Câu 2:
“Nghệ sĩ là người biết khai thác những ấn tượng riêng chủ quan của mình, tìm thấy những ấn tượng đó có giá trị khái quát và biết làm cho những ấn tượng đó có những hình thức riêng.” (M. Go-rơ-ki)
Bằng những tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ văn 12, anh chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Bằng cách nhấp vào Đăng nhập, bạn đồng ý Chính sách bảo mật và Điều khoản sử dụng của chúng tôi. Nếu đây không phải máy tính của bạn, để đảm bảo an toàn, hãy sử dụng Cửa sổ riêng tư (Tab ẩn danh) để đăng nhập (New Private Window / New Incognito Window).
“Con người vốn bản tính là nghệ sĩ ” – Goóc-ki có lần đã từng nói như vậy. Nhưng giữa nghệ sĩ và người thường luôn có một khoảng cách, bề ngoài tưởng như mong manh, nhưng lại không dễ gì vượt nổi. “Nghệ sĩ là con người biết khai thác những ấn tượng riêng – chủ quan – của mình, tìm thấy trong những ấn tượng đỏ có giá trị khái quát và biết làm cho những ấn tượng ấy có được hình thức riêng”. Có lẽ một trong những cái khác biệt để tạo ra khoảng cách giữa nghệ sĩ và người thường chính là ở chỗ đó. M.Goóc-ki thừa nhận điều này từ công việc sáng tạo của nghệ sĩ và các tác phẩm của họ.
Không phải ai cầm bút cũng đều là nghệ sĩ. Các nhà thơ cũng vậy. Họ đều có thể viết được thư nhưng để làm được thơ đích thực, thư có sức sống và chỗ đứng trong lòng người đọc thì không phải ai cũng làm được. Có những ấn tượng riêng, khai thác những ấn tượng riêng của chính mình là công việc thường xuyên của các nhà thơ – một thứ “sản xuất đặc biệt và cá thể” (Xuân Diệu Nhà thơ không chỉ viết bằng trí tưởng tượng, cảm xúc mà còn viết bằng vốn sống, vốn hiểu biết của bản thân – những cái đó có được là ở quá trình lăn lộn với cuộc đời, quá trình tìm hiểu con người và hiểu rõ hơn chính bản thân mình.
Những ấn tượng riêng của nhà thơ thì chỉ con người họ mới có bởi họ có được những giác quan nhạy bén, nhọn sắc, có khả năng nhìn thấy những điều mà mắt thường không thể thấy. Với các nhà thơ cổ, chuẩn mực cho phép mọi so sánh là thiên nhiên: Nguyễn Du tả Từ Hải: “Râu hùm hàm én mày ngài”, tả Thúy Vân: “Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang”. Nhưng với Xuân Diệu, cái riêng của nhà thơ lại là một chuẩn mực đều từ con người – con người ở phần sinh động nhất. Có lẽ trước những hàng liễu ta chỉ có thể cảm nhận nó vì đẹp: mềm mại duyên dáng gần với thiếu nữ phòng khuê, nhưng Xuân Diệu nhìn những hàng liễu với sự liên tưởn ở nhiều chiều.
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
(Đây mùa thu tới).
Liễu bỗng trở nên có hồn, có sự vận động bên trong – cùng một lúc ba hình ảnh: chịu tang, tóc buồn, lệ ngàn hàng được “chuyên chở” chí bằng liễu. Cặp mắt và trí tưởng tượng phong phú của Xuân Diệu đã đem đến cho người đọc cảm nhận khác nhau, đa dạng và thú vị. Đó là kết quả của việc “khai thác những ấn tượng riêng” của bản thân nhà thơ nên nó khác với các nhà thơ xưa khi tả liễu.
Đi vào thế giới của bài thơ Đây mùa thu tới ta còn bắt gặp những cảm quan riêng, rất độc đáo của một thi sĩ đích thực. Đề tài mùa thu là một đề tài cổ điển, có tính chất truyền thống, đã được các thi nhân dành không ít bút mực. Xuân Diệu là người đến sau. Vậy mà Đây mùa thu tới vẫn sống với thời gian, sống bên cạnh các tác phẩm về mùa thu khác để cho văn học và cuộc đời phong phú hơn, đẹp hơn. Nếu là người thường, chắc chắn khi viết về mùa thu sẽ không khỏi lặp lại hoặc sao chép những gì đã có, nhưng với thi sĩ điều đó sẽ làm cho tác phẩm của mình không có chỗ đứng trong lòng bạn đọc. Cũng những chất liệu ấy nhưng Xuân Diệu có những cảm nhận và cách nhìn mới – nhìn cuộc sống luôn trên đà vận động. Vì vậy mà khi nhà thơ thốt lên:
Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai – dệt lá vàng
Người dọc tưởng như nhà thơ đưa cả hồn mình ra để đón nhận, để giao hòa. “Đây mùa thu tới, mùa thu tới” không chỉ là tiếng nói mà là tiếng reo vồn vã, vui vui của một người đón khách quý. Tiếp nhận mùa thu với thái độ và tình cảm ấy rất khác so với thơ xưa. Điều quan trọng là “ấn tượng riêng”, là những cảm nhận của nhà thơ về mùa thu mang nét mới của con người lần đầu tiếp xúc với vạn vật và cuộc đời, nét tâm lý thường thấy ở trẻ thơ: nhìn cái gì cũng mới, cũng lạ, đầy bí ẩn và kêu gợi những sự tìm tòi khám phá. Mùa thu với Xuân Diệu như một người bạn mới nên có cái say mê hào hứng, hăm hở pha lẫn sự hồi hộp. Cũng viết về thu nhưng Nguyễn Khuyến đón thu bằng cái tình của người lãnh đạm điềm nhiên bọc ngoài tâm trạng yêu mến bâng khuâng:
Trời thu xanh ngát mấy tầng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
Xuân Diệu thì không như thế, cái chất trẻ say mê nhiệt tình cứ tràn đầy trong giọng điệu vồn vã đã làm thơ ông có sức lôi cuốn và hấp dẫn riêng. Nó đánh dấu thời đại cá nhân tự giải phóng, cái tôi ý thức rất rõ về chính bản thân mình.
Khi Xuân Diệu xuất hiện, người ta thấy ông Tây quá, công chúng không chịu nổi cái láo bạo, cái mạnh mẽ trong cách nói của nhà thơ:
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mong manh
Ta không bàn đến ở đây chuyện Xuân Diệu ảnh hưởng của phương Tây hay phương Đông, mà chỉ nói đến những cảm nhận và rung động vô cùng tinh tế trong tâm hồn nhà thơ đã được ông diễn đạt bằng những từ ngữ rất lạ. “Sắc đỏ rủa màu xanh”, màu đỏ cứ lấn dần, lấn dần. Sự vận động diễn ra âm thầm nhưng bền bỉ, sự vận động bên trong mà chỉ có giác quan của thi sĩ mới có thể thấy được, từ những cái hữu hình mà vẽ được những vô hình bao la thì chỉ có nhà thơ, nghệ sĩ mới làm nổi, bởi họ khai thác ấn tượng của mình một cách triệt để. Công việc làm thơ là của các nhà thi sĩ, nhưng họ biết đào sâu tâm hồn mình để nói lên cái tâm sự chung cho cả mọi người. Tâm sự của Xuân Diệu ẩn đằng sau những cảm nhận tinh tế kia là tâm sự chung cho tầng lớp thanh niên thời bấy giờ. Cái “tôi” được giải phóng làm cho nhiều người yêu đời, ham sống. Những bàn tay thân thiện luôn hướng về phía cuộc đời nhưng lại luôn bị từ chối. Cảm giác cô đơn, cái lạnh lẽo của cuộc đời mới thực sự ngâm vào hồn người khiến con người ngày trước hăm hở nhưng “càng đi sâu thì càng thấy lạnh”. Thơ Xuân Diệu với nỗi khát khao được hòa hợp, được gần gũi, cảm thông đã nhanh chóng chiếm được vị trí trong lòng người đọc: giá trị khái quát trong những ấn tượng riêng của thi nhân chính là những chỗ đó. Cho nên cái lạnh trong thơ:
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mong manh
là cái lạnh cụ thể, vừa hữu tình. Người ta cảm thấy nó đang vận động, có thể sờ thấy được. Cái lạnh chung của một thời đại đã gặp cái lạnh trong cảm nhận của hồn người. Để chuyển tải những ý tưởng ấy, Xuân Diệu đã nhờ đến ngôn ngữ. Ngôn ngữ đã giúp ta hiểu phần nào ý tưởng của nhà thơ. Khi xưa Đỗ Phủ, nhà thơ đời Đường, có câu: “Ngữ bất kinh nhân tứ bất hưu” (chữ dùng chưa kinh người thì chết cũng chưa yên) nói về cái bao lực của nghệ sĩ khi làm cho những ấn tượng riêng của mình có được hình thức riêng. Xuân Diệu chắc hẳn cũng phải công phu lắm khi tìm được những từ ngữ có sức biểu đạt lớn như thế.
Bài thơ về phần cuối có cái buồn man mác, nhưng không phải là cái “mang mang thiên cổ sầu” của Huy Cận, Xuân Diệu buồn nhưng vẫn thấy cuộc đời, cảnh vật và con người trong thế vận động:
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Tham gia Cộng đồng Lazi trên các mạng xã hội | |
Fanpage: | https://www.fb.com/lazi.vn |
Group: | https://www.fb.com/groups/lazi.vn |
Kênh FB: | https://m.me/j/AbY8WMG2VhCvgIcB |
LaziGo: | https://go.lazi.vn/join/lazigo |
Discord: | https://discord.gg/4vkBe6wJuU |
Youtube: | https://www.youtube.com/@lazi-vn |
Tiktok: | https://www.tiktok.com/@lazi.vn |
Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi
Vui | Buồn | Bình thường |