Tính đặc thù của ADN có thể bị thay đổi trong quá trình nào
GIÚP MÌNH MỚI Ạ ..MÌNH ĐANG CẦN GẤP
Bằng cách nhấp vào Đăng nhập, bạn đồng ý Chính sách bảo mật và Điều khoản sử dụng của chúng tôi. Nếu đây không phải máy tính của bạn, để đảm bảo an toàn, hãy sử dụng Cửa sổ riêng tư (Tab ẩn danh) để đăng nhập (New Private Window / New Incognito Window).
ADN có thể được hiểu một cách đơn giản là nơi chứa mọi thông tin chỉ dẫn cần thiết để tạo nên các đặc tính sự sống của mỗi sinh vật;
Mỗi phân tử ADN bao gồm các vùng chứa các gene cấu trúc, những vùng điều hòa biểu hiện gene, và những vùng không mang chức năng, hoặc có thể khoa học hiện nay chưa biết rõ gọi là ADN rác; Cấu trúc phân tử ADN được cấu thành gồm 2 chuỗi có thành phần bổ sung cho nhau từ đầu đến cuối. Hai chuỗi này được giữ vững cấu trúc bằng những liên kết hiđrô. Các liên kết này khi bị cắt sẽ làm phân tử ADN tách rời 2 chuỗi tương tự như khi ta kéo chiếc phéc mơ tuya; Về mặt hoá học, các ADN được cấu thành từ những viên gạch, gọi là nucleotide, viết tắt là Nu. Do các Nu chi khác nhau ở bazơ nitơ (tức là Bazơ-Nitric hay nucleobase) (1Nucleobase = 1 đường Desoxyribose + 1 Axit phôtphoric + 1 nucleobase), nên tên gọi của Nu cũng là tên của nucleobase mà nó mang. Trong ADN, chỉ có 4 loại gạch cơ bản là Adenine (viết tắt là A), Thymine (viết tắt là T), Cytosine (tiếng Việt còn gọi là Xytosine, viết tắt là C hay X), và Guanine (viết tắt là G). (Loại nucleobase thứ 5 là Uracil (U) chỉ có ở loại axit nucleic khác là ARN, thay cho thế cho T để cặp đôi với A, mà không có ở ADN.); Mỗi base (bazơ) trên 1 chuỗi chỉ có thể bắt cặp với 1 loại base nhất định trên chuỗi kia theo một quy luật chung cho mọi sinh vật. Theo nguyên tắc A liên kết với T bằng 2 liên kết hiđrô, G liên kết với X bằng 3 liên kết hiđrô (Nguyên tắc bổ sung) Trật tự các nucleotide, đính kèm trong chúng là các nucleobase tương ứng, liên kết dọc theo chiều dài của chuỗi ADN, luôn tạo thành các tổ hợp bộ ba nucleotide liên tiếp ở mỗi nhánh (sợi) trong chuỗi xoắn kép gọi là Mã di truyền. Trình tự này rất quan trọng vì nó chính là mật mã nói lên đặc điểm hình thái của sinh vật. Tuy nhiên, vì mỗi loại nucleobase chỉ có khả năng kết hợp theo cặp với 1 loại base đối ứng trên nhánh (sợi) đối diện trong chuỗi xoắn kép, cho nên chỉ cần trình tự base của 1 trong 2 nhánh (sợi) của chuỗi xoắn kép là đã đại diện thông tin di truyền cho cả phân tử ADN. Nhưng các nhánh đơn này thường không đứng riêng lẻ mà kết hợp với nhau thành cấu trúc chuỗi xoắn kép hai nhánh tương ứng, bền vững về hóa học nên đảm bảo sự bền vững của thông tin di chuyền trong phân tử ADN. Chúng chỉ tách ra để cho mục đích sinh sản nhân đôi, khi sao chép thông tin di chuyền. Khi ADN tự nhân đôi, 2 chuỗi của ADN mạch kép trước tiên được tách đôi nhờ sự hỗ trợ của một số enzim chuyên trách. Mỗi chuỗi ADN sau khi tách ra sẽ thực hiện việc tái tạo một chuỗi đơn mới phù hợp bằng cách mỗi base trên chuỗi gốc sẽ chọn loại base tương ứng (đang nằm tự do trong môi trường xung quanh) theo cơ chế gián đoạn và nguyên tắc bán bảo tồn. Do đó, sau khi nhân đôi, 2 phân tử ADN mới (mỗi phân tử chứa một chuỗi cũ và một chuỗi mới) đều giống hệt trình tự nhau nếu như không có đột biến xảy ra và giống với phân tử ADN ban đầu. Đột biến hiểu đơn giản là hậu quả của những sai sót hoá học trong quá trình nhân đôi. Bằng cách nào đó, một base đã bị bỏ qua, chèn thêm, bị sao chép nhầm hay có thể chuỗi ADN bị đứt gãy hoặc gắn với chuỗi ADN khác, hoăc với ARN ngoại lai (A liên kết với U thay vì với T, hầu như không xảy ra vì quá trình tổng hợp ARN thường không ở trong nhân tế bào mà phải thực hiện trong ty thể, và đường trong ARN là ribose không phải là đường Desoxyribose). Về mặt cơ bản, sự xuất hiện những đột biến này là ngẫu nhiên và xác suất rất thấp. Nguồn WikipediaHôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi
Vui | Buồn | Bình thường |