Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Tìm hiểu thêm về những câu chuyện Lưu Nhân Chú?

tìm hiểu thêm về những câu chuyệ về lưu nhân chú

2 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
613
2
0
Maii
05/02/2021 11:36:31
+5đ tặng

Lưu Nhân Chú hiệu là Ông Sỹ, quê ở Đại Từ, Thái Nguyên. Năm 1407, nhà Minh chiếm được toàn bộ Đại Việt, là nơi nổ ra nhiều cuộc khởi nghĩa chống lại nhà Minh nhất, Thái Nguyên cùng là nơi bị đàn áp nặng nề nhất. Năm 1409, Lưu Nhân Chú đã tìm vào Thanh Hóa theo nghĩa quân Lê Lợi đánh đuổi giặc Minh. Ông cũng chính là 1 trong 18 người thân tín của Lê Lợi tổ chức hội thề Lũng Nhai vào ngày 1 tháng 2 năm Bính Thân (1416). Sau Hội thề, Lưu Nhân Chú trở về Thái Nguyên gây dựng lực lượng, luyện tập quân sỹ chuẩn bị cho cuộc khời nghĩa Lam Sơn.

Năm 1418, Lê Lợi dựng cờ khời nghĩa, Lưu Nhân Chú là một trong những người có mặt đầu tiên dưới cờ khỏi nghĩa và là tướng trụ cột của nghĩa quân Lam Sơn. Suốt  10 năm kháng chiến (1418-1427) cùng các tướng lĩnh khác, Lưu Nhân Chú có mặt ở hầu hết các mặt trận, tham gia chỉ huy và trực tiếp chỉ huy nhiều trận đánh, nhiều chiến dịch quan trọng, nổi bật lên là một vị tướng tài ba, xuất chúng của nghĩa quân Lam Sơn.

Sử sách còn ghi: Tháng 4 năm 1419, Lưu Nhân Chú tham gia  chỉ huy đánh đồn Nga Lạc thuộc Thanh Hóa ngày nay bắt được ngụy quan Nguyễn Sao, chém hơn 300 đầu giặc… năm 1425, Lưu Nhân Chú cùng các tướng sĩ  mang quân đánh úp thành Tây Đô, chém 500 giặc. Năm 1426, Lưu Nhân Chú đem 2.000 quân bình định các vùng đất: Thiên Quang (Ninh Bình ngày nay) Thiên Trường (Nam Định ngày nay) Kiến Xương (Thái Bình ngày nay)… Năm 1427, tướng giặc là Liễu Thăng mang 10 vạn quân vào Đại Việt, Lưu Nhân Chú được giao trọng trách chỉ huy chiến dịch tiêu diệt địch. Với lòng yêu nước và tài năng xuất chúng, ông đã cùng nghĩa quân làm nên chiến thắng Chi Lăng, Xương Giang vang dội khiến cho nhà Minh phải giảng hòa cùng Lê Lợi

Vương triều Lê được thành lập năm 1428, ghi nhận công lao của ông Lê Thái Tổ cho ông được mang họ vua, được  phong tám chữ: Suy trung, Tán trị, Hiệp mưu, Dương vũ, là kịch bậc của vinh phong và được giữ chức Tể tướng- chức vụ cao nhất hàng võ trong triều. Năm 1431, ông được phong chức Nhập nội tư khấu là chức quan đứng đầu Bộ hình, trông coi việc hình pháp, ông vừa cai quản việc quân vừa kiêm cai quản việc hình pháp trong triều.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
1
Kim Huệ
05/02/2021 11:41:46
+4đ tặng

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Lưu Nhân Chú thời trẻ nhà nghèo, làm nghề buôn bán. Trong một đêm ông nằm ngủ trọ ở đền thờ thần, nằm mộng được điềm tốt. Sau đó ông vào Lam Sơn, theo Lê Lợi, được làm Thứ thủ ở vệ kỵ binh (?) trong quân Thiết đột[1][3].

Năm 1416, ông ở trong số 18 người cùng dự Hội thề Lũng Nhai với Lê Lợi, thề cùng nhau đánh đuổi quân Minh xâm lược[1][4].

Tham gia khởi nghĩa Lam Sơn[sửa | sửa mã nguồn]

Những ngày đầu khởi nghĩa Lam Sơn, ông theo Lê Lợi chiến đấu vùng núi Chí Linh, xông pha tên đạn, ra vào trận mạc[5] trải qua nhiều gian khổ[1].

Năm 1424, trong trận đánh ở ải Khả Lưu, ông dũng cảm xông lên trước hãm trận, thu được toàn thắng, nổi tiếng một thời[1].

Năm 1425, ông cùng các tướng Đinh Lễ, Lê Sát, Lê Triện đánh úp phá quân Minh ở thành Tây Đô, được phong chức Thông hầu[1].

Mùa thu năm 1426, Lê Lợi đang vây thành Nghệ An, sai Lưu Nhân Chú cùng các tướng Bùi Bị, Lê Sát, Lê Khuyển, Lê Nanh mang 2000 quân ra lộ Trường Yên, Thiên Trường, Tân Hưng, Kiến Xương để chặn đường về của quân Minh do Phương Chính, Lý An chỉ huy, khi cánh quân định bỏ Nghệ An đưa quân về cứu Đông Đô[6].

Khi chiếm được các đất Trường Yên, Thiên Trường, Tân Hưng, Kiến Xương ông cùng hội quân với Bùi Bị, Lê Bồi, Lê Vị Tẩu tiến sang địa giới các lộ Khoái Châu, Lạng Giang, Bắc Giang lược định các châu huyện để chặn viện binh của quân Minh từ Khâu Ôn tiến sang[6].

Tháng 3 năm 1427, ông được phong chức Hành quân đô đốc tổng quản, Nhập nội đại tư mã, lĩnh 4 vệ Tiền, Hậu, Tả, Hữu, kiêm coi việc quân Tân vệ. Tới tháng 6 năm đó ông được phong chức Tư không[6]. Lê Lợi dặn ông rằng: "Chức tước đã cao thì sớm hôm phải chăm chỉ, không nên trễ nãi, biếng nhác, khiến uổng phí cả công lao". Nói rồi, liền ban cho ông một cái tán (Đại Việt thông sử, Chư thần truyện).

Mùa thu năm 1427, tướng nhà Minh là Liễu Thăng mang 10 vạn quân kéo sang giải vây cho Vương Thông. Lưu Nhân Chú được lệnh cùng Lê Sát mang 1 vạn quân, 5 thớt voi đực lên trước ải Chi Lăng để đợi. Ông cùng hợp mưu với Lê Sát, sai Trần Lựu giả thua để nhử Liễu Thăng ở Chi Lăng rồi tung quân mai phục ra đánh úp. Kết quả quân Lam Sơn chém được Liễu Thăng ở núi Mã Yên, sau đó lại chém Bảo định bá Lương Minh tại trận. Hai tướng Minh còn lại là Hoàng Phúc và Thôi Tụ cố tiến, Lưu Nhân Chú và Lê Sát chặn đánh, giết được 2 vạn người[6].

Sau đó, khi Phúc và Tụ kéo tới Xương Giang mới biết thành này đã bị quân Lam Sơn hạ, phải đóng quân giữa đồng không. Lê Lợi sai Lê Lý cùng Lê Văn An, Lê Khôi mang quân tới tiếp ứng cho Lưu Nhân Chú tổng tiến công quân Minh ở Xương Giang, giết và bắt sống toàn bộ quân địch. Tướng Hoàng Phúc cũng bị bắt.

Mộc Thạnh cầm một cánh quân viện binh khác, nghe tin Liễu Thăng bại trận nên bỏ chạy về. Vương Thông bị vây ngặt ở Đông Quan không còn quân cứu ứng phải xin giảng hoà để rút về nước.

Để giữ đúng lời ước, Lê Lợi và Vương Thông bằng lòng đổi con tin. Thông cử hai tướng Sơn Thọ, Mã Kỳ sang bên quân Lam Sơn còn Lê Lợi sai con cả là Lê Tư Tề cùng Lưu Nhân Chú vào thành Đông Quan.[7]

Ngày 22 tháng 11 năm Đinh Mùi, tức 10 tháng 12 năm 1427, Lưu Nhân Chú theo Lê Lợi và 13 tướng lĩnh tham gia Hội thề Đông Quan với tướng Vương Thông nhà Minh. Quân Minh cam kết rút về nước.[8][9]

Phong thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Sau hội thề Đông Quan, quân Minh rút về nước. Lê Lợi lên ngôi vua, tức là Lê Thái Tổ, Lưu Nhân Chú được họ vua thành Lê Nhân Chú và được phong làm Suy trung Tán trị Hiệp mưu Dương vũ công thần, nhập nội kiểm hiệu, Bình chương quân quốc trọng sự, đứng đầu hàng võ trong triều đình, kiêm coi chính sự nhà nước.

Vua Lê Thái Tổ ban bài chế cho ông:

Trẫm nghĩ:vua tôi một thể, chân tay giỏi thì đầu được tôn. Giúp đỡ có người, rường cột chắc thì nhà mới vững. Người là người phò tá có tài, là bề tôi tận trung của nước. Nên trẫm cho vinh hạnh ở ngôi Tể tướng, và vẫn giữ trách nhiệm coi nắm binh quyền. Nay ban cho tờ chiếu chỉ; để nêu rõ bậc quan sang.[1]
— Đại Việt thông sử, Nhân vật chí, Lưu Nhân Chú

Tháng 5 năm 1429, Lê Thái Tổ sai khắc biển công thần, Lưu Nhân Chú được phong làm Á thượng hầu, tên đứng hàng thứ 5.[10][11]

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k
Gửi câu hỏi
×