiếng nói Hoa Kỳ (VOA), Đài Á châu Tự do (RFA), trang BBC tiếng Việt… Đồng thời, nhiều người sử dụng mạng xã hội trong nước cũng a dua theo, dẫn lại trên trang cá nhân của mình hoặc đăng ở một số blog cá nhân… Dĩ nhiên, giấy không gói được lửa, sự thật thì không thể bị xuyên tạc, dù lời lẽ có xảo biện thế nào. Thế nhưng, luận điệu đó ít nhiều ảnh hưởng đến một số người nhẹ dạ cả tin, ít nhạy cảm chính trị, không có đầy đủ thông tin…, dễ bị các thông tin và luận điệu xấu lung lạc. Có thể thấy, sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng ta là một tài sản quý báu từ ngày thành lập đến nay. Đảng ta không có “phe”, “nhóm”, không có “phái bảo thủ” hay “phái cải cách” như một số người rêu rao. Nhưng trong Đảng thời gian qua có những hiện tượng chưa lành mạnh, mà Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã thẳng thắn nêu: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp”. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng Đảng cũng khẳng định: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước”. Như vậy, nếu có “phe”, “nhóm” thì đó là giữa một bên đa số những đảng viên trung kiên, trung thành với lý tưởng cách mạng, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân và một bên là những kẻ suy thoái về chính trị, tư tưởng, biến chất, tham nhũng, lãng phí… Vì sự tồn vong của Đảng, chúng ta phải ra sức ngăn chặn và đẩy lùi hiện tượng đó, đưa những kẻ thoái hóa ra khỏi Đảng, làm trong sạch Đảng. Đó là biểu hiện bình thường của một đảng chính trị, vốn đã được Đảng ta thực hiện trong suốt gần 9 thập kỷ qua. Không chỉ vậy, “công tác kiểm tra, giám sát, phát hiện tiêu cực, tham nhũng là “thanh bảo kiếm” giữ nghiêm kỷ luật đảng, vừa thể hiện tính nghiêm minh và tự giác cao độ, vừa thể hiện tính dân chủ, nhân đạo sâu sắc. Nó không phải chỉ cốt “vạch lá tìm sâu”, “bới lông tìm vết”, truy tìm bằng được khuyết điểm, sai lầm để xử phạt, trừng trị, mà là “trị bệnh cứu người”, lấy xây dựng và cải tạo để chủ động phòng ngừa, cảnh tỉnh, răn đe, ngăn chặn, uốn nắn, giáo dục, sửa chữa, khơi dậy sự tự giác là chính”(1). Công tác kiểm tra, giám sát để phòng, chống tham nhũng cũng hoạt động đồng thời, có mục đích Quán triệt nghị quyết đại hội đảng các cấp 10 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 tương tự với công tác kiểm tra, giám sát ở các nội dung khác và được thực hiện thường xuyên, liên tục, ở tất cả các tổ chức đảng. Tham nhũng là căn bệnh của bất kỳ nhà nước, chính phủ và quốc gia nào, từ cổ đến kim, từ Đông sang Tây, từ chế độ xã hội chủ nghĩa đến chế độ tư bản chủ nghĩa. Tham nhũng luôn có những hình thái chung, đó là cách thức đục khoét lấy của công, nhũng lạm tài sản của nhân dân, chỉ là từng lúc, từng nơi có sự khác nhau về thủ đoạn cụ thể. Do đó, chống tham nhũng ở các nước sẽ luôn có những điểm chung nên không thể nói là nước này “bắt chước” nước kia. Vả lại, nếu ở nước nào đó có kinh nghiệm phòng chống tham nhũng hay, có hiệu quả thì nước khác cũng hoàn toàn có thể học tập và vận dụng vào điều kiện cụ thể của nước mình, không có gì là sai trái. Thực tế cho thấy, cuộc chống tham nhũng ở nước ta không chỉ có những điểm giống với Trung Quốc mà còn giống với nhiều nước khác nữa. Một quốc gia châu Á có quan hệ khá gần gũi với Việt Nam là Hàn Quốc vừa qua đã thực hiện công cuộc chống tham nhũng rất quyết liệt. Hiện tại, tất cả các cựu tổng thống nước này còn sống đều bị cáo buộc hoặc tuyên phạt vi phạm hình sự vì các tội liên quan đến tham nhũng. Trong đó, bà Park Geunhye đã bị tuyên 24 năm tù giam; còn 2 cựu tổng thống từng tại vị trong khoảng năm 1980 tới 1990 là Chun Doo-hwan và Roh Tae-woo đều từng bị bắt giam (hiện đã được ân xá và được tha bổng sau 2 năm ngồi tù). Riêng cựu Tổng thống Roh Moo-hyun đã tự tử sau khi bị điều tra với cáo buộc tham nhũng. Gần đây nhất, cựu Tổng thống Lee Myung-bak (tại nhiệm từ năm 2008 đến năm 2013) đã chính thức bị buộc tội nhận hối lộ, lạm dụng quyền lực, biển thủ, trốn thuế và bị tuyên phạt 15 năm tù giam. Người dân nước này rất hoan nghênh với thái độ chống tham nhũng mạnh mẽ của chính quyền đương nhiệm. Nỗ lực chống tham nhũng của mỗi nhà nước có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng nền hành chính minh bạch, hiệu quả, được lòng dân ở quốc gia đó. Ở nước ta, nhà nước là của dân, do dân và vì dân, nên công cuộc phòng chống tham nhũng lại càng được chú trọng và thực tiễn đã chứng minh thời gian qua, công cuộc này đã đạt được những kết quả tích cực. Mỗi người dân, mỗi cán bộ, đảng viên, trong phạm vi, điều kiện cụ thể của mình cần góp sức vào công cuộc đó. Đồng thời, phải thẳng thắn, kiên quyết bác bỏ, phê phán, công kích các luận điệu sai trái về tình hình đất nước nói chung và tình hình chống tham nhũng nói riêng r ------------------------------ (1) TS. Lê Hải, Bóc trần và đấu tranh với thủ đoạn ngụy tuyên truyền của các thế lực thù địch về phòng, chống tham nhũng trên các phương tiện truyền thông xã hội, Tạp chí Cộng sản, số tháng 10-2018. Quán triệt nghị quyết đại hội đảng các cấp Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 11 Thuật ngữ kinh tế tri thức được đưa vào Văn kiện Đại hội X và Đại hội XI của Đảng và được hiểu là các hoạt động kinh tế dựa trên nền tảng tri thức, tri thức chiếm tỉ trọng lớn trong giá trị sản phẩm xã hội và sự phát triển của nó được dựa trên bốn trụ cột: “i) Lực lượng lao động trình độ cao, chất lượng cao; ii) Hệ thống sáng tạo và ứng dụng công nghệ có hiệu quả; iii) Hệ thống cơ sở hạ tầng, thông tin, tin học hiện đại; và iv) Hệ thống thể chế xã hội và thể chế kinh tế hiện đại”(1). Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức; hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Thực tiễn cho thấy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là phải hướng mạnh vào phát triển các ngành công nghệ cao, công nghệ sạch, tranh thủ những cơ hội “đi tắt, đón đầu” để hình thành nên những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa học - công nghệ thế giới. Thực tế phát triển của nền kinh tế tri thức, có thể nhận ra các điểm cơ bản của nền kinh tế tri thức là: nền kinh tế tri thức lấy tri thức làm cơ sở; sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành có giá trị gia tăng cao; nền kinh tế tri thức có tốc độ hoạt động nhanh và đổi mới nhanh. Sáng tạo trở thành động lực trực tiếp của sự phát triển xã hội; kinh tế tri thức lấy thông tin làm chỗ dựa để phát triển; nền kinh tế tri thức gắn liền với toàn cầu hóa, tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội; sản xuất công nghệ trở thành ngành sản xuất đặc biệt quan trọng. Các ngành kinh tế tri thức đều phải dựa vào công nghệ để đổi mới và phát triển. Khu công nghệ cao là nơi biến các tri thức mới, các phát kiến khoa học mới thành công nghệ và sản phẩm. Đó là những hạt nhân của kinh tế tri thức; kinh tế tri thức chủ yếu dựa vào nguồn nhân lực có chất lượng cao, thích nghi với sự phát triển. Tại TP.HCM, qua 30 năm đổi mới, kinh tế thành phố đã từng bước thể hiện vai trò dẫn đầu. Thế nhưng, các thế hệ lãnh đạo thành phố luôn quán triệt tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật”, không tự hài lòng với kết quả đạt được nhằm tìm ra những giải pháp, hướng đi phù hợp nhất để phát triển bền vững. Đại hội Đảng bộ lần thứ X đã thẳng thắn nhìn nhận đất nước hội nhập quốc tế sâu rộng hơn, vấn đề ứng phó với biến đổi ------------------------------ (*) Đại học Quốc gia TP.HCM. PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ThS. TRỊNH LÂN(*) Vì một thành phố Hồ Chí Minh phát triển năng động, sáng tạo 12 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 khí hậu, nước biển dâng... sẽ là sức ép rất lớn cả về năng lực cạnh tranh và ổn định chính trị trên địa bàn, tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của thành phố. Đánh giá được lợi thế cùng những hạn chế của mình, TP.HCM đã có những chương trình, giải pháp cụ thể nhằm thực hiện mục tiêu “Xây dựng TP.HCM có chất lượng sống tốt, văn minh, hiện đại, nghĩa tình; có vai trò động lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; sớm trở thành một trong những trung tâm lớn về kinh tế, tài chính, thương mại, khoa học - công nghệ của khu vực Đông Nam Á”. Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ X đã xác định phát triển kinh tế nhanh, bền vững, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng theo hướng phát triển kinh tế tri thức và tăng trưởng xanh, nâng cao chất lượng tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh; khoa học - công nghệ, tri thức, nguồn nhân lực chất lượng cao và thông tin phải là động lực, yếu tố đầu vào, tạo ra giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ. Theo đó, mục tiêu phát triển kinh tế tri thức trong dài hạn gồm có bốn nội dung: Thứ nhất là khai thác, phát huy tiềm lực kinh tế tri thức của thành phố, kết hợp tranh thủ những giá trị tiên tiến của hội nhập toàn cầu để hiện đại hóa nền kinh tế thành phố và hiện đại hóa đô thị, xây dựng đô thị thông minh. Thứ hai, xây dựng 4 trụ cột của nền kinh tế tri thức và xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật trên địa bàn. Thứ ba, thúc đẩy vùng kinh tế động lực phía Nam và nền sản xuất nông nghiệp Nam bộ, Nam Tây Nguyên tái cấu trúc theo hướng kinh tế tri thức, kinh tế xanh và tích cực, chủ động hội nhập ASEAN và thế giới. Thứ tư, gắn sản xuất với nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ và giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực. Phổ cập đào tạo nghề, nâng cao chất lượng đại học, quan tâm đào tạo nhân tài mọi lĩnh vực hoạt động xã hội. Trên những mục tiêu vừa nêu, thành phố cần chú trọng xây dựng mô hình kinh tế tri thức với quy mô phù hợp trong tầm nhìn 2019 - 2020 và những năm tiếp theo. Thứ nhất, hoàn thiện cải cách hành chính nhằm tạo môi trường đầu tư chuyên nghiệp. Thành phố cần tập trung phải thay đổi mạnh mẽ về nhận thức, nhất là đối với đội ngũ lãnh đạo quản lý của thành phố, phát huy vai trò và tầm nhìn của người đứng đầu; tập trung phát triển khoa học và công nghệ, coi đó là quốc sách hàng đầu; phải xây dựng những cơ chế đặc thù để thúc đẩy và khơi nguồn tối đa những tiềm năng hiện có của thành phố; phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao, lấy khoa học công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao làm nòng cốt để thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; cần phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế năng động để tạo môi trường xã hội thuận lợi cho kinh tế tri thức phát triển. Để tháo gỡ khó khăn về thể chế, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, cần phải phát huy vai trò kiến tạo phát triển, trong đó cần thực hiện đồng bộ các biện pháp chủ yếu: Vì một thành phố Hồ Chí Minh phát triển năng động, sáng tạo Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 13 - Tập trung hoàn thiện thể chế, nhất là thể chế kinh tế, liên quan đến sản xuất, kinh doanh theo hướng đồng bộ, minh bạch, rõ ràng; bãi bỏ hoặc đình chỉ áp dụng các quy định về điều kiện kinh doanh không còn phù hợp, trái quy định của pháp luật… - Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính, đơn giản hóa, bãi bỏ các thủ tục hành chính không còn phù hợp, giảm chi phí thủ tục hành chính của doanh nghiệp và người dân; chú trọng cải cách thủ tục hành chính trong các lĩnh vực như đất đai, cấp phép, thuế, hải quan... - Kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính theo hướng bảo đảm thông suốt, hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm mỗi việc, mỗi lĩnh vực do một cơ quan phụ trách và chịu trách nhiệm, khắc phục tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ. Công khai hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước, tăng cường trách nhiệm cung cấp thông tin, trách nhiệm giải trình... Giáo dục tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức các cấp. Kiên quyết đấu tranh với các hành vi cửa quyền, nhũng nhiễu, thái độ vô cảm, tình trạng tham nhũng trong công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức. - Phát triển chính phủ điện tử, tiến tới cung cấp dịch vụ công trực tuyến, nhằm góp phần tăng tính minh bạch trong hoạt động của bộ máy chính quyền, phục vụ người dân và doanh nghiệp tốt hơn. Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tri thức hóa. Trong thời đại cách mạng khoa học và công nghệ, với xu hướng tri thức hóa các hoạt động sản xuất, kinh doanh, việc chuyển dịch cơ cấu lao động tất yếu phải là quá trình chuyển dịch lực lượng lao động từ các lĩnh vực sản xuất trực tiếp sang gián tiếp với những công việc dịch vụ và làm văn phòng. Quá trình này phải được tiến hành đồng bộ với chuyển dịch cơ cấu khoa học, công nghệ và các yếu tố sản xuất khác trên cơ sở một cơ cấu hợp lý nhất cho phép phát huy tối đa các nguồn lực cho sự tăng trưởng kinh tế. Phát huy tối đa những thế mạnh và nguồn lực hiện có để phát triển hiệu quả nhất. Trong khuôn khổ phát triển kinh tế tri thức, có hai vấn đề đặt ra là: đẩy mạnh đổi mới, ứng dụng công nghiệp mới, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm; chủ động thiết kế mẫu mã hàng hóa, đầu tư cho sản phẩm mới có giá trị gia tăng cao nhằm đáp ứng kịp thời thị hiếu của người tiêu dùng và tạo ra được những mặt hàng xuất khẩu mới của riêng mình trong chuỗi cung ứng toàn cầu, tạo sự đột phá trong xuất khẩu. Thứ ba, mở rộng đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực. Yếu tố cốt lõi của kinh tế tri thức là tri thức, vật mang chở tri thức là con người mà tố chất của con người lại gắn liền với chất lượng giáo dục. Kinh nghiệm nhiều nước cho thấy, muốn giáo dục phát triển, kịp thời đón bắt được các yêu cầu tăng nhanh của cuộc sống, phải có chính sách động viên được mọi lực lượng xã hội, cá nhân, xí nghiệp vào công cuộc giáo dục. Vì trong nền kinh tế hiện đại, lượng thông tin tăng Vì một thành phố Hồ Chí Minh phát triển năng động, sáng tạo 14 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 lên rất nhanh, đồng thời sự lão hóa của tri thức cũng tăng nhanh tương ứng, chu kỳ đổi mới tri thức rút ngắn, sự giáo dục một lần đang dần dần được thay thế bằng giáo dục suốt đời; giáo dục nghề nghiệp và giáo dục tiếp tục có vai trò ngày càng quan trọng nên không có cách nào khác là phải đa dạng hóa nguồn lực cho giáo dục. Thứ tư, tập trung vào các nhóm giải pháp nhằm đẩy mạnh kinh tế tri thức. Kinh tế tri thức với 4 trụ cột chủ yếu là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới và công nghệ môi trường được hình thành dựa trên nền tảng của khoa học và công nghệ. Để đẩy mạnh phát triển kinh tế tri thức, cần tập trung vào các biện pháp: - Tích cực vận động tổ chức lại sản xuất nông nghiệp, tổ chức lại hộ nông dân ngoại thành nhằm nâng trình độ sản xuất, hình thành vùng chuyên canh, chuyên môn hóa, tăng năng suất lao động và ứng dụng phổ biến khoa học công nghệ, đặc biệt ứng dụng kinh tế tri thức và kinh tế xanh để cuối cùng hướng đến xây dựng nền nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp công nghệ cao. - Tiến hành hiện đại hóa công nghiệp, dịch vụ theo hướng kinh tế tri thức bằng các biện pháp như tin học hóa, tự động hóa và đổi mới công nghệ hệ thống các ngành công nghiệp, dịch vụ. Trước hết, chọn lựa một tập hợp ngành được xem là chủ lực hoặc có sản phẩm chủ lực để hình thành hạt nhân vững mạnh của nền kinh tế rồi mở rộng dần ra; phát triển những ngành công nghiệp mới và công nghệ cao như công nghệ sinh học, công nghệ năng lượng tái tạo, công nghiệp công nghệ vật liệu… - Kinh tế xanh, hướng đến cải thiện đời sống con người và công bằng xã hội, đồng thời giảm thiểu những hiểm họa môi trường và tình trạng khan hiếm tài nguyên. Tiếp nhận, chuyển giao công nghệ để từng bước nâng cao trình độ công nghệ quốc gia; chú trọng công nghệ sản xuất sạch, ít chất thải nhằm giảm thiểu chất thải gây ô nhiễm, suy thoái môi trường. Áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại nhằm đưa dần hàm lượng tri thức và hàm lượng công nghệ, thông tin vào giá trị của sản phẩm, giảm dần tỉ trọng giá trị của nguyên, nhiên vật liệu và năng lượng truyền thống. Tạo dựng một nền nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp xanh là hướng phát triển tiên tiến của thế giới ngày nay. * Từ nguyên lý “đi sau phải đi nhanh hơn”, có thể nói rằng kinh tế tri thức bước đầu đã hình thành ở TP.HCM với những đặc điểm mang tính đặc thù. Đó là nền tảng quan trọng, tạo đà cho bước phát triển tiếp theo. Để phát triển được kinh tế tri thức, thành phố cần có những nỗ lực rất lớn để xây dựng được những tiền đề quan trọng và “rút ngắn” được quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra một sự phát triển nhảy vọt về chất của lực lượng sản xuất hiện tại và cần hết sức nỗ lực, tập trung giải quyết tốt những vấn đề mà thực tiễn đặt ra r ------------------------------ (1) Nguyễn Văn Thạo, Nguyễn Viết Thông, Tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện Đại hội XI của Đảng, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.153. Vì một thành phố Hồ Chí Minh phát triển năng động, sáng tạo Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 15 Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm và đánh giá cao vị trí, vai trò của phụ nữ. Người luôn trân trọng, thương yêu và không ngừng đấu tranh cho phụ nữ được hưởng quyền bình đẳng với nam giới. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giải phóng phụ nữ về cơ bản luôn bao gồm các nội bọn thực dân, phong kiến ra sức duy trì, thực hiện các chính sách ngu dân. Vì thế, việc thực hiện “nam nữ bình quyền” là mục tiêu quan trọng của nước ta “xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa nam và nữ, theo quan niệm của Người, là trên cả ba lĩnh vực: hoạt động xã hội, trong hôn nhân gia đình, trong cuộc sống cá nhân. Đó là sự giải phóng về cả trí tuệ, tài năng người phụ nữ, cả mặt tình cảm tâm lý, không chỉ đem lại cho họ những quyền lợi về mặt vật chất hàng ngày, trước mắt, mà còn tạo cho họ một tương lai phát triển lâu dài, tốt đẹp”(1). Trong bản Di chúc viết năm 1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BÌNH ĐẲNG, TIẾN BỘ VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM PHẠM THỊ NHƯ THÚY Chủ tịch Hồ Chí Minh và các cán bộ cơ quan Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam ở Việt Bắc, tháng 2-1949. Ảnh: TL. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh dung về quyền bình đẳng và sự tiến bộ của phụ nữ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ý thức sâu sắc rằng, con đường đi tới bình đẳng, tự do và phát triển của phụ nữ phải gắn với cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc. Người cho rằng, tình trạng bất bình đẳng giữa nam và nữ không chỉ do ảnh hưởng các quan niệm lỗi thời, tư tưởng lạc hậu của xã hội cũ để lại, mà phần lớn là do chế độ kinh tế, xã hội quyết định. Nạn áp bức dân tộc và bóc lột giai cấp của bọn thực dân Pháp đã đẩy phụ nữ vào cảnh đói nghèo, tủi nhục không có quyền tự do dân chủ. Đồng thời, tư tưởng Nho giáo cũng rất nặng nề trong sự phân biệt đối xử giữa nam và nữ, mà 16 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”. Như vậy, tương lai phát triển của phụ nữ không tách rời bước tiến của đất nước trên con đường xây dựng cuộc sống văn minh, hiện đại, nghĩa tình, ấm no, hạnh phúc. Nhưng để giành được quyền bình đẳng, chống sự phân biệt đối xử với phụ nữ, không ai có thể làm hộ cho phụ nữ mà chính họ phải vươn lên, tự giải phóng, đứng lên đấu tranh cho quyền lợi của mình. Muốn tự giải phóng, chị em phụ nữ phải có ý thức đầy đủ về quyền lợi và nghĩa vụ của mình, có khả năng tinh thần làm chủ, có đức, có tài, đồng thời tự xóa bỏ tâm lý tự ti, bảo thủ, ỷ lại và phải luôn có tinh thần học tập nâng cao trình độ chuyên môn. Việc giải phóng phụ nữ trong gia đình cũng được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, nó không đơn thuần là thực hiện sự phân công bình đẳng giữa vợ và chồng mà căn bản có sự phân công sắp xếp chung của toàn xã hội, sao cho người phụ nữ được giảm nhẹ chứ không phải là rời bỏ công việc nội trợ, chăm sóc con cái. Như vậy họ mới có điều kiện học tập nâng cao trình độ về mọi mặt, từ đó người phụ nữ mới đủ khả năng và điều kiện làm mọi công việc xã hội và gia đình như nam giới, đảm nhiệm được những vị trí, vai trò công tác như nam giới. Quan điểm mới mẻ và tiến bộ về con đường đưa phụ nữ tới bình đẳng, tự do và phát triển của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn dắt phong trào phụ nữ đạt những thành tự to lớn, tiến những bước dài cùng sự lớn mạnh của đất nước. Quyền bình đẳng cho phụ nữ Việt Nam đã được Người đặt nền móng và tạo dựng trong thực tế qua Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959. Sau này, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục phát triển với Hiến pháp năm 1980, Hiếp pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Lao động, Bộ luật Hình sự, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Bình đẳng giới, Luật Bảo hiểm xã hội… hay qua Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 7-6-1984 của Ban Bí thư về “Một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ”, Chỉ thị số 28-CT/TW ngày 24-12-1993 của Ban Bí thư về “Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về việc tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới”, Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 15-6-1994 của Ban Bí thư về “Vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới”… Từ thực tiễn đó, ngày 27-4-2007, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 11-NQ/TW về “Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Nghị quyết chỉ rõ: “Phấn đấu đến năm 2020, phụ nữ được nâng cao trình độ về mọi mặt, có trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 17 nhập kinh tế quốc tế; có việc làm, được cải thiện rõ rệt về đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần; tham gia ngày càng nhiều hơn công việc xã hội, bình đẳng trên mọi lĩnh vực; đóng góp ngày càng lớn hơn cho xã hội và gia đình. Phấn đấu để nước ta là một trong các quốc gia có thành tựu bình đẳng giới tiến bộ nhất của khu vực”. Chỉ thị cũng định ra các yêu cầu về quy hoạch có khoa học tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ, tạo điều kiện để phụ nữ cống hiến và trưởng thành; phấn đấu tăng tỉ lệ nữ trong các cấp ủy đảng, cơ quan nhà nước, trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, y tế, giáo dục, văn hóa, nghệ thuật; chú trọng đào tạo nghề, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ của phụ nữ, nâng tỉ lệ nữ được đào tạo trên đại học và tỉ lệ lao động nữ được đào tạo nghề; quan tâm đặc biệt đến phụ nữ dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, phụ nữ nghèo; thực hiện trẻ hóa đội ngũ cán bộ nữ, tăng cường phát triển đảng viên nữ nhằm bổ sung nguồn lực mới cho Đảng… Tinh thần Nghị quyết đã cụ thể hóa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề bình đẳng, phát triển của phụ nữ nước ta trong bối cảnh đổi mới đất nước hiện nay. Muốn đạt được mục tiêu giúp cho người phụ nữ hòa nhập một cách xứng đáng và thuận lợi vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước thì mỗi gia đình không chỉ đơn giản là động viên chị em hăng hái tham gia lao động sản xuất và các hoạt động xã hội. Vấn đề quan trọng là phải nâng cao chất lượng lao động, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn của họ, từ đó người phụ nữ sẽ tự tin, tham gia được nhiều hơn vào các cơ quan quản lý nhà nước, lãnh đạo chính trị, kinh tế, văn hóa… Về chính trị, nữ giới Việt Nam có tổ chức hoạt động tại Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Tỉ lệ nữ giới đại diện trong cơ quan lập pháp của Việt Nam luôn thuộc nhóm có thứ hạng cao và ngày càng tăng trong khu vực và thế giới. Trên tinh thần của Đảng là “nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ; thực hiện tốt bình đẳng giới, tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển tài năng”(2) thì tỉ lệ nữ đại biểu Quốc hội luôn duy trì ở mức cao và có xu hướng tăng lên. Cụ thể: từ 3% ở Quốc hội khóa I tăng lên 24,4% ở khóa VIII (1987 - 1992), 26,72% với 133 nữ đại biểu Quốc hội trên tổng số 496 đại biểu ở khóa XIV (2016 - 2021). Trong bầu cử đại biểu HĐND TP.HCM khóa 2016 - 2021, tỉ lệ phụ nữ trúng cử đạt 43%... Bên cạnh đó, bình đẳng giới trong lao động cũng đạt được nhiều kết quả khả quan. Năm 2017, tỉ lệ nữ giới tham gia lao động chiếm 48,4% lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên, như vậy tỉ lệ tham gia lao động lên đến 73% tổng số phụ nữ trong độ tuổi lao động. Tỉ lệ này cũng cao hơn mức trung bình thế giới (49%), cao hơn mức trung bình của khu Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh 18 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 vực Đông Á - Thái Bình Dương (59%) và nhóm các nước thu nhập trung bình thấp (39%). Đồng thời, tỉ lệ phụ nữ làm chủ doanh nghiệp và cơ sở kinh doanh ở nước ta đạt trên 31,6%, thuộc nhóm cao nhất của khu vực Đông Nam Á cũng là thành quả rất đáng ghi nhận. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở: “Cần tổ chức dịch vụ xã hội cũng như sinh hoạt gia đình để người phụ nữ được giảm nhẹ chứ không phải là rời bỏ công việc, nội trợ, chăm lo con cái…”. Thực hiện vấn đề giải phóng, bình đẳng, phát triển của phụ nữ không có nghĩa là kéo người phụ nữ ra khỏi gia đình hay giảm nhẹ thiên chức của người mẹ, người vợ của gia đình. Trên thực tế, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam xưa và nay luôn gắn liền với gia đình cùng nhiều thiên chức cao quý của người vợ, người mẹ. Qua nhiều sự đổi thay, biến chuyển của xã hội, quan niệm “Thế giới là ngôi nhà của đàn ông, ngôi nhà là thế giới của đàn bà” hay “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm” có phần nào vẫn đúng. Khác với một số phụ nữ các nước trên thế giới, phụ nữ Việt Nam từ truyền thống xa xưa đến nay vẫn luôn là lực lượng tham gia sản xuất và lao động gia đình để hoàn thành sự nghiệp và bảo toàn hạnh phúc, do đó họ luôn phải nỗ lực thật nhiều. Chính sự nỗ lực đó đã minh chứng cho sự vươn lên, sự tự giải phóng tích cực của phụ nữ Việt Nam như Bác Hồ đã căn dặn. Và đây là điều có ý nghĩa thiết thực đối với sự phát triển của nước ta trong thời gian qua cũng như trong tương lai r ----------------------------- (1) Hồ Chủ tịch với vấn đề giải phóng phụ nữ, Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 1970, tr.31. (2)Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII. TỰ HÀO GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG (Tiếp theo trang 6) Ngày giỗ Tổ Hùng Vương được tổ chức nhằm tăng cường văn hóa tín ngưỡng truyền thống của người Việt, mặt khác cũng tăng cường sự đoàn kết và tình hữu nghị giữa các dân tộc Việt Nam. Bởi, đại đoàn kết là truyền thống và di sản văn hóa quý báu của dân tộc ta, được hun đúc qua lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Trong lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, đại đoàn kết dân tộc luôn là một trong những yếu tố quyết định thành công. Bối cảnh, tình hình trong nước và thế giới hiện nay càng đòi hỏi nguồn sức mạnh đoàn kết mạnh mẽ của tất cả người Việt Nam trong nước và ở nước ngoài, mà Giỗ Tổ là một trong những dịp mang ý nghĩa sâu sắc nhất r --------------------------- (1) Lê Tượng và Phạm Hoàng Oanh, Đền Hùng di tích lịch sử văn hóa quốc gia, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2010, tr.136. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 19 Trong 5 năm qua, các hội văn học, nghệ thuật chuyên ngành Trung ương và Liên hiệp Các hội văn học, nghệ thuật Việt Nam đã bám sát các quan điểm chỉ đạo của Đảng về văn hóa, văn nghệ; phát huy vai trò của tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, thực hiện tốt nhiệm vụ tập hợp, động viên đội ngũ văn nghệ sĩ, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động sáng tạo đi vào chiều sâu, coi trọng sáng tác gắn liền với quảng bá tác phẩm. Công tác đối ngoại nhân dân và giao lưu quốc tế về văn học, nghệ thuật được đẩy mạnh. Công tác nghiên cứu lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật chuyển biến tích cực. Công tác đấu tranh phản bác các khuynh hướng, hành vi cực đoan, các quan điểm, luận điệu xuyên tạc, sai trái trên lĩnh vực văn hóa, văn học, nghệ thuật được coi trọng. Công tác đào tạo, bồi dưỡng các tài năng trẻ, văn nghệ sĩ người dân tộc thiểu số được quan tâm. Quyền tự do sáng tạo của người nghệ sĩ được tôn trọng, không khí dân chủ được mở rộng. Tuy nhiên, lĩnh vực văn học, nghệ thuật và đội ngũ văn nghệ sĩ nước ta còn một số hạn chế, yếu kém cần khắc phục. Chưa có nhiều tác phẩm phản ánh sinh động, sâu sắc, xứng tầm với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới đất nước. Hoạt động lý luận, phê bình còn thụ động, thiếu tính chiến đấu, tính định hướng. Công tác quản lý văn hóa, văn học, nghệ thuật chưa theo kịp sự phát triển. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ ở các hội văn học, nghệ thuật chuyên ngành Trung ương và địa phương còn có những bất cập, hạn chế. Một bộ phận văn nghệ sĩ chưa nêu cao trách nhiệm công dân, bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp. Trong những năm tới, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng. Sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội, sự giao lưu văn hóa, nghệ thuật giữa các quốc gia sẽ tác động không nhỏ đến sự phát triển văn hóa, văn học, nghệ ----------------------------- (*) Trích Chỉ thị số 31-CT/TW ngày 22-1-2019 của Ban Bí thư về đại hội các hội văn học, nghệ thuật và Liên hiệp Các hội văn học, nghệ thuật Vỉệt Nam. CHỈ THỊ CỦA BAN BÍ THƯ VỀ ĐẠI HỘI CÁC HỘI VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT VÀ LIÊN HIỆP CÁC HỘI VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT VIỆT NAM(*) Hướng dẫn công tác xây dựng Đảng 20 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 thuật nước ta. Năm 2019 và năm 2020, các hội văn học, nghệ thuật và Liên hiệp Các hội văn học, nghệ thuật Việt Nam sẽ tiến hành đại hội nhiệm kỳ. Đại hội lần này được tiến hành trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang thi đua thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng; đất nước ta tiếp tục phát triển nhanh và khá toàn diện. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Quốc phòng, an ninh được tăng cường; hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, thống nhất, chủ quyền, lãnh thổ quốc gia và giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Vị thế và uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Với tinh thần “Đoàn kết - Dân chủ - Đổi mới - Trách nhiệm”, việc chuẩn bị và tổ chức đại hội các hội văn học, nghệ thuật và Liên hiệp Các hội văn học, nghệ thuật Việt Nam (sau đây gọi tắt là các hội, liên hiệp hội) cần làm tốt một số nhiệm vụ sau đây: 1. Đại hội phải thực sự là đợt sinh hoạt chính trị, văn hóa và nghề nghiệp quan trọng của đội ngũ cán bộ, hội viên và đông đảo văn nghệ sĩ. Đây là dịp để tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí quan trọng của văn học, nghệ thuật trong việc xây dựng nền tảng đạo đức, văn hóa, tinh thần của xã hội và vai trò, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân của đội ngũ văn nghệ sĩ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đại hội cần tiếp tục quán triệt và tổ chức thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về văn hóa, văn nghệ; đánh giá đúng tình hình hoạt động của các hội, liên hiệp hội trong nhiệm kỳ qua, rút ra những bài học kinh nghiệm sâu sắc trong công tác chỉ đạo, quản lý và hoạt động của các hội, liên hiệp hội. Đại hội cần phát huy, tập trung trí tuệ, trách nhiệm của đội ngũ văn nghệ sĩ trong việc xây dựng phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp để các hội, liên hiệp hội phát triển vững mạnh, nâng cao tính chuyên nghiệp, chất lượng, hiệu quả hoạt động chuyên môn; góp phần đào tạo, hỗ trợ, chăm lo đời sống, tạo điều kiện cho văn nghệ sĩ sáng tạo nhiều tác phẩm có giá trị; nâng cao tính chuyên nghiệp trong hoạt động hội và tư duy sáng tạo của văn nghệ sĩ; khắc phục hạn chế, yếu kém trong hoạt động nghề nghiệp, công tác tổ chức hội, chất lượng hội viên; ngăn chặn, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, tư tưởng lệch lạc, sai trái trong lĩnh vực văn hóa, trước hết là trong văn học, nghệ thuật. Đại hội cần kiểm điểm, đánh giá sâu sắc việc thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, Hướng dẫn công tác xây dựng Đảng Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 21 nghệ thuật trong thời kỳ mới, Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; tiếp tục cổ vũ, động viên, khích lệ văn nghệ sĩ sáng tác về đất nước, con người Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, về chủ đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, về công cuộc đổi mới, về sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. 2. Ban chấp hành các hội cần chuẩn bị tốt các văn kiện trình đại hội: báo cáo của ban chấp hành, báo cáo sửa đổi điều lệ, báo cáo kiểm điểm của ban chấp hành nhiệm kỳ vừa qua. Cần đặc biệt quan tâm làm tốt công tác nhân sự và tổ chức bầu cử theo đúng quy định. Việc lựa chọn, giới thiệu nhân sự tham gia ban chấp hành khóa mới cần trên cơ sở kế thừa và phát triển theo hướng trẻ hóa cán bộ; bảo đảm tiêu chuẩn, kết hợp với cơ cấu vùng miền, giới tính, dân tộc, các ngành chuyên môn. Ban chấp hành có số lượng hợp lý, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của các hội, liên hiệp hội trong những năm tới. Đại hội cần bầu đủ số lượng ban chấp hành gồm những người thực sự tiêu biểu về phẩm chất, năng lực, có đủ sức khỏe, có uy tín, có khả năng đoàn kết, tập hợp văn nghệ sĩ. Đại hội các hội văn học, nghệ thuật chuyên ngành Trung ương nhiệm kỳ này được tiến hành theo hai cấp: đại hội cơ sở và đại hội toàn quốc. Đại hội cơ sở là đại hội toàn thể, đại hội toàn quốc là đại hội đại biểu. Các đại biểu được bầu dự đại hội cấp trên phải là những văn nghệ sĩ tiêu biểu về chấp hành đường lối, quan điểm văn hóa, văn nghệ của Đảng, hoạt động chuyên môn, gương mẫu chấp hành điều lệ hội. 3. Đảng đoàn Liên hiệp Các hội văn học, nghệ thuật Việt Nam, Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam và ban chấp hành các hội cần chủ động phối hợp với các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương chỉ đạo chặt chẽ công tác chuẩn bị nội dung, chương trình đại hội và công tác nhân sự của các hội. Tổ chức đại hội theo tinh thần đổi mới, bảo đảm đúng quy định, trang trọng, thiết thực, hiệu quả và đúng tiến độ. 4. Các tỉnh ủy, thành ủy, các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương có liên quan phối hợp chỉ đạo, tạo điều kiện, hỗ trợ các hội văn học, nghệ thuật địa phương, các chi hội chuyên ngành Trung ương hoạt động tại địa phương chuẩn bị và tổ chức tốt đại hội theo quy định của điều lệ các hội. 5. Các hội văn học, nghệ thuật và Liên hiệp Các hội văn học, nghệ thuật Việt Nam và các tỉnh, thành phố lập dự toán kinh phí tổ chức đại hội trình cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định, bảo đảm thiết thực, hiệu quả và tiết kiệm… r Hướng dẫn công tác xây dựng Đảng 22 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 1. Thực hiện Chỉ thị số 09-CT/TW của Ban Bí thư khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới (viết tắt là Chỉ thị số 09), Phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong những năm qua đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng đối với Phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc có những chuyển biến tích cực. Nhận thức của cấp ủy, chính quyền, MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp và nhân dân về nhiệm vụ này được nâng cao hơn. Công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia bảo vệ an ninh, trật tự được quan tâm. Nội dung, hình thức của Phong trào được đổi mới, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Nhiều mô hình, điển hình có hiệu quả được nhân rộng. Nhiều vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự đã được phát hiện và giải quyết kịp thời tại cơ sở. Phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc đã gắn kết, cùng phát triển với các cuộc vận động, phong trào thi đua, góp phần quan trọng bảo đảm giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Bên cạnh những kết quả đạt được, Phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc có lúc, có nơi chưa được duy trì thường xuyên, chưa vững chắc; nhận thức và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân về vai trò và tầm quan trọng của Phong trào trong xây dựng, tăng cường thế trận an ninh nhân dân chưa đầy đủ. Nội dung, chất lượng, hiệu quả của một số mô hình vận động nhân dân tham gia Phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc còn hạn chế; lực lượng nòng cốt ở một số nơi còn thiếu và yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu. Nguyên nhân của những hạn chế trên chủ yếu là do: Trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền, MTTQ và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp đối với nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự và Phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc ở một số nơi chưa cao. Sự phối hợp giữa các ban, ngành, MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp chưa chặt chẽ. Công tác tham mưu, phối hợp để giải quyết các vụ khiếu kiện đông ----------------------------- (*) Trích Kết luận số 44-KL/TW ngày 22-1-2019 của Ban Bí thư về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 09-CT/TW của Ban Bí thư khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới. KẾT LUẬN CỦA BAN BÍ THƯ VỀ TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI PHONG TRÀO TOÀN DÂN BẢO VỆ AN NINH TỔ QUỐC TRONG TÌNH HÌNH MỚI(*) Hướng dẫn công tác xây dựng Đảng Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 23 người, những vấn đề phức tạp về an ninh liên quan đến tôn giáo, dân tộc ở một số địa phương còn lúng túng, hiệu quả thấp. Công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm và năng lực tham gia bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở cơ sở, đặc biệt là ở các cộng đồng dân cư chưa được thực sự quan tâm đúng tầm mức. 2. Tình hình an ninh, trật tự hiện nay đang có những diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch, đối tượng phản động, chống đối đang lợi dụng dân chủ và không gian mạng để chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta. Tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ..., bước đầu được ngăn chặn, đẩy lùi, song còn diễn biến phức tạp, tác động tiêu cực đến niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Tội phạm và tệ nạn xã hội vẫn diễn biến phức tạp; một số nơi tội phạm hoạt động còn lộng hành, thách thức, gây án theo kiểu “xã hội đen”... gây tâm lý bất an trong xã hội. Tình hình trên, đòi hỏi phải tiếp tục đẩy mạnh Phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, góp phần bảo vệ cuộc sống bình yên cho nhân dân, môi trường hòa bình, ổn định cho đất nước phát triển. Để phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế, Ban Bí thư yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp tiếp tục thực hiện nghiêm chỉnh Chỉ thị số 09 của Ban Bí thư; đồng thời quán triệt và tập trung thực hiện một số nội dung sau: 2.1. Phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là cơ sở rất quan trọng để xây dựng thế trận lòng dân, thế trận an ninh nhân dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Việc duy trì và nâng cao chất lượng, hiệu quả của Phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc là trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp, trước hết là người đứng đầu; là biện pháp cơ bản, quan trọng để đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ đất nước trong tình hình mới. 2.2. Chú trọng phát triển và nâng cao chất lượng các hình thức tự quản, tự phòng, tự bảo vệ, tự hòa giải từ gia đình đến cộng đồng dân cư, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, trường học, nhất là ở các địa bàn trọng điểm, chiến lược, phức tạp về an ninh, trật tự, tuyến biên giới, biển, đảo. Lưu ý mọi chủ trương, biện pháp, kế hoạch vận động toàn dân tham gia xây dựng Phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trước hết phải hợp lòng dân, vừa sức dân, vì lợi ích và yêu cầu của đời sống nhân dân; hoạt động của Phong trào phải được lồng ghép với việc thực hiện nhiệm vụ của các cấp, các ngành, gắn với các cuộc vận động, phong trào thi đua và kế hoạch, chương trình công tác, phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương, cơ quan. Phát huy hiệu quả các loại hình tuyên truyền phù hợp với tình hình hiện nay, kết hợp giữa các phương pháp truyền thống Hướng dẫn công tác xây dựng Đảng 24 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 với việc ứng dụng công nghệ thông tin (báo điện tử, mạng xã hội...) để nhân dân được cập nhật thông tin kịp thời, thường xuyên về tình hình an ninh, trật tự; nâng cao cảnh giác trước âm mưu, hoạt động chống, phá của các thế lực thù địch, đối tượng phản động; nâng cao ý thức chấp hành pháp luật và trách nhiệm trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội và Phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. 2.3. Tăng cường phối hợp giữa lực lượng Công an nhân dân với Quân đội nhân dân, MTTQ và các ban, bộ, ngành, đoàn thể. Kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của Ban Chỉ đạo thực hiện Phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc theo hướng tập trung thống nhất, toàn diện; khắc phục tình trạng có nhiều ban chỉ đạo cùng thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự. Việc tổ chức Ngày hội Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc phải được duy trì thường xuyên hằng năm, hướng về cơ sở, thôn, xóm, khu dân cư, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, nhà trường để đông đảo nhân dân trực tiếp tham gia. Nội dung phải thiết thực, tập trung ghi nhận, biểu dương, khen thưởng, động viên kịp thời các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và Phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. 2.4. Quan tâm xây dựng, phát huy vai trò của lực lượng nòng cốt (bí thư chi bộ đảng, trưởng các đoàn thể, trưởng thôn, bản, người có uy tín, các chức sắc trong tôn giáo, dân tộc...) làm hạt nhân, chỗ dựa của nhân dân trong Phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Lựa chọn những người có năng lực, phẩm chất, có uy tín để bổ sung vào các tổ chức quần chúng làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự; thường xuyên tổ chức bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn, kiến thức pháp luật về Phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc cho lực lượng làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở. 2.5. Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền cần chăm lo, tạo điều kiện xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Chú trọng kiện toàn lực lượng công an xã, phường, thị trấn và từng bước bố trí công an chính quy đảm nhiệm các chức danh công an xã. Công an xã phải gần dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực sự là nòng cốt bảo vệ an ninh Tổ quốc ở cơ sở. Sớm có quy định về tổ chức, hoạt động và chính sách đối với lực lượng làm nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở. 2.6. Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức thực hiện; kịp thời động viên, khen thưởng, tuyên truyền, nêu gương người tốt, việc tốt, những kinh nghiệm hay trong Phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; khắc phục những sơ hở, yếu kém trong quá trình tổ chức thực hiện. 3. Các cấp ủy, tổ chức đảng có trách nhiệm quán triệt và có chương trình, kế hoạch hành động cụ thể triển khai thực hiện Kết luận này… r Hướng dẫn công tác xây dựng Đảng Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 25 Xây dựng, chỉnh đốn Đảng về tư tưởng là các hoạt động của các cấp ủy trong việc tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương của Đảng, đồng thời đấu tranh chống những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch và nhận thức lệch lạc của cán bộ, đảng viên và nhân dân để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ Đảng. Thời gian qua, Đảng bộ TP.HCM rất chú trọng đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về tư tưởng và đã đạt được một số kết quả nổi bật. Thứ nhất, các cấp ủy đảng thuộc Đảng bộ TP.HCM đã làm tốt công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Xuất phát từ đặc điểm, tình hình cụ thể, các cấp ủy đảng có nhiều biện pháp tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân với nhiều nội dung, phương thức tuyên truyền đa dạng, phong phú, phù hợp với từng đối tượng, nhằm tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức, sự thống nhất về nhận thức và hành động trong toàn Đảng bộ. Về nội dung tuyên truyền, Đảng bộ thành phố xác định tăng cường lãnh đạo thực hiện công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về tư tưởng là trách nhiệm của các đảng bộ và toàn hệ thống chính trị, trên cơ sở đó lãnh đạo, chỉ đạo ban tuyên giáo các cấp thực hiện các nội dung tuyên truyền, định hướng tư tưởng và thực hiện nhiệm vụ chính trị ở từng đơn vị, gắn với việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, về học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và những giá trị truyền thống dân tộc. Trong năm 2018, TP.HCM xây dựng nội dung tuyên truyền với các hoạt động cụ thể như: phát hành đề cương tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn, sự kiện lớn như tuyên truyền 50 năm chiến thắng Xuân Mậu Thân, 170 năm tác phẩm Tuyên ngôn của đảng cộng sản, 60 năm ngày Bác Hồ ra lời kêu gọi Thi đua ái quốc, kỷ niệm ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng, kết quả thực hiện nghị quyết đại hội đảng các cấp, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG VỀ TƯ TƯỞNG NGUYỄN THỊ THẢO Kinh nghiệm công tác xây dựng Đảng 26 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 cách Hồ Chí Minh với các tác phẩm như Sửa đổi lối làm việc, Nâng cao đạo đức cách mạng, quétsạch chủ nghĩa cá nhân..., về chủ quyền biển đảo, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tuyên truyền giá trị truyền thống lịch sử, văn hóa, hội nhập quốc tế... Năm 2019, Đảng bộ thành phố tiếp tục tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước, trong đó một số ngày kỷ niệm năm chẵn, năm tròn như 40 năm chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc của Tổ quốc, 65 năm Ngày chiến thắng Điện Biên Phủ, 60 năm đường Trường Sơn, 90 năm thành lập Công đoàn Việt Nam, 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh... Về phương thức tuyên truyền, các cấp ủy đảng thực hiện các hình thức tuyên truyền phong phú, đa dạng, phù hợp với từng đối tượng, địa bàn, tạo không khí sôi nổi, như thông qua khẩu hiệu tuyên truyền, các phương tiện truyền thông, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, các lớp phổ biến, tuyên truyền nghị quyết, thông qua hệ thống các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, các cuộc thi, tọa đàm, tuyên truyền miệng, báo cáo viên, các trang mạng xã hội, các hội thảo, tọa đàm khoa học, các phong trào thi đua yêu nước... Trong năm 2018, Ban Thường vụ Thành đoàn phối hợp với Đại học Quốc gia TP.HCM và Đảng ủy Khối Các trường đại học, cao đẳng duy trì và tổ chức các hội thi Olympic các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần nâng cao nhận thức chính trị, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho thanh niên. Thành phố tích cực tuyên truyền, giới thiệu các tác phẩm, ấn phẩm về Bác Hồ, kết quả thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, các tấm gương điển hình trong học tập và làm theo đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh qua trang thuviensachhochiminh.tphcm.gov.vn. Thứ hai, Đảng bộ TP.HCM đã thực hiện các biện pháp đấu tranh chống những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch và những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Trước sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động trên nhiều lĩnh vực, các cấp ủy đảng của Đảng bộ thành phố thường xuyên, tích cực đấu tranh chống những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch và quan điểm, nhận thức lệch lạc trong cán bộ, đảng viên bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Đảng, đất nước. Thành ủy thành lập bộ phận chuyên trách nhằm tăng cường đấu tranh có hiệu quả với âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, chủ động nắm, phân tích, nhận định tình hình, tổ chức đấu tranh Kinh nghiệm công tác xây dựng Đảng Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 27 với đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị; đồng thời thực hiện tốt việc phòng ngừa và kịp thời phát hiện, xử lý các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Thành ủy đã xây dựng Đề án số 02-ĐA/TU ngày 24- 3-2014 về “Phòng, chống biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng bộ thành phố và phản bác các quan điểm sai trái”, Đề án số 01-ĐA/TU ngày 29-2-2016 về “Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của chi bộ góp phần ngăn chặn suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên thuộc Đảng bộ TP.HCM”. Thành ủy thường xuyên chỉ đạo các cấp ủy đảng thường xuyên tự phê bình và phê bình, nhằm uốn nắn những nhận thức lệch lạc, việc làm thiếu gương mẫu, nói không đi đôi với làm, bệnh hình thức, đấu tranh với quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, cơ hội, phản động, đồng thời chú trọng kiểm tra, giám sát việc thực hiện các giải pháp đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái trong cán bộ, đảng viên. Với nhiều biện pháp tích cực, đột phá, sáng tạo, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về tư tưởng ở Đảng bộ thành phố có sự chuyển biến tích cực, góp phần ổn định tư tưởng trong các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, đồng thời đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch và nhận thức lệch lạc của cán bộ, đảng viên để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về tư tưởng trong tình hình mới, Đảng bộ thành phố cần tiếp tục quan tâm một số vấn đề sau: Thứ nhất, xác định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, bộ máy làm công tác tuyên truyền. Chủ thể của công tác tuyên truyền, phổ biến nghị quyết phải chủ động nắm bắt diễn biến tình hình, những vấn đề thời cuộc đang đặt ra liên quan đến đất nước và địa phương để kịp thời cung cấp thông tin chính thống, định hướng nhận thức trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, tạo sự thông suốt, ổn định về tư tưởng, sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ và sự đồng thuận trong xã hội. Thứ hai, nâng cao trình độ nhận thức lý luận và tổng kết thực tiễn của các cấp ủy, cán bộ, đảng viên. Các cấp ủy thường xuyên tổ chức bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới về lý luận và thực tiễn cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, những người làm công tác tuyên truyền, nhằm nâng cao nhận thức lý luận, trau dồi bản lĩnh chính trị, năng lực thực tiễn, đạo đức, phong cách và trách nhiệm, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của Đảng trong tình hình mới. Cán bộ, đảng viên phải nghiêm túc, tích cực gương mẫu trong học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để có nhận thức và (Xem tiếp trang 37) Kinh nghiệm công tác xây dựng Đảng 28 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 Đảng bộ Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn - TNHH MTV có 944 đảng viên/4.989 cán bộ, công nhân viên, người lao động tại 21 đơn vị; đảng viên có trình độ học vấn THPT trở lên chiếm 98,94%. Đảng bộ có 21 cơ sở đảng trực thuộc (gồm 15 đảng bộ cơ sở với 76 chi bộ trực thuộc, 6 chi bộ cơ sở); trong đó có 4 đơn vị có vốn cổ phần không chi phối, 8 đơn vị có vốn cổ phần chi phối, còn lại là đơn vị trực thuộc. Đại đa số đảng viên và người lao động đều có trình độ văn hóa phổ thông, do đó nắm bắt nhanh thông tin chính trị - xã hội, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Hệ thống thông tin, tuyên truyền của ngành đang trong quá trình hoàn thiện và đóng vai trò quan trọng trong công tác truyền thông. Tổng công ty có trang tin điện tử chuyển tải thông tin tới toàn thể người lao động; các đơn vị trực thuộc đều có trang tin điện tử riêng, một số đơn vị phát hành bản tin nội bộ, bảng tin đơn vị, thư viện... Hệ thống này hỗ trợ có hiệu quả việc truyền đạt chỉ đạo và chuyển tải văn bản tới từng đơn vị. Tuy nhiên, một số đơn vị hoạt động thuộc lĩnh vực tư vấn xây dựng, thi công các công trình trong và ngoài thành phố, có một số là lao động phổ thông, đảng viên thường phân tán. Các đơn vị thuộc lĩnh vực dịch vụ phân phối nước cũng có bộ phận thi công, tu bổ, bảo trì hệ thống mạng lưới cấp nước thường xuyên bám địa bàn để thi công; bộ phận này thường khó sắp xếp thời gian để tham gia học tập, thảo luận nếu tập trung từ hai buổi trở lên trong tuần. Hàng năm, số lượng các nghị quyết, chỉ thị từ cấp trên khá nhiều, trong khi nhiệm vụ chính trị tại cơ quan, đơn vị đòi hỏi nỗ lực cao để thực hiện; lực lượng cán bộ chuyên trách ít, đa số là kiêm nhiệm và có hạn chế trong kỹ năng, nghiệp vụ công tác xây dựng Đảng. Việc bố trí thời gian hợp lý để sinh hoạt chính trị tuy có chủ động thực hiện đổi mới, năng động, sáng tạo nhưng chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Đội ngũ báo cáo viên phần lớn dựa vào lực lượng được hỗ trợ từ cấp trên; đội ngũ hiện tại ở các đơn vị còn ít và thiếu kinh nghiệm, kỹ năng truyền đạt. Nhiều năm trước đây, khi tổ chức truyền đạt nghị -------------------------------------- (*) Trưởng ban Tuyên giáo Đảng ủy Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn. ĐẢNG BỘ TỔNG CÔNG TY CẤP NƯỚC SÀI GÒN MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ BÁO CÁO VIÊN NGHỊ QUYẾT NGÔ BÁCH PHONG(*) Kinh nghiệm công tác xây dựng Đảng Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 29 quyết của Đảng, Đảng ủy thường mời báo cáo viên cấp trên. Hình thức này về ưu điểm là báo cáo viên có trình độ, kỹ năng chuyên nghiệp, có nhiều kiến thức liên quan chủ đề trình bày. Tuy nhiên, báo cáo viên ít nên thời điểm tổ chức học tập bị động tùy theo việc có mời được báo cáo viên hay không; đồng thời chỉ có thể tổ chức hình thức học tập trung do phụ thuộc vào báo cáo viên. Mặt khác, báo cáo viên cấp trên không nắm rõ đặc điểm của ngành nên ít có minh họa gắn với hoạt động của đơn vị, dẫn đến người nghe ít nhiều giảm chú ý. Về công tác tổ chức, do phụ thuộc báo cáo viên nên chỉ có thể tổ chức hình thức học tập trung vì vậy chất lượng chưa cao. Do số lượng đảng viên, người lao động đông, nhằm tránh ảnh hưởng thời gian sản xuất kinh doanh, thường phải chia nhỏ số người học của từng đơn vị thành viên, hoặc bố trí học tập một bộ phận sau đó đổi ca, dẫn đến thời gian triển khai học nghị quyết bị động, kéo dài. Việc triển khai chương trình hành động, tổ chức thảo luận có hạn chế, gây ảnh hưởng tới thời gian lao động sản xuất. Về tư tưởng, ít nhiều có biểu hiện ngán ngại việc học tập nghị quyết của Đảng trong bộ phận đảng viên... Từ thực trạng trên, với sự tham mưu của Ban Tuyên giáo Đảng ủy, Ban Thường vụ Đảng ủy Tổng Công ty quyết tâm xây dựng đội ngũ báo cáo viên cơ sở, kết hợp cùng đội ngũ báo cáo viên cấp trên để có thể tiến hành chủ động việc tổ chức học tập, quán triệt, triển khai nghị quyết của Đảng trong Đảng bộ. Đảng ủy nêu một số chỉ đạo: đội ngũ báo cáo viên cơ sở do cấp ủy cơ sở trực tiếp quản lý, phân công nhiệm vụ; Ban Tuyên giáo Đảng ủy Tổng Công ty chịu trách nhiệm hướng dẫn nghiệp vụ, xây dựng và cung cấp tư liệu trình chiếu các nghị quyết, tổ chức bồi dưỡng, nâng chất lượng đội ngũ, tham mưu các chế độ, chính sách; đội ngũ báo Đồng chí Thân Thị Thư (giữa), Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy TP.HCM, chúc mừng các cá nhân điển hình học tập Bác tại Đảng bộ SAWACO. Ảnh: NLĐ. Kinh nghiệm công tác xây dựng Đảng 30 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 cáo viên phải học tập sử dụng thành thạo phương pháp truyền đạt hiện đại để thu hút người nghe; thường xuyên đổi mới hình thức tổ chức, hạn chế tối đa việc tổ chức học tập tập trung với số lượng học viên lớn. Ban Tuyên giáo Đảng ủy tham mưu chủ trương thành lập tổ tuyên giáo tại 21 đơn vị cơ sở, do đại diện cấp ủy làm tổ trưởng. Cấp ủy cơ sở ra quyết định thành lập, xây dựng quy chế quản lý, giao nhiệm vụ cho đội ngũ báo cáo viên cơ sở. Đảng ủy Tổng Công ty hướng dẫn tiêu chuẩn công nhận báo cáo viên; ra quyết định công nhận đội ngũ báo cáo viên cấp Tổng Công ty, công nhận các tổ trưởng tổ tuyên giáo cơ sở. Một số đơn vị do đồng chí bí thư cấp ủy kiêm nhiệm báo cáo viên, có đơn vị báo cáo viên không nằm trong cấp ủy mà thuộc diện cán bộ quy hoạch thay thế (chủ yếu là chọn người có kỹ năng truyền đạt). Đội ngũ báo cáo viên cơ sở được tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ tuyên truyền miệng do Ban Tuyên giáo Đảng ủy phối hợp các ban xây dựng Đảng thuộc Đảng ủy tổ chức hằng năm; hoặc lần lượt cử tham dự các lớp tập huấn của cấp thành phố. Đội ngũ này được mời tham dự hội nghị triển khai nghị quyết của Đảng ở cấp Tổng Công ty cùng cán bộ chủ chốt; được cung cấp tư liệu truyền đạt nghị quyết (các tư liệu và văn kiện liên quan; phần mềm trình chiếu báo cáo nghị quyết...), được chuyển giao trực tiếp tới hộp thư cá nhân của từng báo cáo viên. Song song đó, Ban Tuyên giáo Đảng ủy thường xuyên cung cấp tư liệu tuyên truyền trên Trang tin điện tử của Tổng Công ty và các đơn vị cho toàn bộ đảng viên và người lao động. Về hình thức tổ chức học tập, qua nhiều thử nghiệm, hiện Đảng bộ Tổng Công ty đang tổ chức học tập theo 2 cấp: Một lớp dành cho cán bộ chủ chốt toàn ngành và đội ngũ báo cáo viên cơ sở, thường do báo cáo viên thành phố trình bày. Cấp cơ sở tổ chức học tập nghị quyết cho đảng viên cơ sở theo 3 hình thức: Tổ chức theo cụm (các đơn vị gần nhau tổ chức một lớp học tập do một đơn vị đăng cai); một số đơn vị do bí thư cấp ủy trực tiếp truyền đạt; một số đơn vị còn lại do báo cáo viên cấp Tổng Công ty (Phó Bí thư Thường trực, Trưởng ban Tuyên giáo, một số Ủy viên Ban Thường vụ...) triển khai tại đơn vị. Các đơn vị này thường là chi bộ cơ sở, hoặc đơn vị cổ phần có vốn không chi phối, hoặc có khó khăn trong sản xuất kinh doanh nên cấp ủy thiếu thời gian nghiên cứu, chuẩn bị. Việc tổ chức thảo luận, xây dựng chương trình hành động tại đơn vị do đồng chí bí thư cấp ủy cơ sở chịu trách nhiệm, dưới sự giám sát của ủy ban kiểm tra đảng ủy cơ sở và cấp trên, hoặc của Ban Tuyên giáo Đảng ủy. Ban chịu trách nhiệm xây dựng và gửi nội dung gợi ý thảo luận cho cơ sở. Tổ chức khảo sát nhanh tại lớp học, hoặc kèm nội dung khảo sát với thảo luận nhằm đánh giá mức độ tiếp thu kiến thức đã học của học viên; hoặc khảo sát lấy ý kiến góp ý của học viên cho giảng viên, báo cáo viên. Công tác tuyên truyền nghị quyết cho đoàn thể và người lao động được quan tâm hơn, có chỉ đạo cụ thể trong kế hoạch Kinh nghiệm công tác xây dựng Đảng Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 31 tổ chức học tập của Đảng ủy Tổng Công ty. Tùy nội dung các nghị quyết của Đảng mà chỉ đạo truyền đạt tới cán bộ chủ chốt của đoàn thể, hoặc cấp ủy cơ sở chịu trách nhiệm chỉ đạo đoàn thể cơ sở tổ chức cho báo cáo viên cơ sở truyền đạt tới người lao động từng đơn vị. Đến nay, đã xây dựng được đội ngũ báo cáo viên toàn ngành gồm 8 báo cáo viên cấp Tổng Công ty; 34 báo cáo viên cơ sở (của 21 đảng bộ, chi bộ cơ sở), 18 tuyên truyền viên của Đoàn Thanh niên và 19 tuyên truyền viên của Công đoàn Tổng Công ty. Nhìn chung, do tự xây dựng được đội ngũ báo cáo viên cơ sở nên công tác tổ chức học tập nghị quyết của Đảng tại Đảng bộ Tổng Công ty đã có nhiều tiến bộ như chủ động về thời gian, hình thức tổ chức học tập nghị quyết phù hợp đặc điểm ngành và tình hình sản xuất kinh doanh. Đội ngũ báo cáo viên cơ sở do đều kiêm nhiệm nên chủ yếu đảm nhận việc truyền đạt nội dung được Ban Tuyên giáo Đảng ủy cung cấp thống nhất, không mất thời gian tự nghiên cứu. Báo cáo viên có thể linh hoạt, chủ động hơn trong dẫn chứng thực tế của ngành, đơn vị, tạo hứng thú cho người nghe. Đổi mới hình thức tổ chức học tập giảm sự bất tiện cho cơ sở, cho đảng viên (không di chuyển xa, không tổ chức lớp quá đông, chủ động thời điểm tổ chức ít gây ảnh hưởng sản xuất...). Công tác tuyên truyền, cung cấp tư liệu, xây dựng phần trình chiếu nội dung truyền đạt... sử dụng công cụ phần mềm hỗ trợ giúp công việc nhanh hơn, hiện đại hơn. Đội ngũ báo cáo viên cơ sở còn là nguồn cán bộ cung cấp cho quy hoạch tại cơ sở, do đó cần được lập hồ sơ theo dõi (trình độ, kỹ năng, sở thích...) nhằm bồi dưỡng kịp thời, nâng chất lượng cán bộ. Tuy nhiên, kỹ năng trình bày của một số báo cáo viên còn cần phải bồi dưỡng thêm, như kỹ năng tự nghiên cứu, kỹ năng xây dựng nội dung trình chiếu. Hiện còn một số ít đơn vị cơ sở năng lực tự thực hiện tổ chức truyền đạt nghị quyết của Đảng chưa đạt yêu cầu, chưa chủ động, cần tiếp tục nâng chất lượng. Một số biện pháp tổ chức hội nghị học tập nghị quyết đang vận dụng cần tiếp tục được đánh giá, rút kinh nghiệm trong thực tiễn… Trong thời gian tới, Đảng ủy Tổng Công ty sẽ tiếp tục tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng tuyên truyền miệng cho đội ngũ báo cáo viên cơ sở hằng năm. Trong đó, chú ý cung cấp kỹ năng phản bác quan điểm sai trái, tự xây dựng nội dung trình chiếu, thu thập thông tin trên internet... Các lớp này sẽ mời báo cáo viên là giảng viên Học viện Cán bộ thành phố, giảng viên các trường đại học, chuyên viên Ban Tuyên giáo Thành ủy và các ban xây dựng Đảng thuộc Đảng ủy Tổng Công ty nhằm nâng dần chất lượng kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ báo cáo viên cơ sở. Đồng thời, tổ chức nâng chất lượng đội ngũ báo cáo viên cơ sở qua một số hình thức khác: hội thi báo cáo viên toàn ngành; tọa đàm nâng chất lượng báo cáo, kỹ năng truyền đạt; trao đổi chéo báo cáo viên truyền đạt giữa các cụm, các đơn vị r Kinh nghiệm công tác xây dựng Đảng 32 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 Có thể nói, mọi đảng viên đều thấy được sự nêu gương là cần thiết, quan trọng, theo tinh thần “Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, đường lối nhiệm vụ chính trị và hành động gương mẫu của đảng viên”. Nói đến đảng viên, người ta nghĩ ngay đến vai trò tiền phong gương mẫu của người đó trước tiên, từ lời nói đến hành động thực tế. Gần 9 thập kỷ từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nhiều thế hệ đảng viên đã kiên cường, bền bỉ đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc. Biết bao gương sáng của lớp người đi trước để lại trong “pho lịch sử bằng vàng” của Đảng: Bất chấp ngục tù và mọi đòn tra tấn dã man của kẻ thù, khi cần sẵn sàng hi sinh cả tính mạng để bảo vệ Đảng và phong trào cách mạng, giữ tròn khí tiết người cộng sản; từ sau Cách mạng tháng Tám, là biết bao gương sáng trong đấu tranh vũ trang, lao động sản xuất và công tác, là tinh thần một lòng phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. Tất nhiên, sự nêu gương cũng cần được giáo dục, tuyên truyền, cổ vũ để cán bộ, đảng viên có nhận thức đầy đủ, ham thích làm việc đúng, việc tốt, ích nước lợi dân, có tác dụng với quần chúng, từ một điển hình lan tỏa rộng rãi, nhân lên thành nhiều. Bên cạnh đó là sự noi gương cũng rất cần thiết, nhằm giúp mọi người thấy rõ các nhân tố tích cực, hành động điển hình vừa xuất hiện, hồ hởi đón nhận và hăng hái phấn đấu làm theo, không chấp nhận thái độ bàng quan, vô cảm, lối sống ích kỷ NÊU GƯƠNG LÀ TRÁCH NHIỆM CAO QUÝ XUÂN YẾN Các đồng chí lãnh đạo TP.HCM chúc mừng các cá nhân được tuyên dương điển hình thực hiện tốt việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, năm 2018. Ảnh: VT. Ý kiến đảng viên Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 33 chỉ biết mình. Có khi sự nêu gương chỉ thể hiện qua những việc rất bình thường, như: Đi họp đúng giờ, tiết kiệm của công, độ lượng với đồng chí có khuyết điểm, khắc phục khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ… Nhưng tác động của những sự nêu gương đó không hề nhỏ. Chính vì vậy, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo các cơ quan thông tấn, báo chí, xuất bản quan tâm tuyên truyền các gương người tốt việc tốt. Người trực tiếp khen thưởng các điển hình chiến đấu, sản xuất giỏi và tặng huy hiệu của Người cho hàng ngàn gương người tốt việc tốt. Trong nhiều lần phát biểu và nhiều bài báo, Người khẳng định sự nêu gương là nhân tố tích cực, là điều kiện cần để tạo nên những đảng viên tốt, chi bộ tốt, đảng bộ tốt. Trong bối cảnh hiện nay khi nhiều giá trị văn hóa, đạo đức bị thử thách thì sự nêu gương (và noi gương) bị xem nhẹ, thậm chí bị xem thường, là điều không thể tránh khỏi. Nó gây tác hại lớn cho Đảng ta. Tại Hội nghị Trung ương 8 khóa XII (tháng 10-2018), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu: “Nhiều cán bộ, đảng viên trong đó có cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp chưa xác định rõ trách nhiệm và chưa thực sự gương mẫu trong rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, tác phong với những biểu hiện như nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít, có cán bộ còn trục lợi, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; đặc biệt có cán bộ lãnh đạo cấp cao, cả đương chức và nghỉ hưu, đã vi phạm nghiêm trọng kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước gây dư luận xấu trong cán bộ, đảng viên và nhân dân”. Trước tình hình trên, Hội nghị Trung ương 8 quyết định đã ban hành Quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đồng chí Tổng Bí thư nhắc lại câu nói nổi tiếng của Bác Hồ: “Một tấm gương sống có giá trị hơn cả trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên được Đảng đặt ra từ lâu qua nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định, nhưng lần này sẽ nhấn mạnh, siết chặt hơn, với yêu cầu cao hơn. Toàn Đảng, toàn dân đặt nhiều kỳ vọng ở Quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên sẽ tạo được chuyển biến mạnh mẽ trong Đảng, đẩy lùi các biểu hiện tiêu cực nêu trên. Nhìn rộng ra toàn xã hội, từ ngàn xưa dân tộc ta vẫn coi sự nêu gương là trách nhiệm “bất thành văn”. Điều này thể hiện qua nhiều mối quan hệ giữa ông bà cha mẹ và con cháu, giữa anh chị và các em, giữa thầy cô giáo và học sinh, giữa học sinh lớp trên và học sinh lớp dưới, giữa người nhiều tuổi và người ít tuổi hơn, giữa bạn bè với nhau… Ở các cơ quan, đơn vị là quan hệ giữa thủ trưởng và nhân viên, giữa lãnh đạo, chỉ huy và cấp dưới, giữa cán bộ và chiến sĩ… Đó là cách đối nhân xử thế, lối sống, đạo lý, thành tố của bản sắc dân tộc. Do đó thiết tưởng mọi người trong Đảng và trong toàn xã hội nói chung, đều nên nhận thức rõ điều này. Sự nêu gương là trách nhiệm cao quý, dẫu được quy định thành văn hoặc bất thành văn, hãy ra sức giữ gìn bằng cách thực hiện thật tốt r Ý kiến đảng viên 34 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 Sinh ra và lớn lên tại xã Vĩnh Xuân, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long, sau khi tốt nghiệp Cao đẳng chuyên ngành cấp thoát nước và môi trường (tháng 12-2012) tại Trường Đại học Xây dựng Miền Tây, Nguyễn Kiến Toàn bắt đầu gắn bó với màu áo xanh Lực lượng Thanh niên Xung phong. Làm việc tại Trạm Xử lý nước sạch, nước thải, công việc hàng ngày của anh là vận hành, theo dõi, bảo trì hệ thống máy móc trạm xử lý nước thải, thường xuyên theo dõi, kiểm tra việc vận hành của các bể xử lý nước thải báo cáo và đề xuất sửa chữa hệ thống cấp thoát nước khi có sự cố hư hỏng xảy ra. “Mỗi ngày tôi đi lấy mẫu nước kiểm nghiệm, theo dõi chất lượng nước sao cho đảm bảo đạt tiêu chuẩn cho phép. Với hệ thống cấp thoát nước, tôi chủ động kiểm tra, sửa chữa các đường ống cấp nước sạch, đồng hồ nước gắn tại các doanh nghiệp để phát hiện và khắc phục sự cố hư hỏng”, anh Toàn cho biết. Trong công tác quản lý vận hành và đảm bảo chất lượng nguồn nước cấp, anh cố gắng tìm ra giải pháp tối ưu nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả của dịch vụ cấp nước cho Khu chung cư tại Cụm Công nghiệp Nhị Xuân. Sau một thời gian làm việc, vận dụng chuyên môn được học, đồng thời đối chiếu với thực tế anh đã có nhiều sáng kiến, cải tiến thiết thực áp dụng vào thực tiễn và góp phần giảm chi phí, công sức, thời gian tại đơn vị. Năm 2014, Cụm Công nghiệp Khu dân cư Nhị Xuân được phép khai thác xử lý từ nguồn nước ngầm để cung cấp cho người dân. Mặc dù chất lượng nước cấp đạt quy chuẩn sinh hoạt của Bộ Y tế nhưng do khoáng chất trong nước cao nên sau một thời gian sử dụng có các lớp cặn canxi bám trong thành ống ngày càng dày, làm cho đường ống cấp thoát nước không còn thông thoáng, dẫn đến Đảng viên Nguyễn Kiến Toàn SÁNG KIẾN TRONG CÔNG TÁC, TỰ GIÁC TRONG HỌC TẬP HOÀNG VÂN Đó là phương châm mà anh Nguyễn Kiến Toàn, nhân viên vận hành Trạm Xử lý nước sạch, nước thải tại Cụm Công nghiệp Nhị Xuân thuộc Lực lượng Thanh niên Xung phong TP.HCM, một trong những gương điển hình được trao giải thưởng Nguyễn Văn Trỗi lần thứ 11 năm 2018 của Thành đoàn. Gương đảng viên Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 35 tắt nghẽn nhiều lần. Chi phí mua vật liệu như ống và phụ tùng nối ống để dò tìm vị trí tắc nghẽn, bình quân một tháng là gần 1 triệu đồng. Hệ thống ống lại nằm âm tường nên mỗi khi bị nghẽn phải mất nhiều thời gian để dò tìm khắc phục làm quá trình cung cấp nước bị chậm lại, ảnh hưởng đến sinh hoạt của người dân. Anh đã đề xuất sáng kiến “Thiết kế các hộp kỹ thuật (hộp gen) phục vụ cho công tác sửa chữa và tẩy rửa đường ống cấp nước trong Khu chung cư tại Cụm Công nghiệp - Khu dân cư đô thị mới Nhị Xuân”. Hộp gen là thiết bị giúp kiểm tra vị trí tắc nghẽn và vệ sinh đường ống một cách nhanh nhất khi xảy ra sự cố. Sáng kiến được áp dụng đã giúp đơn vị tiết kiệm được khoảng 12 triệu đồng/năm, không làm ảnh hưởng đến hệ thống ống nước âm tường, đồng thời nâng cao được chất lượng dịch vụ cấp nước tại khu chung cư, đáp ứng được nhu cầu sử dụng nước và làm hài lòng người dân tại khu chung cư. Năm 2017, với sáng kiến “Cải tạo, sửa chữa lắp đặt các khớp nối mặt bích cho ống thoát nước sàn nhà vệ sinh khu lưu trú công nhân tại Cụm Công nghiệp - Khu dân cư Nhị Xuân” của Kiến Toàn đã giải quyết được những phiền toái do tình trạng nước thải thoát chậm, trào ngược trở lại bề mặt, các chất phân hủy trong nước thải gây ra mùi hôi thối khó chịu làm ảnh hưởng đến việc sinh hoạt cho các hộ gia đình lưu trú tại chung cư. Anh cho biết, sau thời gian sử dụng khoảng 5 năm, đường ống thoát nước sàn của nhà vệ sinh khu chung cư bị quá tải, các chất thải không phân hủy kịp nên phát ra mùi Anh Nguyễn Kiến Toàn được tuyên dương và trao giải thưởng Nguyễn Văn Trỗi năm 2018. Ảnh: HV. Gương đảng viên 36 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 hôi. Tình trạng này sẽ làm cho nước thoát chậm hoặc thậm chí là không rút được, phải dò tìm vị trí tắc nghẽn nên sẽ mất nhiều chi phí. Việc thực hiện các khớp nối mặt bích sẽ làm công tác sửa chữa nhanh, kịp thời; xác định đúng được vị trí tắc nghẽn để lấy nhanh các chất thải gây ra tắc nghẽn. Từ khi áp dụng sáng kiến cải tiến đã giúp cho cho đơn vị tiết kiệm nhiều chi phí sửa chữa và nâng cao chất lượng dịch vụ cho thuê phòng. Năm 2018, sau một lần đi kiểm tra hệ thống cấp thoát nước, anh nhận thấy sau một thời gian sử dụng, các thiết bị vệ sinh (vòi lavabo, vòi sen bằng kim loại) bị ăn mòn, rỉ sét làm ảnh hưởng đến nhu cầu sử dụng của khách hàng và gây thất thoát một lượng nước khá lớn tại khu chung cư, đồng thời gây ra tình trạng rong rêu bám lên sàn nhà tắm gây mất mỹ quan và có thể nguy hiểm cho người sử dụng do sàn nhà bị trơn trợt. Chính vì thế, anh đã đề xuất sáng kiến “Cải tạo thay thế thiết bị vệ sinh (vòi lavabo, vòi sen, vòi rửa chén bằng kim loại thay thế bằng nhựa) khu lưu trú công nhân tại Cụm Công nghiệp - Khu dân cư Nhị Xuân”. Sáng kiến được áp dụng vào thực tế đã tiết kiệm cho đơn vị được lượng nước thất thoát khá lớn, mặt khác sáng kiến còn nâng cao chất lượng dịch vụ cho thuê phòng. Trong công tác thanh niên, tháng 5-2017, anh được bầu vào Ban Chấp hành Đoàn Lực lượng Thanh niên Xung phong, hiện anh là Phó Bí thư Đoàn cơ sở Cơ quan Lực lượng. Phụ trách công trình thanh niên và các mảng phong trào của Đoàn, Kiến Toàn luôn nghĩ cách, đề xuất các công trình để đảm bảo cho Đoàn thực hiện hàng năm gây quỹ tạo kinh phí phụng dưỡng Mẹ Việt Nam Anh hùng như công trình sơn, sửa tay vịn cầu thang và lan can chung cư Khu lưu trú công nhân (năm 2016), sơn lại dãi phân cách và biển báo giao thông cho các tuyến đường nhằm giảm tai nạn giao thông và tạo vẻ mỹ quan cho Cụm Công nghiệp Nhị Xuân (năm 2017) và trồng cây xanh phân tán trong Cụm Công nghiệp - Khu dân cư Nhị Xuân (năm 2018)… Được kết nạp đảng năm 2017, anh luôn tích cực học tập và làm việc, bản thân anh luôn nêu cao tinh thần tự giác trong học tập, không ngừng rèn luyện tư cách theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Anh thường xuyên tự mình học tập, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, góp phần vào việc hoàn thành công việc chung của Cụm Công nghiệp cũng như của Cơ quan Lực lượng. Hiện anh đang theo học lớp cử nhân Luật Kinh tế của Trường Đại học Mở TP.HCM và chuẩn bị tham gia lớp trung cấp lý luận chính trị nhằm bồi dưỡng kiến thức, phục vụ tốt cho công việc được giao. Với những nỗ lực không ngừng, anh đã được Thành Đoàn tuyên dương và trao giải thưởng Nguyễn Văn Trỗi Gương đảng viên Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 37 lần thứ 11-2018, “Thanh niên tiên tiến TP.HCM làm theo lời Bác” năm 2018, được Ban Chấp hành Đảng bộ Cơ quan Lực lượng TNXP tặng giấy khen đảng viên hoàn thành tốt việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh 3 năm liên tục (2016 - 2018); Đảng ủy Lực lượng Thanh niên Xung phong khen thưởng cá nhân điển hình “Dân vận khéo” năm 2018 và nhiều thành tích khác trong việc hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ qua các năm… Đồng chí Vương Quang Đại, Trưởng ban Điều hành Cụm Công nghiệp Nhị Xuân, cho biết: “Là người rất yêu thích công việc mình đang làm, tích cực trong lao động, biết vượt qua trở ngại của bản thân. Trong cuộc sống cũng như trong công việc, anh luôn có trách nhiệm ý thức bảo vệ của công, sống gần gũi, hòa nhã với đồng nghiệp. Ngoài ra, Kiến Toàn còn là một nhân viên có chuyên môn nghiệp vụ tốt, phù hợp với vị trí công việc nên anh luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ, có nhiều sáng kiến hay đem lại hiệu quả thiết thực cho đơn vị; tích cực hỗ trợ giúp đỡ anh em trong cơ quan, kể cả khi đã ra ca trực...” r hành động đúng đắn, kiên định, vững vàng đủ sức ứng phó linh hoạt và chống lại các thế lực thù địch trong mọi tình huống. Thứ ba, các nội dung tuyên truyền phải bám sát các các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và chương trình, kế hoạch của thành phố. Nội dung tuyên truyền phải chính xác, thiết thực, sâu sắc, phù hợp. Trên cơ sở nội dung tuyên truyền, phải đa dạng hóa hình thức, phương pháp tuyên truyền theo hướng kịp thời, phong phú, thiết thực, gắn với thực tiễn, với cơ sở. Phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ báo cáo viên, cán bộ, đảng viên đối với công tác tuyên truyền, định hướng dư luận trong nhân dân. ĐẢNG BỘ TP.HCM: TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG... (Tiếp theo trang 27) Thứ tư, phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên trên mặt trận tư tưởng. Mỗi cán bộ, đảng viên trong các tổ chức đảng của Đảng bộ phải tích cực tham gia làm công tác tư tưởng, xứng đáng là những chiến sĩ tiên phong trên mặt trận tư tưởng. Cán bộ, đảng viên phải tự làm công tác tư tưởng cho chính mình, đến gia đình, người thân và làm tư tưởng cho nhân dân ở mọi lúc, mọi nơi, để nâng cao ý thức cảnh giác trước âm mưu, hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, chủ động ngăn ngừa, phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng r Gương đảng viên 38 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 Sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954, Hiệp định Genève về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương được ký kết, nước ta tạm thời bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Đế quốc Mỹ đã hất cẳng Pháp, trực tiếp can thiệp và thực hiện chiến tranh xâm lược Việt Nam, nhằm tiêu diệt phong trào yêu nước của nhân dân, thôn tính miền Nam, chia cắt lâu dài nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Để tiến hành chiến tranh xâm lược, đế quốc Mỹ thiết lập ở miền Nam nước ta một chế độ độc tài, phát xít; bằng chính sách “tố cộng, diệt cộng”, chúng thẳng tay đàn áp, gây ra những vụ tàn sát đẫm máu dã man từ Quảng Trị tới Cà Mau. Đi đôi với kế hoạch lập “khu dinh điền”, Mỹ - Diệm còn thành lập các “khu trù mật” ở khắp miền Nam để bình định nông thôn, khống chế nông dân, với phương châm “tách cá khỏi nước” hòng cắt đứt mối quan hệ giữa nông dân với Đảng, với cách mạng. Trước tình hình địch đàn áp và khủng bố khốc liệt, các cán bộ, đảng viên của ta không đi tập kết ở lại miền Nam đã chuyển hướng hoạt động vào bí mật, Hội Nông dân Cứu quốc, cũng nhanh chóng chuyển hướng sang hoạt động dưới hình thức tương trợ, vạn vần đổi công… để tiếp tục lãnh đạo nông dân. Trước thắng lợi của phong trào Đồng khởi toàn miền Nam, ngày 20-12-1960 thực hiện Trung ương 15, Đại hội Đại biểu Quốc dân miền Nam đã họp tại căn cứ Bắc Tây Ninh ra tuyên bố thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và ngọn cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, ngày 21-4-1961, Hội Nông dân Giải phóng miền Nam chính thức ra đời và trở thành thành viên của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. HỘI NÔNG DÂN GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC HOÀI NGUYỄN Nông dân miền Nam tham gia tải đạn trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ảnh: TL. Lịch sử Đảng và Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 39 Ngay sau khi ra đời, Hội đã tuyên bố tán thành nội dung Tuyên ngôn và Chương trình hành động 10 điểm của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Qua phong trào Đồng khởi của nông dân (1959 - 1960), tổ chức Hội Nông dân Giải phóng miền Nam đã phát triển nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng, đóng vai trò nòng cốt trong sản xuất, chiến đấu và tham gia các mặt trận đấu tranh khác. Do địch đánh phá ác liệt, tổ chức Hội bị xáo trộn, việc tập hợp sinh hoạt có nhiều khó khăn. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, tình hình đã ổn định, cơ sở hội tiếp tục được củng cố và phát triển; huy động nông dân đi dân công hỏa tuyến, tiếp lương, tải đạn phục vụ chiến đấu, vận động nông dân đấu tranh 3 mũi giáp công (chính trị, binh vận, vũ trang), đã kết hợp bồi dưỡng giáo dục để phát triển hội viên, vừa đảm bảo công tác kháng chiến vừa phát triển lực lượng của Hội, đồng thời thực hiện chủ trương chuyển hướng của Đảng, lấy địa bàn nông thôn làm hướng tiến công chính, đánh mạnh vào kế hoạch bình định cấp tốc của địch, giữ đất, giành dân... Trước những thất bại nặng nề của quân Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn ngày 3-4-1968, đế quốc Mỹ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Paris và phải chấm dứt ném bom miền Bắc. Với nhiệm vụ mà Đại hội II Hội Nông dân Giải phóng miền Nam đề ra, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Hội Nông dân các cấp trong toàn miền Nam đã vận động nông dân liên tiếp nổi dậy phá ách kìm kẹp của địch, mở rộng vùng giải phóng, góp phần quan trọng làm chuyển biến cục diện chiến tranh, tiến tới tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, kết thúc bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ngày 30-4-1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, Nam Bắc sum họp một nhà. Nhìn lại cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giai cấp nông dân Việt Nam đã đóng góp to lớn sức người, sức của và dũng cảm chiến đấu hi sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Tại Đại hội I Hội Nông dân Việt Nam (tháng 3-1988), đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã khẳng định: “Trong cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc, thắng lợi mà chúng ta đã giành được, thực chất là thắng lợi của đội quân nông dân mặc áo lính”. Đó là sự khẳng định của Đảng về vai trò Hội Nông dân Việt Nam, trong đó có sự đóng góp lớn lao của Hội Nông dân Giải phóng miền Nam. Tiếp bước truyền thống vẻ vang Hội Nông dân Giải phóng, sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ở miền Nam, hàng triệu nông dân đã trở về quê cũ, xây dựng lại xã, ấp, thôn, xóm, hàng chục vạn lao động ở nông thôn và thành thị ra sức khai hoang, phục hóa hàng triệu héc ta đất, xây dựng vùng kinh tế mới. Trong hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi Lịch sử Đảng và Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh 40 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 mới, Đảng ta luôn coi trọng vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn, coi nông nghiệp là một trong những mặt trận hàng đầu, lấy nông nghiệp làm khâu đột phá, lấy nông thôn làm địa bàn trọng điểm. Và tập trung nhất là Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, tiến hành chủ trương xây dựng nông thôn mới. Tại TP.HCM, tuy nông nghiệp chỉ chiếm chưa đầy 1% GDP, nhưng địa bàn 5 huyện ngoại thành (Hóc Môn, Củ Chi, Nhà Bè, Bình Chánh, Cần Giờ) và 5 quận ven (quận 9, 12, Thủ Đức, Bình Tân, Gò Vấp) đã có đóng góp to lớn cho sự phát triển của thành phố. Quá trình xây dựng nông thôn mới (từ 2009 đến nay) đã có 8.122 hộ dân tự giác hiến đất xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật với diện tích 841.570 m2 đất (chiếm 30% tổng diện tích đường giao thông nông thôn đã thực hiện) và nhiều công trình, vật kiến trúc với tổng giá trị hơn 713 tỉ đồng; cộng đồng dân cư đóng góp hơn 97% trong tổng giá trị hơn 900 tỉ đồng đầu tư chăm lo việc học, chăm sóc sức khỏe, hoạt động văn hóa, bảo vệ môi trường… Kết quả này đã góp phần làm thay đổi cơ bản và toàn diện vùng nông thôn ngoại thành thành phố những năm qua. Về sản xuất nông nghiệp, dù chịu tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở ngoại thành, diện tích canh tác mỗi năm giảm dần, nhưng ngành nông nghiệp thành phố đã thực hiện chủ trương tái cơ cấu, phát triển nông nghiệp đô thị hiện đại, hiệu quả, bền vững theo hướng nông nghiệp công nghệ cao, công nghệ sinh học, việc chuyển đổi cơ cấu đã cho kết quả bình quân trên mỗi héc ta đất nông nghiệp trong 2 năm 2017 - 2018 đạt trên 450 triệu đồng, tăng 1,6 lần so với năm 2013 (282,5 triệu đồng/ha/năm). Chương trình xây dựng nông thôn mới đã phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị; khơi dậy, nuôi dưỡng và phát huy mạnh mẽ nguồn lực của cộng đồng dân cư nông thôn, huy động được nguồn lực của nội thành hỗ trợ ngoại thành, huy động cộng đồng đầu tư vào nhiều công trình phục vụ lợi ích dân sinh, góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn mới của thành phố. Cái được lớn nhất từ kết quả Chương trình xây dựng nông thôn mới là đời sống vật chất lẫn tinh thần của người dân được nâng lên rõ rệt, nhất là ở một số địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn của 5 huyện ngoại thành. Nhìn lại 58 năm thành lập Hội Nông dân Giải phóng miền Nam, trong mỗi giai đoạn lịch sử cách mạng, tuy hoạt động hội và phong trào nông dân có yêu cầu, nội dung khác nhau nhưng đều nhằm mục tiêu đại diện, chăm lo, bảo vệ cho quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của hội viên, nông dân. Hiện nay, nhiều phong trào thi đua do Hội Nông dân thành phố phát động tổ chức đạt hiệu quả, thiết thực, nhiều mô hình tập hợp nông dân đa dạng như: Lịch sử Đảng và Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh (Xem tiếp trang 46) Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 41 Sách TâyNam bộ 30 năm kháng chiến (1945 - 1975) do Ban Chỉ đạo và Ban biên tập Truyền thống Tây Nam bộ xuất bản tháng 10-2000, đã cung cấp những số liệu khá thú vị: Từ năm 1961 đến 6 tháng đầu năm 1965, quân dân ta trên chiến trường Tây Nam bộ đã tiêu diệt và tiêu hao 91.453 tên địch trong đó có 7.859 tên chết và bị thương bằng vũ khí thô sơ, chất nổ và ong vò vẽ. Chỉ tính riêng trong năm 1966, trong phong trào xây dựng và bảo vệ vùng nông thôn giải phóng, quân dân tỉnh Sóc Trăng đã xây dựng thêm 200 ấp chiến đấu, bố trí gần 150 ổ ong vò vẽ với hàng ngàn đạp lôi và lựu đạn gài. Ở khu vực bán đảo Cà Mau và vùng phía tây sông Hậu, việc sử dụng ong vò vẽ để đánh giặc đã được phát triển trong những vùng có đông người Khmer cư trú tập trung. Đồng bào và các vị sư sãi Khmer đã tìm cách chế tạo nhiều vũ khí thô sơ và nuôi ong vò vẽ để đánh giặc. Thực ra, việc tổ chức đánh giặc bằng ong vò vẽ không chỉ mở đầu trên chiến trường B2, trong những tháng năm sôi động sau cao trào Đồng khởi, mà trong một trận đánh lịch sử diễn ra vào ngày 18-12- 1948, tại ấp La Bang, xã Đôn Châu, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh, một chiến sĩ du kích người dân tộc Khmer tên là Thạch Minh đã cùng đồng đội sử dụng cách đánh giặc bằng ong vò vẽ rất hiệu quả, hỗ trợ đắc lực cho Tiểu đoàn 307 đánh tan tác hai đại đội viện binh của quân viễn chinh Pháp. Trong trận đánh này, tên thiếu tá Pháp chỉ huy đã bỏ xác giữa chiến trường. Quân ta bắt sống hàng chục tù binh trong đó có trung úy Stéfanagi và đại úy, bác sĩ quân y Claude Bastien. Chiến thắng La Bang sống mãi trong câu ca bất diệt của bài hát Tiểu đoàn 307: “Vang tiếng đồn với trận La Bang”. Ở miền Bắc, tháng 6-1949, nhân dân và du kích xã Tự Do, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình đem những tổ ong vò vẽ đã được huấn luyện trước đi phục kích, đánh tan một đại đội địch đi càn quét. Một điều đặc biệt thú vị, vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long là nơi những người chiến sĩ du kích nông dân phát kiến ra cách đánh giặc bằng ong vò vẽ đầu tiên trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Những tháng năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng bằng sông Cửu Long cũng là nơi bùng phát trước tiên và là ngọn cờ đầu của phong trào đánh giặc bằng ong vò vẽ, nổi bật nhất là tại các tỉnh Bến Tre, Cần Thơ, Mỹ Tho, Long An, Sóc Trăng, Trà Vinh… Chiến tích vẻ vang của những đội quân đánh giặc bằng ong vò vẽ đã được thể hiện tiêu biểu qua bốn Anh hùng Lực lượng vũ trang Quân Giải phóng tại vùng ĐÁNH GIẶC BẰNG ONG VÒ VẼ - MỘT HUYỀN THOẠI LỊCH SỬ NGUYỄN HOÀI AN Lịch sử Đảng và Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh 42 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 đất của nền “văn minh miệt vườn” này, đó là các Anh hùng Nguyễn Văn Tư (Bến Tre), Nguyễn Văn Quy (Cần Thơ), Tạ Văn Lước và Hồ Văn Mười (Mỹ Tho). Anh hùng Nguyễn Văn Tư và Nguyễn Văn Quy cùng với các “binh đoàn quân ong” đã xuất chinh trong mùa hè 1962 đến năm 1963. Từ năm 1960 đến năm 1967, Anh hùng Nguyễn Văn Quy đã xây dựng được 95 tổ ong vò vẽ. Trong những năm 1960 đến năm 1964, Anh hùng Nguyễn Văn Tư đã có lúc nuôi được 40 đến 50 tổ ong. Các Anh hùng Tạ Văn Lước và Hồ Văn Mười cũng đã nuôi được hàng trăm tổ ong. Ước tính các “binh đoàn ong vò vẽ” có khoảng hơn 60.000 “quân”, đây là một “đạo quân” thật sự lợi hại, bởi chúng ta biết rằng ong vò vẽ (trong dân gian gọi là ong vẽ, ong bò vẽ, ong mặt quỷ, ong mặt cọp…) là loại ong rất hung dữ. Khi tổ ong bị đối phương xâm phạm chúng lập tức bay túa ra và tấn công đến cùng. Nọc ong vò vẽ rất độc. Một vết đốt của ong vò vẽ có thể khiến một người lên cơn sốt, khi bị nhiều con ong đốt cùng một lúc, nhẹ thì mặt mũi chân tay sung vù, nặng có thể dẫn đến tử vong vì bị hoại tử gan, bị suy thận cấp… Thế nên chúng ta đã thấy trên chiến trường miền Tây Nam bộ, trong bốn năm đầu thập niên 1960, các chiến sĩ du kích ta đã tiêu diệt và tiêu hao được hơn 7.800 tên lính Mỹ - ngụy, bằng việc sử dụng cách đánh giặc bằng ong vò vẽ kết hợp với bố trí trận địa bằng chông mìn, đạp lôi và lựu đạn gài. Ngoài việc sử dụng ong vò vẽ để đánh giặc trên chiến trường Nam bộ, ở vùng đất bắc Tây Nguyên, quân du kích tỉnh Kon Tum còn tổ chức đánh Mỹ bằng các “binh đoàn ong lỗ”. Ong vò vẽ có khoang đen xen kẽ màu vàng, thường làm tổ nơi lộ thiên như trên cây, trong bụi rậm, có cả khi đóng ở trên trần nhà hay bay trên vách. Còn ong lỗ màu đen, làm tổ trong các ụ đất, gò mối trong rừng, trên đồng ruộng. Các vị lão nông cho biết, nếu một người bị 5 con ong lỗ đốt cùng một lúc sẽ gây ra tử vong, nếu một con trâu bị 7 đến 10 con ong lỗ đốt cùng một lúc, có thể sẽ chết. Người tổ chức đánh giặc bằng ong lỗ trên chiến trường Tây Nguyên là Anh hùng du kích miền núi nổi tiếng Hồ Kan, chỉ huy “binh đoàn ong” xung trận trong khoảng thời gian 1965 - 1967. Đồng chí Hồ Kan đã xây dựng được hơn 90 tổ ong lỗ với khoảng 30.000 con. Chỉ trong vòng hai năm, đội du kích Hồ Kan đã bẻ gãy hàng chục cuộc hành quân càn quét, lấn chiếm bình định của địch và tiêu diệt được hàng trăm tên giặc. Trong những tháng năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trên chiến trường B2 và B3, với sức mạnh của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, bằng tính năng động và bản lĩnh sáng tạo trong chiến đấu, những chiến sĩ du kích đã tạo ra cách đánh giặc bằng ong vò vẽ và ong lỗ, lập được những chiến công rạng rỡ. Theo số liệu thống kê sơ bộ, tại các tỉnh Bến Tre, Cần Thơ, Lịch sử Đảng và Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 43 Mỹ Tho và Kon Tum, các chiến sĩ đã tổ chức và tham gia 450 trận đánh, tiêu diệt 200 tên địch, làm bị thương 413 tên, thu 45 súng và phá hủy 3 xe quân sự. Có lẽ, chiến lợi phẩm quý giá nhất của các chiến sĩ anh hùng đã sáng tạo ra cách đánh giặc độc đáo bằng những đội quân ong chiến, họ đã đúc kết thành công những bài học kinh nghiệm đặc sắc trong nghệ thuật nuôi ong, phương pháp hữu hiệu để huấn luyện ong và tìm ra được những bí quyết thành công trong việc điều khiển các “binh đoàn quân ong” xung trận. Đây chính là những trang sử mới của quân dân miền Nam đã “phát kiến” ra phương pháp đánh giặc bằng “vũ khí sinh học” trong những năm tháng chống Mỹ, cứu nước không thể nào quên, dưới ngọn cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Để nâng cao hiệu quả tác chiến của các “binh đoàn quân ong”, yếu tố quan trọng hàng đầu là phải gây dựng cho được một đội quân vừa đông đảo, vừa tinh luyện. Thế nên ngay từ những ngày đầu, các Anh hùng Nguyễn Văn Tư, Nguyễn Văn Quy, Tạ Văn Lước và Hồ Văn Mười đã lặn lội khắp nơi để tìm bắt những tổ ong non trong mùa ong đẻ đem về nuôi dưỡng. Họ không ngại tốn kém, cho ong thường xuyên ăn cả thịt trâu, thịt bò cho sung sức. Một điều đặc biệt thú vị là, lợi dụng loài ong có khả năng nhận biết màu sắc, mùi hương, phấn hoa của các loại thảo mộc, các chiến sĩ du kích ta huấn luyện ong khả năng phân biệt những đặc điểm về ngoại hình giữa “quân ta” và “quân địch”, với “bạn” và “thù” qua việc phát hiện màu sắc, mùi vị của quần áo, hương thơm mỹ phẩm và sự khác mùi của các loại vũ khí, khí tài quân sự và quân trang, quân dụng. Để cho ong nhận diện được “phe ta”, anh hùng Nguyễn Văn Quy hằng ngày đã đem quần áo, mùng mền, chăn gối cũ và giày dép của mình treo gần các tổ ong để làm cho ong hợp mùi và quen hơi của mình, thân thiện với mình. Tại Bến Tre, đồng chí Nguyễn Văn Tư thường xuyên treo những mảnh vải có màu sắc giống như quần áo của bà con nông dân trong địa phương đang mặc thường ngày để ong nhìn cho “quen”. Những lúc cho ong ăn, đồng chí Nguyễn Văn Tư thường mặc quần bà ba đen, đầu đội mũ tai bèo và trên cổ quấn khăn rằn, để tập cho ong nhận diện ra những chiến hữu “giải phóng quân” phe mình nơi trận mạc. Do cách huấn luyện có bài bản như vậy, nên những khi xung trận, ong chỉ nhận diện để rượt đuổi và truy kích bọn lính Mỹ - ngụy, không bao giờ đánh lại quân ta. Điều khó nhất trong việc chỉ huy các “binh đoàn quân ong” tác chiến, là phải luôn vận dụng cách suy nghĩ năng động, sáng tạo, kịp thời thay đổi phương thức tác chiến cho phù hợp với diễn biến của tình hình. Nhằm đối phó với cách đánh giặc bằng “vũ khí sinh học” của ta, quân địch luôn phải theo dõi sát sao để nhanh chóng rút kinh nghiệm và buộc phải “nhất dạ sinh bách kế”. Do tính chất chuyên biệt về môi trường sinh thái, do sự khác nhau về hoàn Lịch sử Đảng và Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh 44 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 cảnh địa lý, nhân văn nên tại nhiều địa phương ở các vùng miền, các đội quân du kích đã có những cách đánh giặc đa dạng bằng ong chiến. Song tựu trung lại, có thể lược quy vào một số cách đánh chủ yếu: - Tổ chức thế trận đánh địch bằng ong vò vẽ treo trên cây, kết hợp với việc bố trí hầm chông, bãi mìn, lựu đạn gài và vũ khí tự tạo. Đây là cách đánh thông dụng ở các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Trước mỗi trận đánh, các chiến sĩ du kích dự đoán những khu vực càn quét và những trục đường hành quân chính của địch để xác định kế hoạch bố trí liên hoàn các tổ ong, hầm chông và bãi mìn ở những nơi đắc địa. Khi địch hành quân tới, chiến sĩ ta phục kích sẵn, tổ chức phá vỡ tổ ong đúng lúc, khiến ong bay ra tán loạn để rượt đuổi và truy sát quân địch, làm chúng hoảng loạn, bỏ chạy và rơi xuống giếng, rơi xuống hầm chông, hố đinh, bãi mìn và bị vướng phải trận địa đạp lôi và lựu đạn gài. - Tiến hành đào đường, đắp ụ, xây dựng chướng ngại vật trên những trục đường hành quân của địch để bố trí cho ong đánh địch. Trên những trục đường và tại những tâm điểm địch thường xuyên đi ruồng bố và hành quân càn quét, lấn chiếm, bình định, du kích ta nghiên cứu những nơi có địa hình thuận lợi cho việc tác chiến để tổ chức vượt chướng ngại vật như đắp ụ, đào đường, phá lộ… gây trở ngại cho địch. Ở những nơi được tổ chức ngụy trang khéo léo, chiến sĩ ta bí mật cài đặt tổ ong vò vẽ kết hợp với việc bố trí hầm chông, gài đạp lôi và chất nổ. Khi quân địch kéo đến để chỉnh trang lại địa hình, quân ta sẽ lập tức kích hoạt cho ong và các loại vũ khí tự tạo đồng loạt phát huy hiệu năng tác chiến để tiêu diệt địch. - Tổ chức gánh ong đi “đánh dạo”. Tại Cần Thơ cũng như ở tỉnh Kon Tum, đồng chí Nguyễn Văn Quy và Hồ Kan đã gánh ong đi lưu động tìm giặc để đánh. Đội du kích Hồ Kan thường bỏ ong trong các bao cà rồi bịt miệng để gánh vào rừng, đón đầu các cuộc hành quân càn quét của địch. Khi được lọt vào trận địa phục kích của quân ta, ong bị các chiến sĩ chọc vỡ tổ, hung hãn bay ra rượt đuổi và truy sát quân địch. Tại tỉnh Gò Công, các đội du kích của ta còn đem ong vò vẽ đi phục ở các gò đìa, bờ ruộng để đón đánh các trực thăng đổ quân. Họ còn sử dụng ong vò vẽ tiến hành bao vây và uy hiếp nhiều ngày buộc binh lính địch trong đồn bốt và tháp canh hoảng sợ phải rút chạy (như ở huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho). Lịch sử xác minh rằng, nghệ thuật đánh giặc và chế tạo vũ khí tự tạo là sáng tạo rất độc đáo trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường miền Nam, trong đó, có việc sử dụng “vũ khí sinh học” ong vò vẽ và rắn để đánh giặc. Quan tâm nghiên cứu và tổng kết vấn đề này là nghĩa vụ thiêng liêng của chúng ta trong việc góp phần giáo dục truyền thống đấu tranh cách mạng vẻ vang cho nhân dân, cho thế hệ trẻ, cho đời sau r Lịch sử Đảng và Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 45 Là một trong những người nghiên cứu sâu về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, TS. sử học Nguyễn Văn Khoan vừa cho ra mắt cuốn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh với nước Mỹ (1908 - 1954) biên niên sự kiện, do Nhà xuất bản Tổng hợp TP.HCM ấn hành quý I-2019. Cuốn sách chưa đầy 200 trang này có nhiều tư liệu với 3 phần chủ yếu: phần biên niên sự kiện của Chủ tịch Hồ Chí Minh liên quan đến nước Mỹ (1908 - 1954); phần thư từ, điện văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Chính phủ, các đoàn thể và nhân dân Mỹ (1919 - 1946); phần phụ lục các bài viết của các nhà nghiên cứu về sự liên hệ giữa Hồ Chí Minh với nước Mỹ. Sự kiện đầu tiên được nêu trong tập sách này ghi dấu năm 1908 khi Nguyễn Tất Thành được biết đến nước Mỹ qua chương trình địa lý khi học tại Trường Quốc học Huế. Người đọc cũng sẽ được biết Tất Thành đến Mỹ năm 1912 và làm nhiều nghề để kiếm sống tại New York, Boston cho đến khi rời Mỹ vào năm 1913. Đến năm 1916, Người trở lại Mỹ, làm việc ở đây một thời gian sau đó đến Pháp và từ đó cho đến đầu năm 1945, Người chủ yếu tìm hiểu về nước Mỹ, chính sách của các đời Tổng thống Mỹ cũng như có một vài liên hệ với Đảng Cộng sản Mỹ. Đến đầu năm 1945, Hồ Chí Minh tiếp trung úy phi công Mỹ William Shaw; đến tháng 3, tại Côn Minh (Trung Quốc), Người tiếp xúc với Cơ quan Yểm trợ Không quân mặt đất của Mỹ, trong dịp này phía Mỹ đã gửi tiền, thuốc men để cảm ơn lực lượng Việt Minh đã cứu giúp Shaw. Cũng trong thời gian này, Người có liên hệ với các tổ chức của Mỹ như Cơ quan Thông tin chiến tranh Mỹ, Cơ quan Dịch vụ chiến lược (tiền thân của Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ)… Người cũng đã gặp gỡ với một số nhân vật là sĩ quan quân đội Mỹ, nhân viên tình báo Mỹ như Claire Lee Chennault, Archimedes L.A. Patti, Charles Fenn, Alison Thomas…, những người có sự hỗ trợ nhất định trong việc xây dựng lực lượng cho Việt Minh. Trước khi Hồ Chí Minh về Hà Nội tổng khởi nghĩa, Đội Con Nai (Deer Team) của Patti đã tích cực huấn luyện cho một số nhóm quân đội Việt Nam mà Người gọi chung lực lượng này là “Bộ đội Việt - Mỹ”. Cuối tháng 8-1945, Hồ Chí Minh cùng một số người Mỹ về Hà Nội và những người bạn này đã tham gia thảo luận với Người trong quá trình Người soạn Tuyên ngôn Độc lập. Từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Hồ Chí Minh đã liên tục có thư từ, trao đổi với các cơ quan và cá nhân một số nhân vật của Mỹ đề nghị trao đổi, hợp tác và ủng hộ Chính phủ Việt Nam trong việc củng cố nền độc lập… Trong thư gửi Tổng thống Truman ngày 24-9-1945, Người đề nghị Truman can thiệp việc quân CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI NƯỚC MỸ (1908 - 1954) Trang thông tin 46 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 đội Anh giúp quân Pháp thực hiện nhiều hành vi sai trái tại Nam bộ; hay trong thư ngày 18-1-1946, Người đề nghị Truman và LHQ có hành động cụ thể ngăn cản các hoạt động quân sự của Pháp tại Việt Nam, tránh cho nhân dân Việt Nam một cuộc đổ máu; còn trong thư ngày 16-2-1946, Người kêu gọi phía Mỹ ủng hộ nền độc lập của Việt Nam… Tuy nhiên, bất chấp thành ý của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người Mỹ đã không chỉ bỏ lỡ một cơ hội tạo lập nền hòa bình ở Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung mà còn bỏ qua cơ hội hợp tác giữa hai nước sau bước đầu có những liên hệ rất tích cực. Đến trước năm 1950, thông qua các bài trả lời phỏng vấn báo chí Mỹ, Người vẫn mong mỏi Mỹ đóng vai trò tích cực hơn trong việc vãn hồi hòa bình ở Việt Nam. Từ năm 1950 trở đi, Hồ Chí Minh tỏ ra thất vọng trước thái độ của Chính phủ Mỹ và nhiều lần gọi Mỹ là kẻ phản động khi giúp thực dân Pháp xâm lược nước ta. Tại Hội nghị Ban Chấp hành lần thứ 6 khóa II (tháng 7-1954), Hồ Chí Minh đã gọi “Mỹ là kẻ thù chính của hòa bình thế giới”… Trong một dung lượng có hạn, thông qua việc tập hợp nhiều nguồn khác nhau, tác giả Nguyễn Văn Khoan đã cung cấp cho bạn đọc rất nhiều tư liệu quý giá về sự liên hệ giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và nước Mỹ từ buổi đầu Người tham gia hoạt động cách mạng cho đến trước cuộc chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Với hình thức biên niên sự kiện, người đọc có thể xâu chuỗi được diễn tiến các sự kiện, đồng thời đánh giá được sự vận động của vấn đề theo thời gian như thế nào. Do đó, có thể nói, đây là một tài liệu bổ ích cho những ai muốn tìm hiểu nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chung và sự liên hệ của Người với nước Mỹ nói riêng r TRÚC GIANG Trang thông tin tổ hợp tác, tổ liên kết sản xuất, chi hội, tổ hội nghề nghiệp, tương trợ vốn phát triển rộng khắp. Từ các phong trào thi đua yêu nước đã xuất hiện nhiều gương nông dân điển hình tiên tiến làm kinh tế giỏi, đoàn kết giúp nhau giảm nghèo, khắc phục hậu quả thiên tai; nhiều nông dân tự nguyện hiến đất để xây dựng trường học, nhà trẻ, làm đường giao thông nông thôn. Tự nguyện góp công, góp của làm HỘI NÔNG DÂN GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM... (Tiếp theo trang 40) việc thiện; có người vượt khó, say mê tìm tòi và đã thành công trong sáng tạo ra những máy móc, công cụ phục vụ sản xuất. Những tấm gương sáng, sinh động ở cơ sở luôn được nhân lên, trong đó nhiều nông dân được biểu dương. Đó là niềm tự hào chung của nông dân thành phố trong quá trình phấn đấu cùng phát triển vì một TP.HCM có chất lượng sống tốt, văn minh, hiện đại, nghĩa tình r Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 47 NHÂN SỰ MỚI (Từ ngày 21-2-2018 đến 20-3-2019) Số TT Họ và Tên Chức vụ cũ Chức vụ mới 1 Đinh Ngọc Thắng Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy, Cục trưởng Cục Hải quan thành phố Phó Bí thư Đảng ủy, Cục trưởng Cục Hải quan thành phố 2 Ngô Thị Phương Lan Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Đại học Quốc gia TP.HCM, Bí thư Đảng ủy - Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Đại học Quốc gia TP.HCM, Bí thư Đảng ủy - Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM 3 Mai Thanh Phong Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Đại học Quốc gia TP.HCM, Bí thư Đảng ủy - Hiệu trưởng Trường Đại học Bách Khoa TP.HCM Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Đại học Quốc gia TP.HCM, Bí thư Đảng ủy - Hiệu trưởng Trường Đại học Bách Khoa TP.HCM 4 Phạm Thị Thu Hà Trưởng phòng Tổ chức cán bộ, Thanh tra và Thi đua khen thưởng, Tòa án nhân dân thành phố Ủy viên Ban Cán sự đảng Tòa án nhân dân thành phố 5 Huỳnh Cách Mạng Thành ủy viên, Phó Chủ tịch UBND thành phố Thành ủy viên, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tổ chức Thành ủy 6 Nguyễn Quốc Thái Quận ủy viên, Phó Chủ tịch UBND quận Tân Phú Phó Chánh Văn phòng Thành ủy 7 Nguyễn Trần Phượng Trân Phó Bí thư Quận ủy Bình Tân Phó Bí thư Thường trực Quận ủy Bình Tân 8 Lâm Đình Thắng Phó Bí thư Quận ủy Bình Thạnh Phó Bí thư Thường trực Quận ủy Bình Thạnh 9 Nguyễn Thi Thu Hoa Phó Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư Phó Chủ tịch UBND quận 8 10 Nguyễn Văn Hoạch Kiểm soát viên, Tổng Công ty Văn hóa Sài Gòn - TNHH MTV Phó Tổng Giám đốc Tổng Công ty Văn hóa Sài Gòn - TNHH MTV 11 Trần Minh Khiêm Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty CP Công trình giao thông Sài Gòn Thành viên không chuyên trách Hội đồng Thành viên, Tổng Giám đốc Tổng Công ty Xây dựng Sài Gòn - TNHH MTV 48 Sổ tay Xây dựng Đảng tháng 4 - 2019 THUE trang dau

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
kao nguyen
20/12/2020 08:57:30
+4đ tặng
Đầu thế kỉ xx các quốc gia đông nam á trở thành thuôc địa chủ nghĩa thực dân, vào những năm 20 của thế xx phong trào chiến tranh hiện
nét mới: giai cấp vô sản trưởng thành tham gia lãnh đạo cách mạng
- đảng cộng sản thành lập tham gia chiến tranh,phong trào đôclạp diễn ra ở nhiều nước
+ ở đông dương chiến tranh nhiều hình thức
+ơ ĐNÁ Hải đảo:phong trào cách mang lôi cuống hàng triệu ngườ tham gia tiêu biểu ỏ indonesia

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Lịch sử Lớp 8 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo