Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Anh chị phân tích 8 câu cuối trong bài Truyện Kiều của Nguyễn Du

3 trả lời
Hỏi chi tiết
15.982
18
14
Ho Thi Thuy
23/04/2017 21:37:24
Kết thúc đoạn thơ, bi kịch càng được đẩy lên cao. Mâu thuẩn này nối tiếp mâu thuẫn khác, Kiều đã hoàn toàn bất lực trước mong muốn níu kéo, cố gắng trở về với tình yêu. Nhưng tất cả chỉ là quá khứ xa xôi và tương lai mờ mịt.
Dù có quay về quá khứ hay hướng tới tương lai, cuối cùng Kiều vẫn là con người sống với thực tại của mình :
« Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vài ái ân !
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi !
Phận sao phận bạc như vôi !
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng »
Hàng lọat những thành ngữ được liệt kê hàm chứa bao bi kịch người con gái. Đó là sự vỡ tan, dở dang của tình yêu và bọt bèo, trôi nổi của đời Kiều. Bi kịch càng sâu sắc khi trước hiện tại nàng vẫn không thôi khao khát tình yêu hạnh phúc. Những từ ngữ có tính chất vô hạn định như « muôn vàn, trăm nghìn » thể hiện sâu sắc káht vọng về một tình yêu thiết tha, vĩnh viễn. Oan nghiệt thay, khát vọng ấy cũng chính là hiện thực không gì cứu vãn nổi. Bi kịch tình yêu dâng lên tột đỉnh.
Nàng gọi Kim Trọng là tình quân, nàng xót xa cho duyên phận của mình tơ duyên ngắn ngủi, nàng tự coi mình là người phụ bạc. Thật đau khổ biết bao: trao duyên rồi, đã nhờ em trả nghĩa cho chàng Kim rồi mà nỗi buồn thương vẫn chất chứa trong lòng nàng Kiều. Phải chăng, một lần nữa Nguyễn Du đã thể hiện đúng quy luật tâm lí của con người: cái gì đong mà lắc thì vơi, nhưng: sầu đong càng lắc càng đầy là như thế! Tình duyên dẫu có cố tình dứt bỏ vẫn còn vương tơ lòng là như vậy. Cuối đoạn thơ, mặc dù Kiều đã giãi bày hết nỗi khổ tâm riêng của mình với em, đã nhờ em trả nghĩa cho Kim Trọng nhưng những đau khổ vì tình duyên tan vỡ trong tâm trí nàng vẫn không nguôi. Vẫn còn mang nặng nợ tình với Kim Trọng, vẫn biết mình phận bạc, Thúy Kiều vẫn phải thốt lên đau đớn:
« Ôi Kim lang hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây »
Phải chăng đây là tiếng thơ kêu xé lòng mà sau này nhà thơ Tố Hữu đã nói thay bao người, bao thế hệ! Chỉ một câu thơ và tên Kim Trọng được gọi đến hai lần. Những thán từ « ôi, hỡi » khiến câu thơ vang lên như một lời than, tiếng gọi thảng thốt, nghẹn ngào, mang theo lời trăn trối cuối cùng gửi đến chàng Kim trước lúc đi xa. Kiều đã rất ân cần với chàng Kim thế mà giờ đây nàng tự nhận mình là người phụ bạc, không đổ lỗi cho hoàn cảnh mà tự nhận hết trách nhiệm về mình. Nàng đâu còn nghĩ đến nỗi đau của riêng mình. Tất cả tấm lòng, sự lo lắng lại dành cho hạnh phúc của người mình yêu. Kiều thương chàng Kim hơn chính bản thân mình.
Ngòi bút tài tình của Nguyễn Du đã thể hiện xuất sắc những diến biến phức tạp của nhân vật. Với hệ thống ngôn từ được sử dụng một cách điêu luyện và độc đáo, Nguyễn Du chính là một bậc thầy về ngôn ngữ.
Tác phẩm đã làm rung động biết bao trái tim người đọc từ hàng thế hệ nay. Đoạn trích « Trao duyên » đã phác họa thành công bi kịch tình yêu của Thúy Kiều, nhưng ánh lên rực rỡ một nàng Kiều đẹp đẽ, sống động với nhân cách cao cả. Càng hiểu nàng bao nhiêu, ta càng thương nàng bấy nhiêu, cảm phục nàng bấy nhiêu. Bởi vì người ta có thể hi sinh mọi thứ vì tình yêu, còn nàng thì lại hi sinh tình yêu vì chữ hiếu. Điều đó chẳng đáng cảm phục lắm sao.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
6
13
NGUYỄN THỊ THU HẰNG
23/04/2017 21:38:52
Còn nhớ hồi nhỏ tôi được mẹ ru bằng những lời ru buồn, tôi cứ ngủ yên đi, chẳng hiểu đó là những vần điệu nào. Khi tôi lớn lên, giọng mẹ lại dìu dặt bên nôi em nhỏ tôi. Hóa ra mẹ đã ru chúng tôi bằng Truyện Kiều, bằng cái đoạn “buồn trông…”…cùng đôi đoạn sầu thương khác. Rồi đến lượt mình, chính tôi lại ru con , ‘ru’ nhiều lớp học bằng hợp khúc “buồn trông” của thi hào Nguyễn Du:

….Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi…

Lại nhớ thêm những dịp chuyện trò cùng anh bạn ham dốc sức vào ngôn ngữ văn chương. Anh bảo rằng lời thơ Nguyễn Du có ma lực ghê gớm. Tôi không am tường sâu phép tổ chức những con chữ và phối thanh bằng anh. Nhưng thú thật mỗi khi gợi nhắc đoạn thơ đó, đúng là một tổng thể tâm trạng cảm thương buồn nhớ, đợi chờ…ùa đến, xâm chiếm tức thời tim óc tôi, cứ y như của tôi, từ trong tôi bật ra vậy. Cả một khối lời, không ẩn chứa một tích cổ như thường thấy trong thơ xưa. Thử đọc lại và ngẫm thêm:

Buồn trông cửa bể chiều hôm

Sáu chữ thôi chẳng có tu từ gì cả, mà câu mở đoạn đã mở ra một tâm trạng thấm buồn (buồn trông), một không gian gợi buồn (cửabể) một thời gian đượm buồn (chiều hôm) của người đang lẻ loi, ngóng đợi. Bạn tôi gật gù tâm đắc: đọc kỹ mà xem, cả đoạn thơ chỉ gồm bốn cặp lục bát mà sao chất chứa lắm từ láy đến thế: thấp thoáng, xa xa, man mác, dầu dầu, xanh xanh, ầm ầm. Những con chữ láy lại làm ý tưởng trầm xuống, tỏa lan ra, nhập vào hồn mình.

Tôi nhẩm lại, quả thật những từ láy, những nốt luyến láy ấy cộng hưởng với bốn điệp ngữ “buồn trông” trỗi lên ngay đầu các câu lục , tạo nên một hợp âm dồi dào thanh bằng, thấm thía bao nỗi niềm. Đoạn thơ – cũng như nhiều khúc tiêu tao – chiếm lĩnh người đọc trước hết bằng thanh âm, bằng nhạc điệu. Những sóng âm huyền diệu đó chở các hình ảnh thơ đến thẳng lòng người. Vương trong mắt người con gái bán mình đang buồn trông, mọi hình ảnh vừa nổi chìm, trôi dạt (con thuyền, cánh buồm, ngọn nước sa,hoa trôi theo dòng chảy…) , vừa có gì như mù mịt, nhạt nhà (nội cỏ dầu dầu, chân mây mặt đất một màu…). Đây là hình ảnh thật hay, hình ảnh tưởng tượng, huyễn hoặc trong tâm trạng cô thiếu nữ đáng thương. Có thể cả hai. Lúc này, Kiều lần đầu xa nhà ,bị khóa trong lầu Ngưng Bích của Tú Bà. Nàng tuy phải thất thân cùng họ Mã nhưng cũng chưa dấn mình vào đời mưa gió ê chề. Phải chăng vì thế hình ảnh đầu tiên “thuyền ai thấp thoáng …” ẩn chứa thấp thoáng tia hy vọng. Nhưng rồi “chân mây mặt đất” mênh mang xóa đi tầm ngóng trông và lắng đọng lại nỗi buồn thất vọng. Cuối cùng â mthanh ghê người của tiếng sóng ầm ầm làm nổi lên nỗi sợ hãi như bắt Kiều nhận những thứ hữu hình: số phận, định mệnh khắc nghiệt! Nhưng dẫu sao đó mới chỉ là linh cảm về một sự đe dọa cuốn vùi cho nên buồn lo hãi hùng mà chưa đau đớn. Phải đến khi “bướm chán ong chường” trong cảnh “mưa dập gió dìu” chốn lầu xanh, Kiều mới thật thấm nỗi đau tê tái, sỉ nhục. Khi ấy, Nguyễn Du mới viết:

Ôm lòng đòi đoạn xa gần,
Chẳng vò mà rối, chẳng dần mà đau!

Cũng lúc đó, Kiều mới nghĩ mình “tan tác như hoa giữa đường”. Còn bây giờ, trước lầu Ngưng Bích khóa xuân, thân gái xa nhà chỉ thấy “hoa trôi man mác”. Cánh hoa thân phận Kiều nhi đang trôi theo dòng đời chẳng biết điểm dừng.

Trong không gian nghiệt ngã cầm hãm, con người lỡ bước luôn cố vọng trông, tìm ra không gian mơ ước. “Những con người thoát li của Truyện Kiều” – Tạp chí Ngôn ngữ số 3.1991. Từ trong cái “phòng giam” chật chội của mụ trùm nhà chứa, nàng Kiều hướng tới quê nhà, hướng tới một lối thoát. Nhưng ác thay, nàng chỉ đón nhận thêm lo buồn. Làm sao có đường thoát khi “ sóng gió” vây bủa bốn bên. Lạ lùng và ghê ghớm chưa, ‘tiếng sóng’ không chỉ ầm ầm một phía, “tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”!
Đúng như một ý kiến thẩm định rằng đọc Kiều, có thể mỗi sự kiện, mỗi tâm trạng là một câu , thì về phương diện ngữ pháp, mỗi câu ấy đều được kết thúc bằng một chấm than…Những dấu chấm than ấy, một mặt là những trùng điệp da diết của nhà thơ, mặt khác luôn mang thêm ý nghĩa mới. Nhận xét này rất hợp với đoạn “buồn trông” . Kết đoạn , đúng là một dấu than lớn. Và tôi muốn bổ sung thêm, trong mạch thơ ngổn ngang tâm trạng Kiều, không chỉ khép lại bằng dấu than mà còn ngầm trồi lên những dấu chấm hỏi, những câu hỏi:

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn bã xót xa và thắc thỏm lo sợ, đó là hai mạch chính của nỗi niềm buồn trông.

Với gam màu lạnh, nhà thơ – họa sĩ Nguyễn Du đã vẽ và treo liên tiếp bốn bức tứ bình liên hoàn tâm trạng (cứ mỗi cặp lục bát một bức họa) : từ mong đợi đến băn khoăn, day dứt, tiếp tới chán nản, thất vọng và cuối cùng là bàng hoàng ghê sợ.

Đồng thời, dùng giai điệu trầm, nhà thơ – nhạc sĩ Nguyễn Du đã tấu lên tiếng tơ lòng nhân vật. Cho đến từng âm tiết cũng rung động nỗi buồn. Kết đoạn thơ, hòa tấu, phức điệu sóng biển – sóng lòng – sóng đời không chỉ vang lên tiếng gõ cửa của định mệnh mà rung chuyển tiếng gầm gào của hiểm họa muốn hất tung người con gái đơn côi yếu đuối trên điểm tựa chiếc ghế đời mỏng manh, chông chênh.

Người đối thoại với tôi bỗng như giật mình trước cái tiếng sóng ầm ầm ấy:

- Này, anh còn nghe thấy chứ, tiếng trống ngực Thúy Kiều dồn dập qua mấy chữ xô đẩy mạnh mẽ : “Gió cuốn - ầm ầm tiếng sóng?”. Trước đó, anh có cảm thấy tiếng thở dài của nàng qua năm thanh bằng ; “dầu dầu – màu xanh xanh” nối tiếp? Và thoạt đầu, anh có nhìn thấy cái nhướng mắt của người trông qua ba thanh trắc “thấp thoáng cánh…” đó không?
Tôi lặng đi mien man trong thế giới huyền vi của cõi thơ. Tâm trí tôi không còn tách bạch rạch ròi chỗ nào là hoa, là hình ảnh, chỗ nào là nhạc, là thanh âm, đâu thể hiện tâm tư chủ thể trữ tình ,đâu bộc lộ nỗi lòng đối tượng trữ tình và đâu mối đồng điệu của người tiếp nhận đã tinh. Bất giác, như một linh ứng màu nhiệm, những vần ca dao ùa đến.

...Buồn trông con nhện giăng tơ,
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai.
Buồn trông chênh chếch sao mai,
Sao ơi, sao hỡi,nhớ ai sao mờ.

Nhân vật trong Truyện Kiều nhiều lần buồn trông (Kim Trọng cũng đã từng : “Buồn trông phong cảnh quê người – Đầu cành quyên nhặt, cuối trời nhạn thưa…”). Nhân vật của ca dao cũng nhiều lần buồn trông. Phải chăng điệp khúc “buồn trông” của Tố Như âm vang nét điển hình của tâm trạng con người trong quá khứ. Mà có lẽ không chỉ vậy, con người ngày nay, và cả mai sau. “Mai sau dù có bao giờ” …vẫn cứ còn trải lòng mình trên khúc nhạc buồn trông…
0
2
Trần Thị Huyền Trang
24/04/2017 08:24:18
Có thể nói, tám câu thơ cuối được xem như là kiểu mẫu của lối thơ tả cảnh ngụ tình trong văn chương cổ điển ( lấy cảnh sắc thiên nhiên để gửi gắm tâm trạng, cảm xúc). Để diễn tả tâm trạng cô đơn buồn tủi, tuyệt vọng của Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc ” tình trong cảnh ấy cảnh trong tình này” là thực cảnh cũng là tâm cảnh. Mỗi cảnh gợi ra một nỗi buồn khác nhau, để rồi tình buồn tác động đến cảnh buồn khiến cảnh mỗi lúc lại buồn hơn, nỗi buồn càng trở nên ghê gớm mãnh liệt. Đúng như Nguyễn Du từng viết:

” Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Những dòng thơ sinh động, dưới cái tài miểu tả nội dung nhân vật của tác giả làm hiện lên một bức tranh vừa gợi tả cảnh thiên nhiên vừa gợi nỗi lòng của nàng Kiều. Một mình bơ vơ, chơ chọi giữa không gian mênh mông, nỗi nhớ nhà quê hương bỗng trỗi dậy trong lòng Kiều.

” Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng, cánh buồm xa xa”

Cửa bể là không gian biển khơi mênh mang,rợn ngợp vô cùng, đặt trong thời gian chiều tà, gợi nỗi buòn vắng da diết. Câu thơ của Nguyễn Du khiến người đọc nghĩ tới hình ảnh người con gái lấy chồng xa quê nhìn về quê  vào mỗi chiều tà trong câu ca dao:

Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Nhớ về quê mẹ ruột đau chín chiều.

Trong thơ, cảnh chiều hôm giữa không gian bao la ấy có một cánh buồm lẻ loi, lạc lõng lúc ẩn lúc hiện ” thấp thoáng”  đã gợi lên cho ta sự lưu lạc tha hương cùng với nỗi buồn da diết về cha mẹ của đứa con nơi ” đất khách quê người”, câu thơ từ từ ngân lên như một niềm khao khát , hoài bão, ngóng trông, nhưng hiện tại, nơi gác bể chân trời, Kiều vẫn lẻ loi một mình đối đầu với sóng gió cuộc đời, rồi thân phận kiều sẽ lênh đênh, trôi dạt về phương trời nào?

Tâm trạng sợ hãi, lo lắng của Kiều giữa biển trời vô định khiến người đọc phải xót thương, nơi xa kia Kiều nhìn thấy cánh hoa trôi và nghĩ đến thân phận mình:

” Buồn trông ngọn nước mới sa”
Hoa trời man mác biết là về đâu”

“Ngọn nước mới sa” chứa đựng một sức mạnh của tự  nhiên có thể vùi dập, cuốn trôi, hủy diệt những gì nhỏ bé. Giờ đây, không gian không chỉ mênh mông rợn ngợp mà nó còn mạnh mẽ dữ dội, hình ảnh hoa lìa cội, lìa cành nổi trôi trên sóng nước bị dập vùi cũng chính là cuộc đời Kiều trôi nổi giữa dòng đời, Kiều bất lực và mặc thác cho số phận xô đẩy. Đau xót thay khi Kiều giờ đây như một con chim lạc bầy đang bay trong giông tố.

Đọc hai câu thơ tiếp theo, tâm trạng sợ hãi, lo lắng của Kiều đã nâng lên thành tâm trạng tuyệt vọng, bế tắc khi Kiều còn nhìn thấy ngon cỏ rầu rầu:

” Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”

Cảnh khá ấn tượng không phải là ” cỏ nên xanh tận chân trời” của ngày xuân đầy sức sống mà là “nội cỏ rầu rầu” héo úa, tàn lụi, chết chóc càng làm cho Thúy Kiều thêm chán ngán, vô vọng. Màu ” xanh xanh” làm cho cả cổ cây không còn tươi tắn, cảnh vật thêm ảm đạm, như màu cỏ trên mộ Đảm Tiên”

” Sè sè nấm đất bên đường
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”

Hai câu thơ cuối có thể coi là bút pháp tả cảnh ngụ tình đạt đến đỉnh điểm. Sóng gió âm thanh dữ dội duy nhất xuất hiện gắn liền với sự mạnh mẽ tượng trưng cho sức mạnh phong kiến rình rập bủa vây cuộc đời Thúy Kiều.

” Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Chiều đã muộn, cảnh không còn hiện rõ nữa, âm thanh dội lên mạnh hơn. Kiều nhìn thấy ” gió cuốn” từng đợt sóng trào dâng, nghe ” sóng kêu” vang dội bỗng thấy kinh hãi, lo sợ đến hãi hùng, Kiều chơi vơi như rơi vào vực thẳm một cách bất lực, và cũng chính lúc này, Kiều trở nên tuyệt vọng yếu đuối nhất. Vì thế nàng đã mắc lừa Sở Khanh, để rồi dấn thân vào cuộc đời ” thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”

Không chỉ vậy, bốn câu lục bát được liên kết bằng điệp ngữ ” buồn trông” gợi nỗi buồn điệp trùng, triền miên, tạo âm hưởng của một bản nhạc buồn với điệp khúc tâm trạng. ” Buồn trông” ở đây là buồn mà nhìn xa trông ngóng một cái gì mơ hồ sẽ thay đổi hiện tại nhưng càng trông càng vô vọng.

Điệp ngữ ” buồn trông” kết hợp với nhiều từ láy ” thấp thoáng” , ” xa xa” ” man mác” “rầu rầu” ” xanh xanh” ” ầm ầm” đứng ở cuối câu tạo nên nhịp điệu trầm và đã diễn tả sâu sắc tâm trạng đau thương, buồn thảm của Kiều. Đồng thời với hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thành từ tĩnh đến động và tâm trạng từ tuyệt vọng cô đơn đến lo lắng, hoang mang.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư