Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, sau khi hoàn thành bình định về quân sự, chúng thi hành chính sách “khai thác thuộc địa” hết sức tàn bạo đối với nước ta, gây ra sự biến động to lớn về chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam, làm thay đổi kết cấu giai cấp, đảo lộn cuộc sống mọi tầng lớp nhân dân. Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến. Dưới ách cai trị của thực dân Pháp, đời sống các tầng lớp nhân dân ngày càng bị bần cùng hoá. Mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và chế độ thuộc địa ngày một gay gắt, trở thành mâu thuẫn vừa cơ bản, vừa chủ yếu. Bên cạnh đó, mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ ngày càng gia tăng. Những mâu thuẫn trên trở thành lực cản kìm hãm sự phát triển của xã hội Việt Nam. Đứng trước những mâu thuẫn dân tộc và giai cấp ngày càng gay gắt, nhiều phong trào đấu tranh chống Pháp và phong kiến tay sai nổ ra khắp nơi với nhiều xu hướng cứu nước khác nhau. Đó là các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp dưới ngọn cờ Cần vương; nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân diễn ra, điển hình là cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế dưới sự lãnh đạo của Hoàng Hoa Thám kéo dài hơn 30 năm; phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục... do các sỹ phu yêu nước chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo. Đó là trang sử vẻ vang của dân tộc trên con đường đấu tranh giành độc lập. Mặc dù diễn ra rộng khắp cả nước, nhưng tất cả các cuộc đấu tranh đều thất bại. Có thể nói, "Trong suốt gần một thế kỷ thống trị của thực dân Pháp, phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam không ngừng phát triển, kẻ trước ngã, người sau đứng dậy. Nhưng tất cả những cuộc khởi nghĩa yêu nước ấy đã bị dìm trong máu. Những đám mây đen lại bao phủ đất nước Việt Nam"(1). Hệ tư tưởng phong kiến và tư sản đã hoàn toàn bất lực trước nhiệm vụ lịch sử đặt ra là lãnh đạo toàn dân chống Pháp, giành lại độc lập dân tộc. Vì vậy, đến đầu thế kỷ XX, việc tìm ra con đường cứu nước, giành lại độc lập dân tộc, mở đường cho đất nước phát triển, trở thành đòi hỏi khách quan, cấp bách của dân tộc Việt Nam. Được sinh ra trong gia đình trí thức phong kiến có truyền thống yêu nước, Nguyễn Tất Thành sớm mang trong mình lòng yêu nước, thương dân và có tầm nhìn vượt xa những “lối mòn cứu nước” của các bậc tiền bối. Những năm tháng theo cha học hành, trong đó có thời gian sống gần Triều đình Huế đã làm cho Người thấy rõ hơn cuộc sống phụ thuộc, thấp hèn của giới quan chức phong kiến, tay sai. Từ cuộc sống quan trường lận đận, trắc trở của người cha, Nguyễn Tất Thành càng thấu hiểu ý nghĩa thực tế của câu: "Quan trường thị nô lệ, trung chi nô lệ, hựu nô lệ". Cho nên, sau khi ông Nguyễn Sinh Huy bị bãi chức (đầu năm 1910) và vào Nam Kỳ hành nghề bốc thuốc trị bệnh cứu người, còn Nguyễn Tất Thành càng nhận thức rõ hơn sự thối nát của chế độ quan trường. Thực tế này càng thôi thúc Người quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước. Trong tác phẩm Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Trần Dân Tiên đã viết: "Người thiếu niên ấy đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào. Lúc bấy giờ, Anh đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Anh tham gia công tác bí mật, nhận công việc liên lạc"(2). Tuy nhiên, đi đâu và làm gì để tìm ra con đường cứu nước thành công luôn là công việc hết sức khó khăn. Bởi lẽ, bọn thực dân bưng bít mọi thông tin, ngăn cản những tư tưởng tiên tiến, cấm du nhập sách báo tiến bộ hòng giam hãm dân ta trong vòng nô lệ. Người đã nói với nhà báo Liên Xô Ôxip Manđenxtam: "Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế... Nhưng trong những trường học cho người bản xứ, bọn Pháp dạy người như dạy con vẹt. Chúng giấu không cho người nước tôi xem sách báo. Không phải chỉ sách của các nhà văn mới, mà cả Rútxô và Môngtexkiơ cũng bị cấm. Vậy thì phải làm thế nào bây giờ? Tôi quyết định tìm cách đi ra nước ngoài"(3). Trong quá trình xác định con đường cứu một dân tộc, lòng căm thù giặc và quyết tâm chưa đủ, mà còn phải lý giải được nguyên nhân thất bại của các bậc tiền bối, hiểu được điều kiện chủ quan và khách quan của bối cảnh lịch sử, trên cơ sở đó mà vạch ra hướng đi của con đường cũng như những yếu tố đảm bảo thắng lợi. Trước thất bại liên tiếp về con đường cứu nước của các bậc tiền bối, Người nhận xét: "Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương... Điều đó là sai lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương. Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Cụ Hoàng Hoa Thám còn thực tế hơn, vì còn trực tiếp đấu tranh chống Pháp. Nhưng theo người ta kể thì Cụ còn mang nặng cốt cách phong kiến"(4). Câu hỏi đặt ra cho dân tộc ta: Ai là người lãnh đạo thành công nhiệm vụ giải phóng dân tộc ở Việt Nam? đến lúc này vẫn chưa có lời giải. Bối cảnh trên đây, sau này được Hồ Chí Minh nói rõ khi trả lời nhà văn Mỹ Anna Luy Xtơrông: "Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ"(5)!? Từ những trải nghiệm cuộc sống và với trí tuệ vượt trội, Hồ Chí Minh đã sớm phát hiện ra mâu thuẫn giữa chế độ đàn áp bóc lột dã man của bọn thực dân ở Việt Nam với cái lý tưởng cao đẹp của nước Pháp: "Tự do - Bình đẳng - Bác ái", muốn biết cái gì bí mật ẩn náu ở nước Pháp xa xôi!. Người cho rằng: "Muốn đánh hổ thì phải vào hang hổ!". Chính những nhận thức về bối cảnh đất nước và sự tìm hiểu của Nguyễn Tất Thành về nước Pháp đã thôi thúc Người đi tìm đường cứu nước. Đây không phải là hành động ngẫu nhiên, tự phát mà là sự lựa chọn sáng suốt, một quyết tâm lớn đáp ứng đòi hỏi khách quan của cách mạng Việt Nam. Quyết định sang phương Tây của Nguyễn Tất Thành cũng chính là phủ nhận về mặt ý thức nhà nước thực dân nửa phong kiến ở Việt Nam, là việc mở cửa ra thế giới để đón nhận những nhân tố mới của thời đại, tiếp thu lý luận tiên tiến, tích hợp tinh hoa văn hoá nhân loại để hình thành con đường cứu nước.