Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Nêu sự khác nhau giữa chất thơ của Chính Hữu và Phạm Tiến Duật, trong hai tác phẩm Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Lê Đạt viết: 
              Mỗi công dân vó một dạng vân tay
              Mỗi nhà thơ có một dạng vân chữ 
              Không trộn lẫn.
Nêu sự khác nhau giữa chất thơ của Chính Hữu và Phạm Tiến Duật trong hai tác phẩm Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính.

2 trả lời
Hỏi chi tiết
574
2
1
Nguyễn Nguyễn
10/06/2021 16:55:08
+5đ tặng

Một nhà văn Nga từng khẳng định: ”Nghệ sĩ là người biết kai thác những ấn tượng riêng của mình, tìm thấy những ấn tượng có giá trị khái quát và biết làm những ấn tượng ấy có hình thức riêng”. Có lẽ một trong những cái khác biệt để tạo ra khoảng cách nghệ sĩ và người thường chính là ở chỗ đó. Không phải ai cầm bút cũng đều là nghệ sĩ. Các nhà văn cũng vậy. Họ đều có thể viết được thơ, văn nhưng để làm được thơ( văn) đích thực, thơ( văn) có sức sống và có chỗ đứng trong lòng người đọc thì không phải ai cũng làm được. Một nhà sáng tác đích thực có phong cách sáng tạo càng độc đáo, đặc sắc thì người đó càng thành công. Chẳng vậy mà trong bài thơ “Vân chữ”, Lê Đạt từng viết:

“Mỗi công dân có một dạng vân tay

Mỗi nhà thơ có một dạng vân chữ

Không trộn lẫn.”

Mỗi con người sinh ra đều có một dấu vân tay riêng, mang những đường nét, hình dạng đặc thù, không giống nhau với bất kì ai cho dù đó lag anh chị em đồng sinh. Vân tay là dấu hiệu, cũng là cơ sở chuẩn xác để xác minh danh tính của một công dân, được lưu trữ để xác thực nhân thân, phân biệt với người khác. Với cách nói đầy hình ảnh gợi sự liên hệ tương đồng với “vân tay”, Lê Đạt đã dùng vân chữ để chỉ hình thức sáng tạo ngôn từ độc đáo, hiểu rộng ra là nét riêng, cá tính sáng tạo của một nhà thơ. Đồng thời cũng là để nhấn mạnh đó là yếu tố quan trọng để tạo nên một “người nghệ sĩ thứ thiệt”- một người nghệ sĩ chân chính,có tài năng và có tư chất, có phong cách nghệ thuật riêng biệt không thể trộn lẫn.

“Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy nó đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật, tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong tác phẩm của mình”. Lĩnh vực của “cái độc đáo”- tức là có tính chất của riêng mình, mang dấu ấn cách tân không giống những người khác- đòi hỏi ở nhà văn không chỉ có khát vọng làm người nghệ sĩ mà có tố chất cần có trước hết ở họ là phải có tài, còn gọi là năng khiếu vượt trội. Thêm nữa, nhà văn phải thỏa mãn nhu cầu của bạn đọc, của cuộc sống- ấy là sự sáng tạo “khơi những nguồn chưa ai khơi”. Chính cái độc đáo ấy tạo nên phong cách nghệ thuật. Một khi tác giả sáng tác văn học tạo được dấu ấn riêng biệt, độc đáo trong quá trình nhận thức và phản ánh cuộc sống, biểu hiện rõ cái độc đáo qua các phương diện nội dung và hình thức của từng tác phẩm, nhà văn đó được gọi là nhà văn có phong cách nghệ thuật. Riêng biệt, mới mẻ và hấp dẫn trong sáng tác, không phải tác giả nào cũng đạt được điều đó, do vậy không phải ai là nhà văn đều có phong cách nghệ thuật. Giai đoạn văn học 1930-1945 là giai đoạn phục hưng của nền văn học dân tộc, một chặng đường ngắn mà hình thành khá nhiều cây bút có phong cách. Dựa vào thành tựu trong sáng tác của các nhà văn, chúng ta đều có thể nêu ra các tác giả văn xuôi hiện thực có phong cách rõ rệt là Ngô tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao… hay các thi sĩ như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Huy Cận, Tố Hữu. Vậy, dựa vào những biểu hiện nào để chúng ta có thể xác định một nhà văn( nhà thơ ) có phong cách nghệ thuật?

Có nhiều biểu hiện khác nhau của phong cách văn học. Trước hết nhà văn có biểu hiện mới mẻ, độc đáo trong cách nhìn, cách khám phá cuộc sống. Chẳng hạn, cùng là nhà văn hiện thực trước Cách mạng như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan,… nhưng Nam Cao quan tâm nhiều đến nỗi khổ đến mức bi kịch của người tri thức. Nam Cao cũng cắt nghĩa được nguyên nhân sâu xa nỗi khổ của họ và lên tiếng đánh động xã hội. “Người nọ, người kia không đáng để ta khinh ghét. Cái đánh nguyền rủa là cái xã hội kia. Nó đã tạo ra những con người tham lam và ích kỷ”( Sống mòn). Phát hiện và phát biểu như vậy là đáng quý, nhưng cái “hơn người” của Nam Cao là luôn băn khoăn về nhân phẩm của con người và ý thức báo động con người hãy giữ lấy nhân phẩm của mình trước những cái nhỏ mọn. đó chính là chiều sâu của cái tâm nhà văn, nó định hướng cách nhìn đời và nhìn người của tác giả.

Khác với khoa học, văn chương luôn luôn đề cao sự sáng tao, đề cao cái riêng của người cầm bút, trước hết là cái riêng trong giọng điệu của tác phẩm. Vì vậy, người ta hay nói giọng trào phúng của Vũ Trọng Phụng, giọng triết lý của Nam Cao. Ngay ở Nam Cao cũng có giọng trào phúng, nhưng có người đã chỉ ra rất cụ thể như sau: “So với Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng thì Nam Cao có nhiều điểm khác biệt. Tiếng cười của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng là tiếng cười hướng ngoại, tiếng cười của Nam Cao là tiếng cười hướng nội.”

Dấu ấn sáng tạo của tác giả còn bộc lộ ra qua các yếu tố thuộc phương diện nội dung. Chọn lựa đề tài, triển khai cốt truyện, xác định chủ đề, xác lập tứ thơ… mỗi nhà văn sáng tạo ra “đất” riêng của mình. Cũng hiện thực tăm tối trước năm 1945, Ngô Tất Tố phát hiện ra “vùng trời tối đen như mực” của người nông dân, trong khi Thạch Lam quan tâm đến những đứa trẻ phố huyện có cuộc sống “ một ngày như mọi ngày”, đến ước mơ cũng không biết ước mơ điều gì.

Biểu hiện rõ nhất của cá tính sáng tạo làm nên phong cách nghệ thuật của tác giả văn học là ở hệ thống các phương thức nghệ thuật và kỹ thuật trong tác phẩm. Ngệ thuật xây dựng nhân vật, sử dụng ngôn ngữ, tổ chức kết cấu… bộc lộ sự “cao tay” của nhà văn. Tài hoa và uyên bác là phong cách của Nguyễn Tuân trong việc vận dụng ngôn ngữ, ở lĩnh vực này thì Vũ Trọng Phụng để lại ấn tượng ở ngôn ngữ nhân vật đạt mức độ cá tính hóa cao nhất.

Sáng tạo để làm nên cái riêng, cái mới lạ trong các phương diện trên, song mỗi nhà văn có phong cách phải “thống nhất trong sự đa dạng của sáng tác. Các độc đáo, vẻ riêng phải xuất hiện thường xuyên, lặp đi lặp lại và có tính chất bền vững nhất quán”. Không chỉ có thế, bất cứ sự sáng tạo ra cái độc đáo nào đòi hỏi phải nằm trong tầm đón nhận của độc giả, nghĩa là phải có hiệu quả thẩm mỹ, đem lại sức hấp dẫn bền lâu cho người đọc.

Trong sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám, người ta đã thống kê được rất rõ ràng, có hai đề tài chính: Người nông dân và người trí thức tiểu tư sản. Trong bối cảnh xã hội đang nảy sinh mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp, xã hội thực dân nửa phong kiến bấy giờ ở nông thôn và thành thị ngày càng bộc lộ những ung nhọt về mặt tư tưởng văn hóa. Nhưng Nam Cao không chú ý phản ánh những vấn đề, những hiện thực lớn lao của xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Ngay hai đề tài người nông dân và người trí thức, nhà văn cũng chọn những hiện tượng tưởng như nhỏ nhặt đời thường của hai đối tượng để tạo dựng câu chuyện. Nhưng triết lý về đời sống qua các “ tiểu tiết” trong văn xuôi của Nam cao quả là không nhỏ.

Nếu như với Ngô Tất Tố- nhà văn nổi tiếng viết về xung đột giai cấp gay gắt và phản ánh bức tranh nông thôn toàn cảnh thì Nam Cao ít hướng đến phạm vi miêu tả rộng như thế. Nhà văn của làng Đại Hoàng này mạnh dạn đi vào “cái hàng ngày” nhưng mang tính phổ biến, cái bản chất. Các đề tài “thu nhỏ” dễ nhận ra ngay ở nhan đề của các truyện ngắn: “Trẻ con không được ăn thịt chó”, “Con mèo”, “ Một đám cưới”, “Một bữa no”, “Từ ngày mẹ chết”,… Điều nổi bật ở tài năng Nam cao là “ông đã khai thác được cái chiều sâu,cái mạnh nước ngầm ẩn chứa bên trong và nâng lên một tầm khái quát cao hơn. Ở truyện ngắn của Nam Cao, chúng ta thường thấy hai tầng ý nghĩa: một tầng ý nghĩa gắn liền với những tình tiết, sự việc và câu chuyện mà nhà văn muốn trần thuật lại; tầng ý nghĩa thứ hai hai là những đúc kết có tính chất triết lý khái quát”. Quả vậy, tiếp xúc với truyện ngắn “Trẻ em không được ăn thịt chó” độc giả có thể cười về cái triết lý của “hắn”-người bố: Trẻ em không được ăn thịt chó. Nhưng độc giả mục kích cảnh cuối truyện, cái đói khiến mấy đứa trẻ hí hửng đợi người lớn ăn thịt chó, rồi chờ đến lượt bọn chúng, nhưng “ trong mâm chỉ còn bát không. Thằng cu con khóc òa lên…”. Chi tiết nhỏ song gợi ra bao suy nghĩ trong long người đọc. Trước miếng ăn người ta quên cả sĩ diện. Câu chuyện đâu chỉ dừng lại và trọng tâm ở câu chuyện trẻ em không được ăn thịt chó. Phải chăng, cái đói đã khiến con người tìm mọi cơ hội cứu đói, trước hết cho bản thân mình? Qua một bữa ăn, cách ăn, nhà văn đã phác họa một bức tranh của nông thôn Việt Nam: Cái đói, chính cái đói có nguy cơ làm mất đi giá trị con người. Đó là vấn đè tha hóa…

Ở đề tài trí thức tiểu tư sản, nhà văn cũng phản ánh những câu chuyện vụn vặt, hàng ngày của họ. Nhà văn Hộ mỗi lần nhậu nhẹt với bạn bè lại về nhà đánh vợ, đuổi vợ đi rồi hối hận. Một điệp khúc lặp đi lặp lại trong cuộc sống của văn sĩ Hộ. Đó đâu chỉ là câu chuyện bi kịch của riêng Hộ. Tác giả chỉ ra bi kịch của tầng lớp tri thức trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Đó là bi kịch vỡ mộng, đời thừa, sống mòn của những con người có khả năng tự ý thức rất cao. Đó là vấn đề về mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.

Qua thế giới hình tượng, nhà văn khéo léo chuyển tải những tuyên ngôn của mình. Điều đáng nói là nhiều thông điệp tiềm ẩn đằng sau câu chuyện, tâm trạng. Trước Nam Cao đãcó không ít nhà văn phát ngôn về văn chương, về hiện thực. Song nhiều nhà nghiên cứu khẳng định rằng Nam Cao đã phát biểu những tuyên ngôn đầy sức thuyết phục, và ý nghĩa hiện đại, thời sự vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay.

Đọc văn Nguyên Hồng, độc giả cảm nhận được sự đồng cảm sâu sắc,thấm thía của nhà văn dành cho nhân vật. Dường như ta nghe rõ tiếng kêu thống thiết, nước mắt Nguyên Hồng tuôn trào khóc cho bất hạnh của nhân vật. Trái lại, ấn tượng ban đầu của bạn đọc khi tiếp xúc với truyện của Nam Cao, là một giọng lạnh lùng, tỉnh táo, sắc lạnh. Nhưng rồi độc giả lại tinh ý nhận ra ẩn sau vẻ ngoài lạnh lùng là tình cảm yêu thương, chất trữ tình ngọt ngào của tác giả cho những đứa con tinh thần của mình.

Trước hết, giọng văn sắc lạnh, tỉnh táo xuất phát từ ngôn ngữ người kể chuyện. Có thể nhận xét không chủ quan rằng ngôn ngữ kể chuyện của nhà văn này có màu sắc khách quan lạnh lùng.Theo thống kê của nhà nghiên cứu Trương Thị Nhàn trong bài viết: Nhân vật “hắn” với một nét đặc trưng trong ngôn ngữ nghệ thuật Nam Cao, tác giả đã thống kê có tới 20 truyện của Nam Cao( trong số 55 truyện) các nhân vật được nhà văn gọi là “hắn”. Khi nhà văn gọi nhân vật là “hắn”, thì sắc thái tình cảm không còn là trung tính. Bởi vì, nhà văn đã tạo ra một tư cách “hắn” trong các nhân vật “hắn”. Các nhân vật ấy có gì đó biến dạng tha hóa… Một số nhân vật khác, chỉ riêng cách đặt tên đã hiện ra một khoảng cách giữa người kể chuyện và nhân vật. Các tên rất khó nghe như Chí Phèo,Trạch Văn Đoành, Trương Rự,… Phải chăng đó là khuynh hướng hiện thực nghiệt ngã trong sáng tác của Nam Cao?

Đáng lưu ý là, câu chuyện của tác giả không chỉ kể chuyện, mà còn là kể tâm trạng, và đây lại là đặc điểm nổi trội trong sáng tác của Nam Cao. Chính sự kết hợp giữa kể chuyện và tả tâm trạng, văn Nam Cao đã hình thành phong cách có vẻ đối nghịch giữa hai đặc điểm:Tỉnh táo sắc lạnh và chan chứa trữ tình.

Đọc truyện “Chí Phèo”, giọng lạnh lùng khách quan của câu chuyện hiện ra ngay từ đầu tác phẩm. “Hắn vừa đi vừa chửi”. Cuộc đời của nhân vật này có lúc đặt chân vào phần “con” nhiều hơn phần “người”. “ Có lẽ hắn cũng không biết rằng, hắn là con quỷ dữ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng…”. Dọc suốt câu chuyện “Chí Phèo”, dễ thấy một giọng lạnh lùng, một thái độ sắc lạnh, thiếu thiện cảm của người kể chuyện khi kể về nhân vật. Tuy nhiên, sở trường của Nam Cao là kể tâm trạng. Một người “chưa bao giờ tỉnh táo để biết rằng hắn trên đời”, nhưng chiều sâu nội tâm của nhân vật được cây bút tài hoa khám phá và kể tâm trạng thật tinh tế. Đoạn tả Chí Phèo với cảm giác lần đầu nếm hương vị của cháo hành, hương vị của tình yêu, thật chính xác mà đầy chất thơ. Rồi ý nghĩ của Chí nhớ lại những ngày “nhục hơn là thích” ở nhà bà Ba… Diễn biến tâm lý Chí Phèo trong một buổi sáng nhớ ra mình “có ở trên đời” được tác giả Nam Cao “giải phẫu” thật logic, biện chứng…

Vẫn cách gọi “hắn”, “thị”, “y” nhưng ẩn đằng sau câu chữ là lời kể, là một sự trân trọng tin yêu đối với nhân vật. Nếu không có niềm tin, không thấu hiểu bản chất người nông dân, làm sao tác giả viết được câu: “Trời ơi! Hắn them lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”. Đọc những câu văn như vậỵ, người đọc tinh ý nhận ra ngọn lửa hoàn lương vẫn còn âm ỉ trong tâm hồn con người bị tha hóa cả nhân hình lẫn nhân tính ấy. Tác giả đã khéo léo gợi ra lòng độc giả “cả phần lí trí lẫn phần tình cảm”.

Hai đặc điểm đối nghịch, bề ngoài lạnh lùng- bên trong trữ tình trong truyện của Nam Cao còn xuất phát từ lối kể chuyện bằng chất giọng: “nghiêm nghị và hài hước, trân trọng nâng niu,và nhạo, đay, mỉa”. Bạn đọc dễ nhận ra cái giọng mỉa mai, nhạo báng pha hài hước của văn xuôi Nam Cao, song độc giả tinh ý sẽ nhận ra thái độ nghiêm túc, sự tin tưởng vào phần tốt đẹp cảu con người hay khả năng tự nhận thức rất cao của người tri thức.

Nếu Thạch Lam đi tìm cái đẹp để khám phá và phát hiện; Vũ Trọng Phụng mổ xẻ đến tận cùng cái ung nhọt đến mức cực đoan; Khái Hưng Nhất Linh nhiều lần thi vị hóa… thì Nam Cao thể hiện ngòi bút tỉnh táo, đúng mực. Xuất phát từ nhận thức hiện đại về con người, hướng tới vẻ đẹp nhân văn đích thực của con người, truyện ngắn và truyện dài của Nam Cao mạnh dạn đi vào tận cùng các cực đối lập trong nhân tính, tâm hồn con người. Tạo ra những tình huống, những hoàn cảnh thử thách nhân vật, truyện của Nam cao không ít lần làm người đọc phấp phỏng bởi hoài nghi vào niềm tin của nhà văn này vào con người.

Quả vậy, đọc những trang văn trong các tác phẩm như “Chí Phèo”, “Đời Thừa”… ta thấy các nhân vật của Nam Cao vận động trượt dốc theo hướng từ con người dần dần đi đến giáp ranh của con vật hay hành trình ngược lại. Đương nhiên trong các nhân vật lưỡng hóa ấy, Chía Phèo là nhân vật tiêu biểu nhất. Trong Chí Phèo có sự vận động ngược và xuôi chiều như vậy. Bởi Chí Phèo đã sống trong môi trường “ là một thế giới chứa đựng hai khả năng dành cho con người”. Xã hội thực dân nửa phong kiến mà cụ thể là Bá Kiến và nhà tù thực dân đã biến một anh canh điền hiền lành thành một “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. NamCao đã dung vài nét để phác họa hình hài bản chất “ con” trong con người Chí Phèo: “Hắn biết đâu hắn đã phá biết bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc…”. Như vậy, ở Chí Phèo có quá trình lưỡng hóa giữa lương thiện và lưu manh, giữa người và vật.

Cần khẳng định rằng, truyện của Nam Cao miêu tả nhân vật giữa tính người và tính vật trở thành biệt tài, thành phong cách của nhà văn này. Không ít nhân vật của Nam Cao bị tha hóa, nhưng quan trọng là cuối cùng nhiều nhân vật của Nam Cao đã thắng thế, chiến thắng cái phàm tục nhỏ nhen, vị kỉ. Câu nói sau đây là phát biểu của Lão Hạc hay chính là quan niệm của Nam Cao: “Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… Toàn là những cái vớ vẩn để cho người ta tàn nhẫn…”. Cho nên, dù nhà văn phơi ra trên từng trang viết của mình sự chao đảo giữa tính người và tính vật, nhưng điều quan trọng là Nam Cao đã thể hiện niềm tin lớn lao vào con người và sáng tạo được những tác phẩm mang dấu ấn rõ nét của chủ nghĩa nhân văn hiện đại.

Nghiên cứu tác phẩm của Nam Cao, sách “Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Phan Cư Đệ” có nhận định thật xác đáng: “Ở truyện ngắn của Nam Cao, chúng ta thường thấy hai tầng ý nghĩa: một tầng ý nghĩa gắn với tình tiết sự việc và câu chuyện mà nhà văn muốn trần thuật lại; và tầng thứ hai là những đúc kết có tính chất khái quát, triết lý”. Thật vậy, gần như truyện nào ta cũng thấy hiện ra những câu triết lý của nhân vật hoặc của người kể chuyện. Nhiều câu triết lý hiện ra qua lời than, các câu cảm thán, như “Chao ôi! Nếu người ta không phải ăn thì giản dị biết bao. Thức ăn không bao giờ tự chảy vào mồm…”. Hay các quan niệm xuất hiện dưới dạng câu hỏi: “Chao ôi, trên đời này có cái gì bền vững mãi đâu?”. Khi nhận thấy những mâu thuẫn trong cuộc sống, nhà văn Nam Cao lên tiếng bằng tiếng nói phẫn uất: “Tại sao ở hiền không phải bao giờ cũng gặp lành?”.

Có thể nói, cảm hứng triết lý trở thành cảm hứng nghệ thuật của tác giả làng Đại Hoàng. Từ đó Nam Cao có một giọng đặc trưng: giọng triết lý với đa sắc điệu. Khi thì đắng cay chua chát, lúc lại hài hước dí dỏm. Kết quả của lối triết lý trong sáng tác của Nam Cao là do sự quan sát tinh tế, cùng với ý thức chiêm nghiệm về cuộc đời và nỗi đau đáu thương đời.

Về phong cách nghệ thuật, tất cả gần như đã được gói gọn trong ba câu thơ của Lê Đạt thật chuẩn xác. Có ai đó đã từng nói rằng: “Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập”. Chính “vân chữ”, cái riêng, cái mới lạ, độc đáo của Nam Cao làm cho văn chương có sức trường tồn qua năm tháng. Có sản phẩm nào của khoa học lại luôn luôn mới như văn học?

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
Lương Phú Trọng
10/06/2021 16:55:40
+4đ tặng

Đề tài về người lính là một mảnh đất màu mỡ được nhiều nhà thơ, nhà văn khám phá, tìm hiểu với nhiều tác phẩm hấp dẫn, độc đáo. Hình ảnh người lính dưới ngòi bút của mỗi nhà văn hiện lên với những nét riêng và Chính Hữu, Phạm Tiến Duật cũng góp phần làm phong phú thêm mảng đề tài ấy qua hai tác phẩm tiêu biểu - bài thơ “Đồng chí” và bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Hình tượng người lính trong hai bài thơ hiện lên vừa có những điểm giống nhau nhưng đồng thời cũng có những điểm khác biệt.

Trước hết có thể thấy, hình tượng người lính trong hai bài thơ hiện lên giống nhau ở những phẩm chất, vẻ đẹp đáng trân quý. Hình ảnh người lính trong cả hai bài thơ đều là những người giàu nghị lực, không ngại khó khăn, gian khổ và sẵn sàng vượt lên trên tất cả bằng ý chí, niềm tin và tinh thần lạc quan. Đọc bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu, chắc hẳn chúng ta sẽ không thể nào quên được những câu thơ:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày.

Bằng những hình ảnh chân thực, rõ nét, Chính Hữu dường như đã làm hiện lên tất cả mọi khó khăn, gian khổ, thiếu thốn mà những người lính đã phải gánh chịu trong cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Là những cơn sốt rét rừng đến run người, là thiếu thốn về vật chất - “áo rách vai”, “quần vài mảnh vá”, “chân không giày”. Nhưng có lẽ những khó khăn, thiếu thốn ấy không thể làm cho các anh nao núng, những người lính ấy đã vượt lên trên tất cả bằng một nụ cười, hình ảnh “miệng cười buốt giá” đã cho chúng ta thấy rõ được tinh thần lạc quan, ý chí, nghị lực trong các anh. 

Không chỉ trong bài thơ “Đồng chí”, bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” cũng đã khắc họa vẻ đẹp này của những người lính:

Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi.

Trên con đường hành quân ra trận, trên tuyến đường Trường Sơn với biết bao mưa bom, bão đạn và hiểm nguy nhưng những người lính lái xe đã nỗ lực vượt lên trên tất cả. Có thể thấy, những hình ảnh “bụi”, “mưa” vừa là những hình ảnh mang ý nghĩa tả thực nhưng hơn hết đó còn là những hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng cho những khó khăn, vất vả mà những người lính gặp phải trên đường ra trận. Nhưng những người lính đã vượt qua tất cả, ý chí, nghị lực và niềm tin của những người lính được thể hiện rõ nét qua việc sử dụng điệp từ “không có...ừ thì….” cùng việc lặp lại cấu trúc “chưa cần…” và hàng loạt các hình ảnh chân thực thể hiện rõ ý chí, tinh thần lạc quan của các anh như “phì phèo châm điếu thuốc”, “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”, “chưa cần thay lái trăm cây số nữa”,...

 

Thêm vào đó, những người lính trong cả hai bài thơ đều có tình đồng chí, đồng đội gắn bó bền chặt, keo sơn, thắm thiết. Trong bài thơ “Đồng chí”, tình đồng đội hiện lên thật đẹp và thể hiện rõ nét trong toàn bộ bài thơ. Ở đó, những người lính thấu hiểu mọi nỗi niềm tâm sự, cùng sát cánh bên nhau sẻ chia tất cả:

Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

Những người lính ấy, họ xuất thân từ những miền quê khác nhau, đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, cùng chung lí tưởng, chung mục đích phấn đấu và trở thành những người đồng chí, đồng đội, cùng chung chăn. Và để rồi, họ thấu hiểu hết mọi nỗi niềm của nhau, thấu hiểu cảnh ngộ, thấu hiểu mục đích lí tưởng và tình yêu quê hương, đất nước thiết tha. Đồng thời, những người lính ấy họ đã cùng nhau vượt qua bao vất vả, thiếu thốn và cả những bệnh tật nơi chiến trường hiểm ác với cái thiên nhiên hoang dã, dữ dội và để rồi, những tình cảm thiêng liêng, đáng trân quý ấy ở họ đã kết tinh thật sắc nét qua câu thơ “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Hình ảnh “tay nắm lấy bàn tay” là một hình ảnh thơ độc đáo và giàu ý nghĩa, đó là cái bắt tay để gắn chặt thêm tình đồng chí, đồng đội, là cái bắt tay trao cho nhau hơi ấm của tình yêu thương, trao cho nhau động lực, niềm tin để chiến đấu và chiến thắng.

Đọc bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật chúng ta cũng thấy hiện lên tình đồng chí, đồng đội cao đẹp, đáng trân quý:

Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi

Trên chặng đường hành quân ra trận gian nan, vất vả, những người lính gặp nhau trong thoáng chốc, qua những ô cửa kính đã vỡ vì bom đạn của chiến trường, họ trao nhau những cái bắt tay ấm nồng tình cảm. Cái bắt tay ấy đã trao đi biết bao niềm tin, bao động lực để các anh cùng nhau phấn đấu, cố gắng trên chặng đường ra trận hiểm nguy. Và đồng thời, với những người lính lái xe, tình cảm đồng đội, tình anh em của họ cũng thật giản dị mà đơn sơ, với họ, những người cùng chung bát đũa chính là anh em, là gia đình của nhau, họ sẵn sàng cùng nhau yêu thương, gánh vác và san sẻ mọi nỗi niềm.

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy. 

Cùng với đó, người lính trong cả hai bài thơ đều hiện lên với tư thế chủ động, sẵn sàng chiến đấu. Đọc bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu, chắc hẳn người đọc sẽ không thể nào quên những câu thơ:

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo

Trên cái nền của thiên nhiên, giữa màn đêm nơi chốn núi rừng hoang sơ, khi sương muối đã bủa vây lấy tất thảy mọi thứ, ấy vậy mà những người lính ấy vẫn không nao núng, vẫn ung dung, hiên ngang đứng “chờ giặc tới”. Hình ảnh đừng “chờ giặc tới” như đã vẽ lên trước mắt chúng ta hình ảnh người lính hiên ngang đứng chờ giặc, không chút lo lắng, sợ hãi.

Cùng với đó, tư thế hiên ngang, bất khuất của những người lính lái xe trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” cũng hiện lên thật rõ nét:

Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái

Trên con đường ra trận, giữa những trận mưa bom, bão đạn, khiến những chiếc xe vỡ cửa kính, nhưng tất cả những điều đó chẳng thể nào ngăn được bước chân của các anh. Những người lái xe ấy vẫn “ung dung” giữ vững tay lái của mình, vẫn hiên ngang nơi buồng lái để ra trận, hoàn thành nhiệm vụ của mình. Đặc biệt, tư thế hiên ngang của họ càng được nhấn mạnh và làm bật nổi qua việc sử dụng điệp ngữ “nhìn đất”, “nhìn trời”, “nhìn thẳng”,... Những người lính lái xe ấy không những không sợ mà họ còn sẵn sàng đối diện với tất cả, để nỗ lực vượt qua.

Như vậy, có thể thấy hình ảnh người lính trong cả hai bài thơ hiện lên có những nét giống nhau, sự giống nhau ấy chính là vẻ đẹp phẩm chất, tâm hồn đáng trân quý. Nhưng ở họ cũng có những điểm khác biệt. Sự khác nhau ấy trước hết thể hiện ở hoàn cảnh xuất thân. Những người lính trong bài thơ “Đồng chí” là những người xuất thân là những người nông dân, từ những miền quê khác nhau của Tổ quốc còn những người lính lái xe trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” lại xuất thân là những chàng trai thành phố, những thanh niên tri thức trẻ. Thêm vào đó, hình ảnh người lính trong bài thơ “Đồng chí” hiện lên với nét mộc mạc, chân chất bởi họ xuất thân là những người nông dân còn những người lính trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” lại hiện lên với nét trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch, tếu táo.

Có thể thấy, hình ảnh người lính trong cả hai bài thơ hiện lên vừa có những điểm chung nhưng đồng thời cũng có điểm khác biệt. Sự giống nhau ấy chính bởi cả hai nhà thơ đều tái hiện hình ảnh người lính với những vẻ đẹp vốn có của họ trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc. Còn sự khác nhau bắt nguồn trước hết từ đặc trưng của văn học - văn học là lĩnh vực của cái mới, cái sáng tạo, bởi vậy nó không cho phép sự sao chép hay lặp lại. Đồng thời, sự khác nhau ấy còn xuất phát từ hoàn cảnh ra đời của hai tác phẩm. Bài thơ “Đồng chí” ra đời vào năm 1948, đây chính là thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp còn “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” lại ra đời vào năm 1969, trong quãng thời gian cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đang diễn ra khốc liệt và tàn ác nhất.

Tóm lại, có thể thấy hình tượng người lính trong cả hai bài thơ hiện lên vừa có những điểm giống vừa có những điểm khác nhau nhưng xét đến cùng cả hai bài thơ đã góp phần làm phong phú, đặc sắc thêm cho mảng đề tài viết về những người lính.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 9 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư