Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Nhập vai nhân vật ông hai kể lại diễn biến tâm trạng khi nghe tin làng theo giặc

nhập vai nhân vật ông hai kể lại diễn biến tâm trạng khi nghe tin làng theo giặc, có sử dụng yếu tố đối thoại ,đọc thoại độc thoại nội tâm
3 trả lời
Hỏi chi tiết
810
1
0
Múp míp
02/01/2022 09:57:40
+5đ tặng
Tôi là một người nông dân làng chợ Dầu. Mọi người thường gọi tôi là ông Hai Thu. Kháng chiến bùng nổ tôi muốn ở lại làng cùng anh em bộ đội và dân quân kháng chiến. Nhưng vì hoàn cảnh gia đình nên tôi phải cùng gia đình đi tản cư. Ở nơi tản cư tôi rất nhớ làng và thường có hay khoe về làng mình. Hôm nào tôi cũng ra phòng thông tin để nghe tin tức kháng chiến. Hôm ấy, vớ được anh dân quân đọc rất to, rõ ràng, rành mạch tôi nghe được bao nhiêu tin hay - toàn tin quân ta giết được địch, ruột gan tôi cứ múa hết cả lên. Đang trong tâm trạng náo nức thì tôi nghe được tin làng chợ Dầu của tôi theo Tây làm Việt gian. Lúc đó cổ họng tôi nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Tôi lặng ti tưởng như không thở được. Một lúc lâu tôi mới dặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, tôi hỏi lại về cái tin ấy thì người ta đã khẳng định một cách chắc chắn. Tôi vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác rồi đi thẳng về nhà. Về đến nhà, tôi nằm vật ra giường nhìn lũ con tôi thấy tủi thân, nước mắt tôi cứ ràn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Tôi ngờ ngợ chả nhẽ bọn ở làng lại đốn đến thế ư rồi tôi tự kiểm điểm trong óc thấy họ đều là những người có tinh thần yêu nước, yêu kháng chiến chẳng nhẽ lại đi làm cái điều nhục nhã ấy nhưng không có lửa làm sao có khói. Tôi cảm thấy tủi nhục, chiều hôm ấy vợ tôi về cũng có vẻ khác. Trong nhà có cái sự im lặng thật là khó chịu. Mãi đến khuya vợ tôi mới hỏi tôi về cái tin ấy. Tôi im lặng rồi gắt lên vậy là bà ấy im bặt. 3-4 ngày hôm sau tôi không dám bước chân ra ngoài chỉ ở trong gian nhà trật trội để nghe ngóng tin tức. Lúc nào tôi cũng nơm nớp lo sợ, hễ nghe đến chuyện ấy là tôi lại giật mình. Trong tôi giờ đây đang diễn ra một cuộc chiến tranh nội tâm gay gắt khi mụ chủ nhà có ý đuổi gia đình tôi đi. Tôi lâm vài tình trạng bế tắc: về làng hay ở lại. Cuối cùng tôi đến quyết định: làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây rồi thì phải thù. Trong tâm trạng đau đớn tủi hờn, tôi tâm sự với thằng con út. Sau khi tâm sự xong, nỗi khổ của tôi với đi phần nào. Rồi một hôm khoảng 3h chiều, có người đàn ông đến nhà tôi chơi. Ông ấy rủ tôi đi theo ông ấy đến sẩm tối tôi mới về. Lúc ấy tôi rất vui. Đến bực cửa tôi đã bô bô khoe rằng Tây nó đốt nhà tôi rồi, ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên cải chính, ông ấy cho biết cái tin làng tôi theo Tây làm Việt gian là sai sự mục đích. Cứ thế tôi lật đật đi khoe khắp nơi, tối hôm ấy tôi sang gian bác Thứ nói chuyện về làng của tôi

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
2
0
Nguyễn Nguyễn
02/01/2022 09:57:41
+4đ tặng

Đó là một ngày nắng. Cũng cách đây mấy năm rồi. Và tôi thì cũng không còn nhớ rõ cho lắm.
Trưa ấy, trời nắng ghê lắm. Nắng rọi xuống mặt sân sáng lóa. Nắng như muốn thiêu rụi cả con người. Có mấy tiếng gà trưa cất lên eo éo. Tiếng lũ ve thì ngân mãi không thôi, não lòng. Xong việc, tôi có cả một khoảng thời gian mà nằm nghĩ vẩn vơ. Và thế là tôi nhớ về cái làng Dầu của tôi, nhớ ghê gớm.

Tôi ngóng đứa con gái lớn từng lúc một. Mong nó về nhanh nhanh để trông nhà trông cửa, để tôi còn được làm cái việc mà tôi vẫn làm. Một lúc sau, nó về. Tôi dặn dò con vài câu rồi bước vội ra ngoài. Đường vắng hẳn người qua lại. Trời lồng lộng gió nhưng vẫn không đủ để thổi đi cái nắng nóng của mùa hè. Nắng thế này thì ***** chúng nó. Tôi nghĩ rồi nói lớn. Có người đi ngang qua, bỡ ngỡ hỏi lại:

- Chúng nó nào?

- Tây ấy chứ còn chúng nó nào nữa. Ngồi vị trí giờ bằng ngồi tù.

Nói rồi tôi bước thẳng. Cũng như thường lệ, tôi ghé vào trạm thông tin nghe ngóng tình hình chiến sự. Biết bao là tin hay. Ruột gan tôi cứ như múa cả lên. Vui quá! Nhưng dường như hạnh phúc của con người thật là bé nhỏ. Ngờ đâu cái vui vẻ ấy chỉ là một ngày lặng gió trước khi giông tố nổi lên. Bước ra khỏi phòng thông tin, tôi rẽ vào dặn vợ vài việc rồi theo lối huyện cũ mà đi. Tôi tạt qua quán nước ngồi. Ở đây, những tốp người tản cư dưới xuôi lên đứng ngồi lố nhố. Nghe một người đàn bà nói bọn Tây nó vào làng Chợ Dầu, nó khủng bố, tôi lo lắng, quay phắt lại lắp bắp hỏi:

- Nó… Nó vào làng Dầu hở bác? Thế ta giết được bao nhiêu thằng?

- Có giết được thằng nào đâu. Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây còn giết gì nữa!

Giọng người đàn bà the thé, đầy mùi căm giận. Nó như gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt tôi. Tôi bàng hoàng. Cổ họng nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, tưởng như đến không thở được. Khóe mắt cứ giật giật, các dây thần kinh như tê liệt. Một lúc lâu sau, tôi mới rặn è è, nuốt cái gì vương vướng ở cổ, hỏi lại, giọng lạc hẳn đi:

- Liệu có thật không hở bác? Hay lại chỉ…

- Thì chúng tôi vừa ở dưới đấy lên đây mà lại…

Tôi chưa dứt lời thì người ta đã nói. Dứt khoát. Chắc như đinh đóng cột. Tôi đờ người. Hai tai ù ù. Chẳng còn nghe thấy gì cả. Giọng người kia như lẫn vào trong gió. Tôi trả tiền nước, lảo đảo đứng dậy. Chèm chẹp miệng, cười nhạt một tiếng:

- Hà, nắng gớm, về nào…

Tôi nói với mình mà như chẳng nói với ai. Tôi tự trấn an mình. Lảng ra một chỗ rồi bước hẳn, không dám quay đầu lại nhìn. Tôi cúi gằm mặt xuống mà đi, như mình vừa làm điều gì đó tội lỗi lắm. Về đến nhà, tôi nằm vật ra giường. Tay chân như nhũn hẳn ra, không còn sức. Tôi thở dốc. Mấy đứa nhỏ len lét đưa nhau ra đầu nhà chơi sậm chơi sụi với nhau.

Nhìn lũ con, chẳng hiểu sao nước mắt tôi cứ giàn ra. Mắt mờ đi, nhạt nhòa. Mấy đứa nhở… Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu… Tôi nắm chặt hai tay, móng đâm vào da thịt, đau nhói. Tôi rít lên như một con thú bị thương, đau đớn đến tột cùng:

- Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian ban nước để nhục nhã thế này.

Tôi bỗng ngừng lại, ngờ ngợ. Tôi nhớ lại từng người. Họ toàn những người có tinh thần cả mà. Họ quyết không chịu đi để ở lại giữ làng, định bụng một phen sống mái với lũ chúng nó. Có đời nào họ chịu nhục nhã mà đi làm cái điều kinh khủng ấy!... Nhưng không! Không có lử thì làm sao có khói? Ai người ta đi đặt điều vu oan cho mà làm gì? Chao ôi! Cực nhục chưa? Cả làng Việt gian! Rồi đây biết sống ra sao? Ai người ta chứa? Ai người ta buôn bán mấy?... Tôi cứ bần thần nghĩ ngợi. Mọi thứ rối tung lên, như tơ vò, một mớ bòng bong. Gỡ thế nào cũng không ra được. Thôi thì cắt đi cho nhẹ nợ. Bụng bảo dạ, tôi cố nhét cho sâu cái chuyện đó vào sâu trong bộ não. Nhưng dường như vợ tôi cũng biết chuyện đó rồi. Chiều về, bà ấy uể oải, cái mặt nặng như đeo chì. Mãi khuya, bà ấy mới dám lôi chuyện ấy ra. Vừa nói, hỏa khí trong tôi đã bùng lên. Thế là im bặt, nhẫn nhục.

Đêm xuống yên ắng đến lạ. Đêm đen như mực, như chỉ trực đợi tôi nhắm mắt là sẽ ôm trọn tâm hồn tôi. Tôi vẫn trằn trọc không sao ngủ được. Hết trở mình bên này lại trở mình bên kia, thở dài. Chợt lặng hẳn đi, tôi nghe có tiếng léo xéo ở gian trên. Tiếng mụ chủ… Mụ nói cái gì vậy? Mụ nói cái gì mà lào xào thế? Trống ngực tôi đập thình thịch. Nín thở, ruột gan như sôi lên, tôi lắng tai nghe ra bên ngoài…

Từ ngày hôm ấy, tôi chỉ ru rú một góc nhà, đến cả nhà bác Thứ cũng không dám sang. Tủi hổ lắm! Tôi còn mặt mũi nào mà nhìn người ta nữa?... Ruột gan tôi lúc nào cũng như lửa đốt. Cứ một đám đông túm lại tôi cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa cũng nơm nớp lo sợ, thoáng nghe thấy mấy tiếng Tây, Việt gian… là lại chột dạ. Lủi thủi trong nhà, nin thin thít. Thôi lại chuyện ấy rồi! Các cụ đã nói “Ghét của nào trời chao của ấy”. Đúng như nhũng gì tôi lo sợ, mụ chủ đã đến, ý tứ đuổi khéo chúng tôi. Phải rồi! Ai người ta dại mà đi chứa lũ bán nước cơ chứ? Tất cả đang quay lưng lại với tôi. Thật đáng sợ! Thật là tuyệt đường sống! Biết đem nhau đi đâu bây giờ? Biết đâu người ta chứa gia đình tôi? Cứ nghĩ, nghĩ và nghĩ mãi. Những ý nghĩ đen tối, ghê rợn cứ theo đó mà len lỏi vào tâm chí tôi. Từng bước, từng bước một, chúng thống lĩnh suy nghĩ của tôi… Hay là quay về làng?...

Nước mắt tôi cứ giàn ra. Mặn chát. Về làng ư? Không… Không… Về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ. Về làng đồng nghĩa với việc chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây. Không thể được! Làng thì yêu. Yêu thật! Nhưng làng theo Tây mất rồi. Làng đã phản bội lại ta thì phải thù.

Tôi bế thằng út, xoa đầu nó, hỏi khẽ:

- Húc kia! Thầy hỏi con nhé, con là con ai?

- Là con thầy mấy lị con u.

- Thế nhà con ở đâu?

- Nhà ta ở làng Chợ Dầu.

- Thế con có thích về làng mình không?

Thằng bé cúi mặt, vân vê gấu áo như suy nghĩ cái gì đó. Nó nép đầu vào ngục tôi, khẽ trả lời :

- Có.

Tiếng nó khẽ khàng. Như tiếng lòng của chính bản thân tôi. Sao tôi vẫn cứ yêu cái làng ấy đến thế? Tôi lại hỏi:

- Thế con ủng hộ ai?

- Con ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm!

Mắt thằng bé mở to hết cỡ. Đôi mắt long lanh ấy ánh lên một niềm vui bất tận. Thằng bé trả lời dứt khoát. Nước mắt tôi lại trào ra, ấm áp.

- Ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ.

Tôi thủ thỉ với thằng bé. Tôi khắc sâu vào lòng thằng bé mà cũng như tự nhủ với lòng mình, tự minh oan cho chính mình. Cái lòng bố con tôi như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai.

Cứ như vậy cho đến ngày hôm ấy. Tôi nhận được tin cải chính. Như trút được gánh nặng trong lòng, tôi mua quà cho lũ trẻ. Rồi lật đật đi khoe với hàng xóm láng giềng. Phải! Phải! Phải cho mọi người cùng biết cái tin ấy chứ. Tay chân tôi cứ múa hết cả lên. Đi đến đâu tôi cũng hô thật to:

- Tây nó đốt làng tôi rồi. Nhà tôi bây giờ chỉ còn lại một đống tro đên sì. Ông chủ tịch làng tôi vừa lên cải chính,,, cải chính cái tin làng Chợ Dầu chúng tôi Việt gian theo giặc ấy mà. Ra láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn sai sự mục đích cả!

Cái nhà cháy ấy là minh chứng cho việc làng tôi không theo giặc. Tôi hô hào như để trút bỏ những phiền muộn vừa qua. Đã thật! Ai cũng mừng, cũng vui cho tôi…

Tiếng mấy đứa con léo réo. Thằng út kéo tay tôi gọi lớn, kéo tôi ra khỏi hồi tưởng. Tôi nhìn quanh. Mắt ngân ngấn lệ. Tôi nhấc bổng thằng nhỏ, hôn nó cái chụt. Nó cười khúc khích, tiếng cười như tan vào gió, như mang niềm hạnh phúc của tôi bao trùm lên cả làng Dầu. Tôi gói ghém những hồi ức đó, nhét vào một nơi thật sâu rồi vững bước, thẳng về phía trước, thẳng về cái làng của tôi. Còn hồi ức kia, nó chỉ làm cho tình yêu làng của tôi thêm nồng đượm mà thôi… Tôi tin rằng, tương lai vẫn còn ở phía trước. Và tôi sẽ gieo hạt ở nơi đây để hạnh phúc nở hoa nơi chốn này.

0
1
ai đấy nhỉ
02/01/2022 10:00:09
+3đ tặng

im lân là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam thế kỉ 20. Ông viết ít nhưng tác phẩm nào cũng sâu sắc, truyền tải được vẻ đẹp đời sống của con người việt Nam hồn hậu. Truyện ngắn Làng là một tác phẩm đặc sắc, tiêu biểu cho giọng văn Kim Lân. Với giọng văn bình dị, đằm thắm, Kim Lân đã thể hiện sâu sắc những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp qua nhân vật Ông Hai, một người nông dân hiền lành có tình yêu làng sâu đậm.

Làng được viết và đăng báo trên tạp chí Văn nghệ năm 1948 – giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong thời kì này thì người dân nghe theo chính sách của chính phủ: kêu gọi nhân dân ta tản cư, những người dân ở vùng địch tạm chiếm đi lên vùng chiến khu để chúng ta cùng kháng chiến lâu dài.

Có thể nói, trong các nhà văn trước và sau cách mạng, Kim Lân là nhà văn sống gần gũi và am hiểu đời sống của người nông dân Việt Nam nhất. Ông không chọn những đề tài lớn để thử thách ngòi bút của mình mà lại đi vào những tình cảm nhỏ bé nhưng không kém phần kịch liệt trong con người. Ở đó, ông nhìn thấy cái vẻ đẹp trong sáng, bình dị trong tâm hồn của người nông vốn bị cuộc sống xô bồ che lấp. Ở đó, ông nhìn thấy sự chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam trước cuộc chiến chống thực dân Pháp.

Vào những năm 1948, phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp lên cao nhưng người dân chưa thật sự ngã về phía cách mạng. Cho đến khi cách mạng thực sự đem đến lợi ích cho các vùng giải phóng thì người nông dân mới hết lòng tin tưởng và ủng hộ. Kim Lân đã phát hiện và nhanh chóng nắm bắt tình hình ấy. Ông đã thể hiện sự chuyển biến tích cực với niềm tin tưởng tưởng và đem lại sự tin tưởng cho đông đảo người đọc. Có thể nói, với truyện ngắn Làng, Kim Lân đã đóng góp một tiếng nói đồng tình, ủng hộ cách mạng với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước.

Tư tưởng của truyện được cụ thể hóa qua hình tượng nhân vật ông Hai. Ông Hai là một lão nông hiền lành, chân chất. Ông rất yêu và tự hào về cái làng Chợ Dầu của mình. Ông yêu mến từng cái cây, con đường, hàng gạch, lối đi và tất cả những gì mà làng Chợ Dầu có. Ông yêu mến con người của làng Chợ Dầu hiền lành, thân thiện và quả cảm.

Ông mường tượng tất cả đều gắn chặt với cuộc đời ông không thể tách rời và mỗi khi có ai đó chê bai hay này nọ về cái làng của ông, ông đều tỏ ra không hài lòng. Ông yêu cái làng của mình như đứa con yêu mẹ, tự hào về mẹ, tôn thờ mẹ, một tình yêu hồn nhiên như trẻ thơ. Cứ xem cái cách ông Hai náo nức, say mê khoe về làng mình thì sẽ thấy. Mỗi hình ảnh của làng đều đem đến cho ông một tình yêu mến vô hạn. Đó cũng là tình cảm vốn có từ ngàn đời nay của người nông dân Việt Nam gắn bó máu thịt với quê cha đất tổ, nơi chôn nhau cắt rốn của tổ tông. Thế nhưng, ở nhân vật ông Hai, đó là một tình cảm đặc biệt, thiêng liêng lắm.

Cũng vì quá yêu làng như thế mà ông nhất quyết không chịu rời làng đi tản cư. Ông thắm thía lắm cái cảnh tha hương cầu thực. Đến khi buộc phải cùng gia đình đi tản cư ông buồn khổ lắm, sinh ra bực bội, ít nói, ít cười, lúc nào cũng lầm bầm.

Biểu hiện của ông Hai cũng là biểu hiện của đông đảo nông dân thời bấy giờ. Họ không muốn rời làng, không muốn thay đổi. Kháng chiến thì cứ kháng chiến sao lại phải rời đi? Họ quyết bám chặt đất đai dù có bị cùm kẹp, áp bức, bị giết hại. Đối với họ, thay đổi nơi ăn chốn ở, rời bỏ mồ mả tổ tiên là một việc trọng đại. Làng nước là chốn thiêng liêng, không thể nói bỏ là bỏ trong một sớm một chiều. Thế nhưng, để ủng hộ kháng chiến, ủng hộ cách mạng, gia đình ông cũng tản cư về chỗ mới nhưng tình yêu làng mãi còn quấn quýt trong ông.

Ở nơi tản cư, ông dần dần hiểu ra mọi chuyện. Giờ đây, không những ông Hai yêu làng mà còn yêu cách mạng, yêu kháng chiến nữa. Từ miễn cưỡng thực hiện tản cư, đến yêu mến rồi nhiệt tình ủng hộ cách mạng, ủng hộ kháng chiến đó là một sự chuyển biến mạnh mẽ trong tình cảm của người nông dân. Ông Hai đã nhận thấy kẻ thù tàn bạo, chúng hủy hoại làng và cuộc sống của của nhân dân. Ông muốn tham gia chiến đấu cùng anh em nhưng ở tuổi này làm sao được.

Thế nhưng ông lại không muốn đứng ngoài cuộc, ông muốn làm gì đó chứ không chịu ngồi im khi trong lòng ông đang rộn ràng. Hằng ngày, ông đi nghe báo, ông đi nghe nói chuyện, ông bàn tán về những sự kiện nổi bật của cuộc kháng chiến…Tuy ít học, không biết chữ nhưng lại rất thích nói chữ, thích nói chuyện chính sự dù cũng không hiểu lắm các thuật ngữ chính trị, thích nói những chuyện to tát cho nó có cái không khí cách mạng. Và ông cho rằng đó là cách ông yêu nước, yêu kháng chiến, ông muốn cuộc chiến của dân tộc nằm trong lòng ông, không xa rời.

Từ chuyện làng, ông chuyển sang chuyện kháng chiến, chuyện đánh tây. Tình yêu làng trong ông vẫn lớn nhưng giờ đây nó hòa quyện trong tình yêu cách mạng, yêu kháng chiến, tình yêu nước. Tình cảm cá nhân ông Hai đã hòa hợp với tình yêu tổ quốc. Yêu làng cũng là yêu nước. Tản cư nghĩa là ủng hộ cách mạng, nghĩa là ủng hộ sự nghiệp giải phóng đất nước mà ủy ban kháng chiến đã đề ra. Có lẽ ông Hai chưa nhận ra điều đó nhưng trong tình cảm của ông tình yêu nước đã sớm nảy nở và ngày càng sâu sắc hơn. Kim Lân đã rất bình tĩnh khi thể hiện sự chuyển biến âm thầm mà mạnh mẽ này.

Sự việc ông Hai nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc là một sự thử thách lớn đối với tình yêu làng, yêu nước của ông. Đồng thời nó cũng quyết định lập trường cách mạng của người nông dân trong tình thế ngặt nghèo của đất nước. Ông Hai đã sững sờ, chết lặng người đi, rồi cảm giác xấu hổ, uất ức nghẹn trào khi nghe tin dữ đó.

Đối với ông, đó làm một cái tin không thể tin được, không thể chấp nhận được. Từ đỉnh cao của niềm vui,niềm tin ông Hai rơi xuống vực thẳm của sự đau đớn, tủi hổ vì cái tin ấy quá bất ngờ. Làm sao làng chợ Dầu có thể theo giặc? Làm sao người chợ Dầu có thể phản bội ông, phản bội cách mạng? Khi trấn tĩnh lại được phần nào, ông còn cố chưa tin cái tin ấy.

Nhưng rồi những người tản cư đã kể rành rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên” làm ông không thể không tin. Niềm tự hào về làng thế là sụp đổ tan tành trước cái tin sét đánh ấy. Cái mà ông yêu quí nhất nay cũng đã quay lưng lại với ông. Không chỉ xấu hổ trước bà con mà ông cũng tự thấy ông mất đi hạnh phúc của riêng ông, cuộc đời ông cũng như chết mất một lần nữa.

Tình huống truyện đã đặt nhân vật trong sự dằn vặt, đấu tranh ghê gớm. Đó là một “chất liệu xúc tác” có năng lực thanh lọc những tình cao cao quý của con người. Trước vận mệnh của đất nước và sự chuyển biến mạnh mẽ của dân tộc bắt buộc họ phải thay đổi hướng về nhiệm vụ chung. Thế nhưng, điều đó không phải dễ dàng và thật khó phát hiện. Tình yêu làng của ông Hai không có gì sai, thậm chí là rất cao đẹp. Nhưng ngay lúc này, đất nước đang cần có một tình cảm lớn hơn, đó là tinh thần yêu nước, cùng góp sức mình trong mặt trận chống kẻ thù.

Từ lúc nghe tin, trong tâm trí ông Hai chỉ còn có cái tin dữ ấy, nó xâm chiếm, nó trở thành một nỗi ám ảnh, day dứt không nguôi. Nghe đâu chửi bọn Việt gian là ông thấy đau nhói trong tim. Bao nhiêu điều tự hào về làng, về quê hương như đỗ vỡ trong tâm hồn người nông dân rất mực hiền lành ấy. Ông cảm thấy như chính ông mang nỗi nhục của một tên bất lương bán nước theo giặc. Và các con ông cũng sẽ mang nỗi nhục khủng khiếp ấy.

Đó là trách nhiệm của một công dân tốt, của một người cha hết lòng vì con. Tuy không trực tiếp phản bội cách mạng nhưng cái tiếng phản bội ấy có liên quan đến gốc cội của ông. Người Việt Nam muôn đời sống có tình có nghĩa, quê hương nguồn cội là cái nôi của lòng tự hào, nay mang tiếng theo giặc bảo sao không khỏi tủi nhục. Nhưng cái nhục của ông Hai là cái nhục cao quý, khi cái tự tôn trong ông bị đập đổ, bị phản bội. Nhà văn Kim Lân đã rất bản lĩnh khi khắc họa điều này. Sự thay đổi trong tình cảm tốt đẹp của người nông dân đã được tôn trọng, diễn ra từ từ và hết sức hợp lí, đúng đắn, xuất phát từ nhận thức cao độ và khẳng định sâu sắc.

Sự tủi hổ của ông Hai những ngày sau đó khẳng định mạnh mẽ điều này. Ông Hai rơi vào tình trạng bế tắc, tuyệt vọng khi nghĩ tới tương lai. Ông không biết đi đâu, về làng thì không được, vì về làng lúc này là đồng nghĩa với theo Tây, phản bội kháng chiến. Ở lại thì không xong, vì mụ chủ nhà đã đánh tiếng xua đuổi. Còn đi thi biết đi đâu bởi ai người ta chưa chấp dân làng Chợ Dầu phản bội.

Nếu như trước đây, tình yêu làng và tình yêu nước hòa quyện trong nhau thì lúc này, ông Hai buộc phải có sự lựa chọn. Quê hương và Tổ quốc, bên nào nặng hơn? Đó không phải là điều đơn giản vì với ông, làng Chợ Dầu đã trở thành một phần của cuộc đời, không dễ gì vứt bỏ; còn cách mạng là cứu cánh của gia đình ông, giúp cho gia đình ông thoát khỏi cuộc đời nô lệ.

Cuối cùng, ông đã quyết định: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Sau bao đắn đo, bao lựa chọn, bao lí do, cuối cùng ông hai đã thật sự đứng về phía cách mạng, ủng hộ cách mạng, ủng hộ kháng chiến. Tình yêu làng dẫu có thiết tha, mãnh liệt đến đâu cũng không thể mãnh liệt hơn tình yêu đất nước.

Đó là biểu hiện vẻ đẹp trong tâm hồn của con người Việt Nam, khi cần họ sẵn sàng gạt bỏ tình cảm riêng tư để hướng tới tình cảm chung của cả cộng đồng. Họ có thể vì cách mạng vì đất nước mà hi sinh tình riêng, hướng đến sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng nước nhà.

Cuộc giải bày của ông Hai khi nói với đứa con nhỏ thật cảm động. Dù đã quyết liệt nhưng ông Hai không khỏi đau lòng, ấm ức. Và khi tình huống truyện đạt đến cao trào, tình cảm dâng lên đỉnh điểm thì Kim Lân lại cho nó bùng phát một lần nữa cởi trói cho nhân vật yêu mến của mình. Đúng lúc ông Hai quyết định rõ ràng lập trường của mình thì cái tin làng Chợ Dầu phản bội đã được cải chính. Nỗi niềm đau khổ của ông Hai trong những ngày qua lớn lao bao nhiêu thì niềm phấn khởi và hạnh phúc cũng dạt dào bấy nhiêu. Ông muốn nhảy cẫng lên, muốn hét thật lớn để giải thoát bao ấm ức, bao kìm nén, bao tủi nhục bấy lâu, lên tiếng minh oan cho chính mình.

Phần xử lí cốt truyện tài tình thể hiện sự cảm thông sâu sắc và tình yêu mến lớn lao của nhà văn đối với người nông dân hiền lành, yêu nước. Thế rồi, ông lại đi khắp nơi, gặp ai ông cũng nói làng chợ dầu không theo giặc, làng chợ dầu kháng chiến với niềm hân hoan tột cùng.

Có thể nói, cái tài tình của Kim Lân là đã sáng tạo tình huống truyện có tính căng thẳng, đầy thử thách, cách xử lí cốt truyện mang đậm chất tâm lí. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn tự nhiên mà sâu sắc, tinh tế. Đặc biệt ngôn ngữ đặc sắc, sinh động, mang đậm chất khẩu ngữ, gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày của người nông dân vốn là thế mạnh của nhà văn nông dân tài hoa này.

Những chuyển biến âm thầm nhưng mới mẻ trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp được biểu hiện rõ ràng qua nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân. Từ một người nông dân yêu làng, ông Hai trở thành người công dân nặng lòng với kháng chiến. Tình yêu làng, yêu nước đã hòa làm một trong ý nghĩ, tình cảm, việc làm của ông Hai. Tình cảm ấy thống nhất, hòa quyện như tình yêu nước được đặt cao hơn, lớn rộng lên tình làng. Đây là nét đẹp truyền thống mang tinh thần thời đại. Ông Hai là hình ảnh tiêu biểu của người nông dân trong thời kì kháng chiến chống Pháp.

im lân là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam thế kỉ 20. Ông viết ít nhưng tác phẩm nào cũng sâu sắc, truyền tải được vẻ đẹp đời sống của con người việt Nam hồn hậu. Truyện ngắn Làng là một tác phẩm đặc sắc, tiêu biểu cho giọng văn Kim Lân. Với giọng văn bình dị, đằm thắm, Kim Lân đã thể hiện sâu sắc những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp qua nhân vật Ông Hai, một người nông dân hiền lành có tình yêu làng sâu đậm.

Làng được viết và đăng báo trên tạp chí Văn nghệ năm 1948 – giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong thời kì này thì người dân nghe theo chính sách của chính phủ: kêu gọi nhân dân ta tản cư, những người dân ở vùng địch tạm chiếm đi lên vùng chiến khu để chúng ta cùng kháng chiến lâu dài.

Có thể nói, trong các nhà văn trước và sau cách mạng, Kim Lân là nhà văn sống gần gũi và am hiểu đời sống của người nông dân Việt Nam nhất. Ông không chọn những đề tài lớn để thử thách ngòi bút của mình mà lại đi vào những tình cảm nhỏ bé nhưng không kém phần kịch liệt trong con người. Ở đó, ông nhìn thấy cái vẻ đẹp trong sáng, bình dị trong tâm hồn của người nông vốn bị cuộc sống xô bồ che lấp. Ở đó, ông nhìn thấy sự chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam trước cuộc chiến chống thực dân Pháp.

Vào những năm 1948, phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp lên cao nhưng người dân chưa thật sự ngã về phía cách mạng. Cho đến khi cách mạng thực sự đem đến lợi ích cho các vùng giải phóng thì người nông dân mới hết lòng tin tưởng và ủng hộ. Kim Lân đã phát hiện và nhanh chóng nắm bắt tình hình ấy. Ông đã thể hiện sự chuyển biến tích cực với niềm tin tưởng tưởng và đem lại sự tin tưởng cho đông đảo người đọc. Có thể nói, với truyện ngắn Làng, Kim Lân đã đóng góp một tiếng nói đồng tình, ủng hộ cách mạng với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước.

Tư tưởng của truyện được cụ thể hóa qua hình tượng nhân vật ông Hai. Ông Hai là một lão nông hiền lành, chân chất. Ông rất yêu và tự hào về cái làng Chợ Dầu của mình. Ông yêu mến từng cái cây, con đường, hàng gạch, lối đi và tất cả những gì mà làng Chợ Dầu có. Ông yêu mến con người của làng Chợ Dầu hiền lành, thân thiện và quả cảm.

Ông mường tượng tất cả đều gắn chặt với cuộc đời ông không thể tách rời và mỗi khi có ai đó chê bai hay này nọ về cái làng của ông, ông đều tỏ ra không hài lòng. Ông yêu cái làng của mình như đứa con yêu mẹ, tự hào về mẹ, tôn thờ mẹ, một tình yêu hồn nhiên như trẻ thơ. Cứ xem cái cách ông Hai náo nức, say mê khoe về làng mình thì sẽ thấy. Mỗi hình ảnh của làng đều đem đến cho ông một tình yêu mến vô hạn. Đó cũng là tình cảm vốn có từ ngàn đời nay của người nông dân Việt Nam gắn bó máu thịt với quê cha đất tổ, nơi chôn nhau cắt rốn của tổ tông. Thế nhưng, ở nhân vật ông Hai, đó là một tình cảm đặc biệt, thiêng liêng lắm.

Cũng vì quá yêu làng như thế mà ông nhất quyết không chịu rời làng đi tản cư. Ông thắm thía lắm cái cảnh tha hương cầu thực. Đến khi buộc phải cùng gia đình đi tản cư ông buồn khổ lắm, sinh ra bực bội, ít nói, ít cười, lúc nào cũng lầm bầm.

Biểu hiện của ông Hai cũng là biểu hiện của đông đảo nông dân thời bấy giờ. Họ không muốn rời làng, không muốn thay đổi. Kháng chiến thì cứ kháng chiến sao lại phải rời đi? Họ quyết bám chặt đất đai dù có bị cùm kẹp, áp bức, bị giết hại. Đối với họ, thay đổi nơi ăn chốn ở, rời bỏ mồ mả tổ tiên là một việc trọng đại. Làng nước là chốn thiêng liêng, không thể nói bỏ là bỏ trong một sớm một chiều. Thế nhưng, để ủng hộ kháng chiến, ủng hộ cách mạng, gia đình ông cũng tản cư về chỗ mới nhưng tình yêu làng mãi còn quấn quýt trong ông.

Ở nơi tản cư, ông dần dần hiểu ra mọi chuyện. Giờ đây, không những ông Hai yêu làng mà còn yêu cách mạng, yêu kháng chiến nữa. Từ miễn cưỡng thực hiện tản cư, đến yêu mến rồi nhiệt tình ủng hộ cách mạng, ủng hộ kháng chiến đó là một sự chuyển biến mạnh mẽ trong tình cảm của người nông dân. Ông Hai đã nhận thấy kẻ thù tàn bạo, chúng hủy hoại làng và cuộc sống của của nhân dân. Ông muốn tham gia chiến đấu cùng anh em nhưng ở tuổi này làm sao được.

Thế nhưng ông lại không muốn đứng ngoài cuộc, ông muốn làm gì đó chứ không chịu ngồi im khi trong lòng ông đang rộn ràng. Hằng ngày, ông đi nghe báo, ông đi nghe nói chuyện, ông bàn tán về những sự kiện nổi bật của cuộc kháng chiến…Tuy ít học, không biết chữ nhưng lại rất thích nói chữ, thích nói chuyện chính sự dù cũng không hiểu lắm các thuật ngữ chính trị, thích nói những chuyện to tát cho nó có cái không khí cách mạng. Và ông cho rằng đó là cách ông yêu nước, yêu kháng chiến, ông muốn cuộc chiến của dân tộc nằm trong lòng ông, không xa rời.

Từ chuyện làng, ông chuyển sang chuyện kháng chiến, chuyện đánh tây. Tình yêu làng trong ông vẫn lớn nhưng giờ đây nó hòa quyện trong tình yêu cách mạng, yêu kháng chiến, tình yêu nước. Tình cảm cá nhân ông Hai đã hòa hợp với tình yêu tổ quốc. Yêu làng cũng là yêu nước. Tản cư nghĩa là ủng hộ cách mạng, nghĩa là ủng hộ sự nghiệp giải phóng đất nước mà ủy ban kháng chiến đã đề ra. Có lẽ ông Hai chưa nhận ra điều đó nhưng trong tình cảm của ông tình yêu nước đã sớm nảy nở và ngày càng sâu sắc hơn. Kim Lân đã rất bình tĩnh khi thể hiện sự chuyển biến âm thầm mà mạnh mẽ này.

Sự việc ông Hai nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc là một sự thử thách lớn đối với tình yêu làng, yêu nước của ông. Đồng thời nó cũng quyết định lập trường cách mạng của người nông dân trong tình thế ngặt nghèo của đất nước. Ông Hai đã sững sờ, chết lặng người đi, rồi cảm giác xấu hổ, uất ức nghẹn trào khi nghe tin dữ đó.

Đối với ông, đó làm một cái tin không thể tin được, không thể chấp nhận được. Từ đỉnh cao của niềm vui,niềm tin ông Hai rơi xuống vực thẳm của sự đau đớn, tủi hổ vì cái tin ấy quá bất ngờ. Làm sao làng chợ Dầu có thể theo giặc? Làm sao người chợ Dầu có thể phản bội ông, phản bội cách mạng? Khi trấn tĩnh lại được phần nào, ông còn cố chưa tin cái tin ấy.

Nhưng rồi những người tản cư đã kể rành rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên” làm ông không thể không tin. Niềm tự hào về làng thế là sụp đổ tan tành trước cái tin sét đánh ấy. Cái mà ông yêu quí nhất nay cũng đã quay lưng lại với ông. Không chỉ xấu hổ trước bà con mà ông cũng tự thấy ông mất đi hạnh phúc của riêng ông, cuộc đời ông cũng như chết mất một lần nữa.

Tình huống truyện đã đặt nhân vật trong sự dằn vặt, đấu tranh ghê gớm. Đó là một “chất liệu xúc tác” có năng lực thanh lọc những tình cao cao quý của con người. Trước vận mệnh của đất nước và sự chuyển biến mạnh mẽ của dân tộc bắt buộc họ phải thay đổi hướng về nhiệm vụ chung. Thế nhưng, điều đó không phải dễ dàng và thật khó phát hiện. Tình yêu làng của ông Hai không có gì sai, thậm chí là rất cao đẹp. Nhưng ngay lúc này, đất nước đang cần có một tình cảm lớn hơn, đó là tinh thần yêu nước, cùng góp sức mình trong mặt trận chống kẻ thù.

Từ lúc nghe tin, trong tâm trí ông Hai chỉ còn có cái tin dữ ấy, nó xâm chiếm, nó trở thành một nỗi ám ảnh, day dứt không nguôi. Nghe đâu chửi bọn Việt gian là ông thấy đau nhói trong tim. Bao nhiêu điều tự hào về làng, về quê hương như đỗ vỡ trong tâm hồn người nông dân rất mực hiền lành ấy. Ông cảm thấy như chính ông mang nỗi nhục của một tên bất lương bán nước theo giặc. Và các con ông cũng sẽ mang nỗi nhục khủng khiếp ấy.

Đó là trách nhiệm của một công dân tốt, của một người cha hết lòng vì con. Tuy không trực tiếp phản bội cách mạng nhưng cái tiếng phản bội ấy có liên quan đến gốc cội của ông. Người Việt Nam muôn đời sống có tình có nghĩa, quê hương nguồn cội là cái nôi của lòng tự hào, nay mang tiếng theo giặc bảo sao không khỏi tủi nhục. Nhưng cái nhục của ông Hai là cái nhục cao quý, khi cái tự tôn trong ông bị đập đổ, bị phản bội. Nhà văn Kim Lân đã rất bản lĩnh khi khắc họa điều này. Sự thay đổi trong tình cảm tốt đẹp của người nông dân đã được tôn trọng, diễn ra từ từ và hết sức hợp lí, đúng đắn, xuất phát từ nhận thức cao độ và khẳng định sâu sắc.

Sự tủi hổ của ông Hai những ngày sau đó khẳng định mạnh mẽ điều này. Ông Hai rơi vào tình trạng bế tắc, tuyệt vọng khi nghĩ tới tương lai. Ông không biết đi đâu, về làng thì không được, vì về làng lúc này là đồng nghĩa với theo Tây, phản bội kháng chiến. Ở lại thì không xong, vì mụ chủ nhà đã đánh tiếng xua đuổi. Còn đi thi biết đi đâu bởi ai người ta chưa chấp dân làng Chợ Dầu phản bội.

Nếu như trước đây, tình yêu làng và tình yêu nước hòa quyện trong nhau thì lúc này, ông Hai buộc phải có sự lựa chọn. Quê hương và Tổ quốc, bên nào nặng hơn? Đó không phải là điều đơn giản vì với ông, làng Chợ Dầu đã trở thành một phần của cuộc đời, không dễ gì vứt bỏ; còn cách mạng là cứu cánh của gia đình ông, giúp cho gia đình ông thoát khỏi cuộc đời nô lệ.

Cuối cùng, ông đã quyết định: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Sau bao đắn đo, bao lựa chọn, bao lí do, cuối cùng ông hai đã thật sự đứng về phía cách mạng, ủng hộ cách mạng, ủng hộ kháng chiến. Tình yêu làng dẫu có thiết tha, mãnh liệt đến đâu cũng không thể mãnh liệt hơn tình yêu đất nước.

Đó là biểu hiện vẻ đẹp trong tâm hồn của con người Việt Nam, khi cần họ sẵn sàng gạt bỏ tình cảm riêng tư để hướng tới tình cảm chung của cả cộng đồng. Họ có thể vì cách mạng vì đất nước mà hi sinh tình riêng, hướng đến sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng nước nhà.

Cuộc giải bày của ông Hai khi nói với đứa con nhỏ thật cảm động. Dù đã quyết liệt nhưng ông Hai không khỏi đau lòng, ấm ức. Và khi tình huống truyện đạt đến cao trào, tình cảm dâng lên đỉnh điểm thì Kim Lân lại cho nó bùng phát một lần nữa cởi trói cho nhân vật yêu mến của mình. Đúng lúc ông Hai quyết định rõ ràng lập trường của mình thì cái tin làng Chợ Dầu phản bội đã được cải chính. Nỗi niềm đau khổ của ông Hai trong những ngày qua lớn lao bao nhiêu thì niềm phấn khởi và hạnh phúc cũng dạt dào bấy nhiêu. Ông muốn nhảy cẫng lên, muốn hét thật lớn để giải thoát bao ấm ức, bao kìm nén, bao tủi nhục bấy lâu, lên tiếng minh oan cho chính mình.

Phần xử lí cốt truyện tài tình thể hiện sự cảm thông sâu sắc và tình yêu mến lớn lao của nhà văn đối với người nông dân hiền lành, yêu nước. Thế rồi, ông lại đi khắp nơi, gặp ai ông cũng nói làng chợ dầu không theo giặc, làng chợ dầu kháng chiến với niềm hân hoan tột cùng.

Có thể nói, cái tài tình của Kim Lân là đã sáng tạo tình huống truyện có tính căng thẳng, đầy thử thách, cách xử lí cốt truyện mang đậm chất tâm lí. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn tự nhiên mà sâu sắc, tinh tế. Đặc biệt ngôn ngữ đặc sắc, sinh động, mang đậm chất khẩu ngữ, gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày của người nông dân vốn là thế mạnh của nhà văn nông dân tài hoa này.

Những chuyển biến âm thầm nhưng mới mẻ trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp được biểu hiện rõ ràng qua nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân. Từ một người nông dân yêu làng, ông Hai trở thành người công dân nặng lòng với kháng chiến. Tình yêu làng, yêu nước đã hòa làm một trong ý nghĩ, tình cảm, việc làm của ông Hai. Tình cảm ấy thống nhất, hòa quyện như tình yêu nước được đặt cao hơn, lớn rộng lên tình làng. Đây là nét đẹp truyền thống mang tinh thần thời đại. Ông Hai là hình ảnh tiêu biểu của người nông dân trong thời kì kháng chiến chống Pháp.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Mua sắm thỏa thích với Temu +150K
×
Gia sư Lazi Gia sư