LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của nhân vật người vợ nhặt và bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân

3 trả lời
Hỏi chi tiết
2.336
2
1
nguyễn văn A
18/03/2018 19:58:01
Truyện ngắn " Vợ nhặt" của Kim Lân được sáng tác sau cách mạng tháng Tám nhưng lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945. Đặt trong bối cảnh ra đời của tác phẩm, nhà văn đã làm toát lên tấm long yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và khát vọng hạnh phúc của những người người khổ. Vẻ đẹp nhân bản ấy được tác giả xây dựng thành công ở hình tượng nhân vật "bà cụ Tứ" - mẹ anh Tràng - người "nhặt vợ".

Bà cụ Tứ trước hết là người mẹ nghèo khổ đã già yếu với cái lưng "long khòng", khẽ mắt "lèm nhèm ","khuôn mặt bủng beo, u ám ". Những hành động cử chỉ của cụ "nhấp nháy hai con mắt","chậm chạp hỏi", "lập cập bước đi", "lật đật:, "lễ mễ" cũng thể hiện cụ là một người đã già, không còn khỏe mạnh. Hơn nữa người phụ nữ ấy còn bị đặt trong hoàn cảnh nghèo nàn, đói khổ mà cụ nói " cuộc đời cực khổ dài đằng đẵng".

Trong tác phẩm, bà cụ Tứ chỉ xuất hiện ở giữa truyện khi anh Tràng đưa vợ về nhà, nhưng nhân vật này vẫn thu hút được sự quan tâm của người đọc bởi những vẻ đẹp tâm hồn, tính cách.

Trong người mẹ già nua, đói khổ ấy có một tình yêu thương dành cho con cái sâu sắc. Cụ thương người con trai của mình "cảm thấy ai oán xót thương cho số phận đứa con mình". Trong kẽ mắt kèm nhàm của cụ rỉ ra hai dòng nước mắt. Cụ đã sớm lo lắng cho cuộc sống tương lai của đứa con mình" không biết chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua cơn đói này không". Bà còn dành tình yêu thương cho người con dâu mới của mình. Bà nhìn thị nghĩ :"Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này người ta mới lấy con mình, con mình mới có vợ được". Đó là tấm lòng người mẹ không khinh rẻ mà tỏ ra thông cảm thấu hiểu hoàn cảnh con dâu, thậm chí bà còn cho đó là may mắn của con trai mình, gia đình mình khi có con dâu mới. Điều đo chứng tỏ bà cụ Tứ rất hiểu mình, hiểu người. Tình yêu thương còn thể hiên qua những lời nói của bà cụ dành cho con "Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?…". Bà nói với con dâu bằng lời của một người từng trải – vừa lo lắng, vừa thương xót, đồng thời động viên con bằng triết lý dân gian"ai giàu ba họ ai khó ba đời, hướng con tới tương lai tươi sáng. "… Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…". Câu nói thể hiện tấm long thương xót cho số phận của những đứa con. Và để ngày vui của các con thêm trọn vẹn, sáng hôm sau cụ" xăm xắn quét tước nhà cửa". Hành động giản dị thôi nhưng thể hiện tấm lòng người mẹ tuy nghèo nhưng hết lòng thương yêu con. Và thế là đám cưới không nghi lễ, không đón đưa của đôi vợ chồng trẻ được chan đầy bằng tình yêu thương và tấm long lo lắng của người mẹ nghèo.

Nhân vật bà cụ Tứ bị đặt trong hoàn cảnh éo le, qua đó ta thấy được tinh thần lạc quan của người mẹ già yếu, tuy sắp đến độ gần đất xa trời nhưng luôn hướng về tương lai thể hiện qua những hành động và lời nói. Cụ tin vào triết lý dân gian: ai giàu ba họ ai khó ba đời- lạc quan về một ngày mai tươi sáng.Cụ đồng tình khi thấy Tràng thắp đèn mặc dù cụ biết lúc đó dầu rất đắt, dầu là thứ xa xỉ. Nếu để ý ta sẽ thấy chính bà lão "gần đất xa trời"này lại là người nói về tương lai nhiều nhất" cụ nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Đó không đơn thuần chỉ là niềm lạc quan của người lao động mà còn là ước mơ về cuộc sống có phần tươi sáng hơn cho các con. Bà cụ trông cũng" tươi tỉnh khác hẳn ngày thường". Chính tâm trạng vui tươi phấn khởi của người mẹ già đã làm sáng lên cái không gian u ám và góp phần vào ngày vui trọng đại của cuộc đời người con trai. Sáng hôm sau cụ xăm xắn quét dọn nhà cửa, đó là những công việc sinh hoạt thường ngày nhưng đặt trong hoàn cảnh này, hành động quét dọn làm nhà cửa trông sạch sẽ, tinh tươm hơn giống như cụ đang muốn tự tay quét đi những tăm tối của ngày cũ và đón chờ những điều tươi sáng hơn. Và hình ảnh người mẹ già, cười đon đả: "Cám đây mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà chả có cám mà ăn đấy", cứ quẩn quanh, ám ảnh tâm chí người đọc. Cái lạc quan không những không bị mất đi mà lại càng trở nên mãnh liệt hơn trong mưa nắng cuộc đời. Trong buổi sáng đầu tiên đón tiếp nang dâu mới, nồi cháo cám " chát xít, nghẹn bứ trong miệng" mà ngon ngọt trong long, ngọt bởi tâm lòng người mẹ nghèo đang cố xua đi cái không khí ảm đạm bằng thái độ lạc quan và sự tươi tỉnh động viên con cố gắng vượt qua hoàn cảnh. Nhưng sự thật là vị đắng ngắt của cháo cám và tiếng thúc thuế từ xa vọng lại đã không làm niềm vui nhỏ của những con người nghèo khổ cất cánh lên được.

Bằng tài năng và tấm lòng đồng cảm sâu sắc, Kim Lân đã dựng lên "hình ảnh chân thật và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong trận đói khủng khiếp năm 1945". Nhân vật bà cụ Tứ được khắc họa chủ yếu qua sự vận động trong nội tâm nhân vật. Ngoài ra, qua những lời nói, cử chủ, hành động của nhân vật ta cũng có thể cảm nhận được tấm lòng yêu thương con sâu sắc. Ở bà cụ Tứ thấp thoáng hình ảnh của nhân vật lão Hạc, của mẹ Dần, vợ chồng Dần ( Nam Cao) những người nông dân nghèo nhưng chỉ sống vì con, hết lòng yêu thương con. Dẫu chỉ là một nhân vật phụ nhưng bằng tài năng, và tình cảm thiết tha trừu mến đối với tấm lòng người mẹ nghèo, Kim Lân đã khắc họa được chân dung nhân vật vừa sinh động, chân thực, vừa cảm động, day dứt với người đọc. Chính những hành động, lời nói của cụ, nụ cười trên khuôn mặt bủng beo u ám đã làm sáng bừng thiên truyện sau cái tối tăm, cái bế tắc của đói nghèo. Ý nghĩa nhân bản mà nhà văn muốn gửi gắm qua nhân vật này là con người dù có đặt vào hoàn cảnh khốn cùng, cận kề cái chết nhưng vẫn không mất đi những giá trị tinh thần và phẩm chất tốt đẹp: lòng yêu thương con người và thái độ lạc quan hi vọng vào tương lai tươi sáng dù cho chỉ có một tia hi vọng mỏng manh. Kim Lân đã khám phá và thể hiện thành công điều đó ở nhân vật bà cụ Tứ.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
2
0
mỹ hoa
18/03/2018 19:58:33
Từ thuở văn chương mang đến những giọt nước mắt rớt rơi vào tâm hồn mỗi con người thì cũng là lúc trái tim ta biết rung động. Nếu như đọc Vợ nhặt của Kim Lân, ta không quên được hình ảnh bà cụ Tứ lặng lẽ khóc thầm trong bóng đêm- thì dưới ngòi bút Nguyễn Minh Châu, người đàn bà khốn khổ trong Chiếc thuyền ngoài xa lại làm lòng ta quặn thắt khi vội lau dòng nước mắt để cất bước theo chồng tất tả cuộc mưu sinh. Mỗi nhà văn, với thiên chức của mình đã điểm thêm cho văn học Việt Nam những dòng nước mắt lấp lánh, chứa chan biết bao yêu thương và trân trọng.
Dưới ngòi bút nhẹ nhàng, tinh tế của mình, Kim Lân đã rất thành công khi ba lần miêu tả dòng nước mắt của bà cụ Tứ. Bà cụ Tứ - cũng như bao người mẹ nghèo ở chốn thôn quê ngày ấy-luôn mơ đến ngày được "dựng vợ gả chồng cho con". Nhưng éo le thay, ước mong giản dị đó lại đến với bà trong một buổi chiều " tối sầm lại vì đói khát" . Khi mà ranh giới giữa sự sống và cái chết quá mong manh, Tràng dẫn về nhà một người vợ, khi gia đình Tràng đang đói quay đói quắt và mỗi sáng, người ta đã quá quen với những cái thây " nằm còng queo bên đường"... Liệu bà cụ Tứ có chấp thuận mối nhân duyên này không? Sau giây lát ngạc nhiên đến ngỡ ngàng , bà lão "cúi đầu nín lặng" , Tràng, người "vợ nhặt" và cả độc giả nữa dường như cũng nín lặng đi vì hồi hộp. Chợt, " trong kẻ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt". Dòng nước mắt rỉ ra hiếm hoi trên gương mặt già nua của một người dường như đã cạn khô nước mắt. Bà không chỉ hiểu, mà còn thấy được những tháng ngày khổ cực, lam lũ sắp tới khi gia đình có thêm một miệng ăn. Tâm trạng bà đan xen vui mừng, buồn tủi với thương lo. Vui mừng vì con mình giờ đây đã có vợ. Nhưng nghĩ đến cảnh nhà quá nghèo, bổn phận mình là mẹ mà không lo được gì cho các con khiến niềm vui của bà không sao cất cánh lên được. Và cuối cùng, như bao người mẹ Việt Nam hiền lành, nhân hậu, bà cụ đồng ý tác hợp cho đôi vợ chồng trẻ :" thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng" Lòng ta bỗng nhẹ lại, vui lây niềm vui của Tràng. Giữa những năm "đói mòn đói mỏi" ấy, tình người chợt vụt sáng trên nền trời ảm đạm. Bao nhiêu khó khăn, vất vả dần tan biến, đọng lại bấy giờ chỉ còn là tình thương.
Nhưng vẫn còn đó hiện thực cuộc sống khắc nghiệt ,chỉ chực dồn ép con người ta đến chân tường. Nước mắt bà lão lại cứ "chảy xuống ròng ròng". Bà cũng không buồn lau. Nghĩ về cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình và tương lai của các con, bà vẫn lo lắng không nguôi: " Năm nay thì đói to đấy, chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá". Nhưng buổi sáng sau đêm" tân hôn" của các con, bà lão "nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên". Bà nhanh nhẹn, xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa. Ta thấy trong bà dường như có một sự thay đổi theo hướng tích cực: bà toàn nói chuyện vui, chuyện sung sướng sau này. Bức tranh ngày đói dường như được tô sáng lên trong ánh nắng mùa hè và trong niềm vui của mỗi người. Nhưng nồi cháo cám đắng chát đã kéo con người quay về thực tại. Vẫn còn đó tiếng trống thúc thuế dồn dập, đàn quạ vẫn bay từng đám trên nền trời như những đám mây che lấp ánh sáng của niềm tin và của hi vọng. Bà cụ Tứ lại rơi nước mắt, nhưng không dám để mọi người nhìn thấy bà khóc. Đúng là trên gương mặt của người mẹ nghèo khổ thì giọt nước mắt lăn giữa nụ cười. Và do đó, với truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã hòa dòng nước mắt của bà cụ Tứ cùng với những khốn khổ của đồng bào ta trong nạn đói năm Ất Dậu thành dòng chảy đau thương của lịch sử.
Tạm biệt nhà văn của chốn thôn quê, đồng ruộng, ta đến với "người mở đường tinh anh và tài năng" Nguyễn Minh Châu ,để lần nữa thấy được nét đẹp tâm hồn ẩn lấp sau giọt nước mắt của những người phụ nữ Việt Nam.
Đọc Chiếc thuyền ngoài xa, nhân vật người đàn bà hàng chài gây ấn tượng bởi một thân hình rắn chắc, thô kệch; bởi một sức chịu đựng, nhẫn nhục phi thường. Hằng ngày, những trận đòn roi tới tấp từ người chồng vũ phu vẫn không làm chị hé môi lấy nửa lời. Ta tưởng chừng con người ấy cũng trơ lì như sỏi đá và chắc sẽ chẳng có điều gì có thể chạm đến trái tim của chị. Nhưng không, chị là người phụ nữ giàu lòng bao dung và thương con rất mực. Chị hiểu người chồng thay đổi tâm tính vì anh là nạn nhân của hoàn cảnh, chị thương con bằng một tình thương lớn lao, cao cả. Chị cũng là một người phụ nữ, chị cũng yếu đuối nhưng phải kìm nén nỗi lòng để sống vì các con. Và khi giọt nước mắt của người đàn bà mạnh mẽ ấy rơi xuống thì những lớp vỏ chai sần của cuộc đời cũng không sao ngăn được con người nội tâm trong chị tỉnh giấc. Là khi chị nhận ra bao nhiêu cố gắng, nỗ lực của chị vẫn không thể cứu vớt một gia đình tan vỡ;Là lúc những luân lí đạo đức bị con mình dẫm đạp ; Là khi bất lực nhìn đứa con mình yêu thương nhất đi vào con đường sai trái chỉ bởi nó muốn giải thoát cho mẹ. Nhưng rồi con người bản năng không cho phép chị mềm yếu, chị vội vàng chạy theo chồng mình như vội đuổi theo cuộc sống mưu sinh của hiện thực lạnh lùng, tàn khốc. Lần thứ hai ở tòa án huyện, chị lại khóc khi Phùng nhắc về cậu bé Phác mặc dù chị luôn cố không để lộ ra ngoài. Với chị những đứa con là niềm hạnh phúc, là lí do chị cố gắng nhịn nhục, cam chịu và tồn tại trên cõi đời này. Nhưng cũng chính chúng đã mang lại niềm đau đớn tột cùng, chạm sâu vào tâm hồn yếu ớt của chị để những giọt lệ chị rỏ ra đầy chua xót. Đó chính là bi bịch không lối thoát trong cuộc đời của những người phụ nữ miền biển như chị.
Qua hai tác phẩm, có thể thấy những giọt nước mắt trong văn chương là những giọt nước mắt được chưng cất từ nỗi đời đau khổ. Vì thế nó chứa đựng giá trị hiện thực bén nhọn nhưng cũng thấm đẫm giá trị nhân đạo sâu sắc. Nếu như Kim Lân phê phán xã hội phong kiến và bọn phát xít đã bóp nghẹt khác khao sống của những người dân quê hiền lành, lương thiện- thì Nguyễn Minh Châu phản ánh những mặt trái của cách mạng khi người dân bị miếng cơm manh áo ghì sát đất; đồng thời cũng qua tác phẩm ,nhà văn rung lên hồi chuông báo động về thực trạng bạo hành gia đình và những vấn đề luân lí, đạo đức có nguy cơ bị băng hoài, mai một. Nếu Vợ nhặt là bài ca về tình người, tình đời trong những năm đói kém thì Chiếc thuyền ngoài xa là bức tranh thấp thoáng ánh hồng mà nhà văn dành tất cả sự yêu thương, trân trọng cho nhân vật của mình. Nhà văn Kim Lân đã khắc họa thành công các chi tiết một cách trực tiếp mà tự nhiên, tinh tế. Còn với Nguyễn Minh Châu, chi tiết được tác giả miêu tả khách quan, chân thực nhưng rất giàu tính thẩm mĩ. Nam Cao nói" chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn" quả rất đúng với chi tiết giọt nước mắt trong hai tác phẩm.
3
0
Trịnh Quang Đức
18/03/2018 20:09:38
Có một lí do khiến người đọc “rất mệt” khi đọc các tác phẩm của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Kim Lân… bởi họ viết hay quá, cuốn quá, đời quá và “gắt” quá. Mỗi khi đọc một trang văn, ta lại như sống cùng nhân vật, cùng nhân vật đi qua những niềm vui, niềm hạnh phúc và cả nỗi đau đáu, bi ai. Đọc truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân, nhân vật bà cụ Tứ hiện lên như một điển hình về người đàn bà tuy sống trong cảnh nghèo khổ đến cùng cực nhưng có tình yêu thương con vô bờ bến.
Kim Lân Kim Lân (sinh 1 tháng 8 năm 1920 – mất 20 tháng 7 năm 2007), tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Văn Kim Lân mang đậm dấu ấn cá nhân. Kim Lân đặc biệt thành công trong việc tái hiện không khí tiêu điều, ảm đạm của nông thôn Việt Nam và cuộc sống lam lũ, vất vả của người nông dân thời kỳ đó. Các tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân gồm có “Nên vợ nên chồng” (1955), “Làng” (1948), “Vợ nhặt” (in trong tập truyện ngắn “Con chó xấu xí” năm 1962)…
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân lấy bối cảnh là nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nói về tác phẩm, Kim Lân viết: "Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người." Nhân vật bà cụ Tứ chính là điển hình cho “những con người ấy”.
Trước hết, nhân vật bà cụ Tứ hiện lên là một người phụ nữ tuy nghèo hèn, tuy lớn tuổi vẫn phải nhọc nhằn suy tính mưu sinh. Ta nhận biết được điều này thông qua một vài chi tiết rất nhỏ: “Từ ngoài rặng tre, bà lọng khọng đi vào. Tính bà vẫn thế, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng…”. Từ “lọng khọng” khiến người đọc có cảm giác như một bà lão dáng dấp nhỏ bé, không còn nhanh nhẹn, bước từng bước chậm chạp, nhọc nhằn đang bước ra từ bóng tối mịt mùng. Giữa không gian xóm ngụ cư tồi tàn, con người “tối sầm” vì đói khát, không khí “vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người chết đói” cộng hưởng với cái “lầm bầm tính toán” khiến ta rợn người. Có thể tính toán gì nữa đây trong cái cảnh “không còn gì để mất” này? Do đó, bà cụ Tứ bước tới mang theo cả “bầu trời” thê lương đến não lòng.
Tiếp theo, Kim Lân còn xây dựng lên nhân vật bà cụ Tứ giàu tình thương, đức hi sinh, luôn mong muốn có một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn. Bà cụ Tứ là người mẹ luôn biết thấu hiểu cho đưa con trai – cu Tràng, hết lòng mong cho con được hạnh phúc. Điều này thể hiện rõ qua diễn biến tâm lí của bà cụ Tứ trong suốt câu chuyện. Lúc đầu, thấy anh Tràng dắt về một người đàn bà lại, cụ Tứ “đứng sững lại”, “ngạc nhiên”. Rồi càng ngạc nhiên hơn, khi người đàn bà kia “chào mình bằng u”. Sống quá nửa đời người, chỉ giây lát bà cụ Tứ như dần hiểu ra mọi chuyện, mắt bà nhoèn đi. Một câu hỏi lớn xuất hiện trong đầu bà cụ Tứ: giữa nạn đói khủng khiếp này, ăn còn chẳng đủ làm sao mà nuổi nổi nhau đây? Bà hiểu cả, hiểu khao khát có một mái ấm gia đình của cu Tràng, nhưng hiện thực phũ phàng không cho Tràng có cơ hội có một đám cưới đàng hoàng như bao người. Của hồi môn là vài câu hò với mấy bát bánh đúc, cô vợ là người đàn bà “nhặt” về, thế nhưng, sau những giây phút ngập ngừng suy tính, bà cụ Tứ cũng “mừng lòng” đón nhận. Đó chẳng phải minh chứng cho khao khát hạnh phúc gia đình của bà cụ Tứ đó sao? Bà cụ Tứ không chỉ thương con, mà còn là người giàu lòng nhân ái, thương người cùng cảnh. Bà đón nhận một người đàn bà dưng về dù “không biết có nuôi nổi nhau không”.
Cuối cùng, bà cụ Tứ còn là một người luôn sống lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng. Cảnh buổi sáng hôm sau rực nắng vàng xua tan mọi âm u, chết chóc. Cả gia đình cùng nhau sửa sang ngôi nhà, rọn vườn, quét sân… Trong bữa ăn ngày đói, mâm cháo cám “đắng chát” mừng con dâu mới phơi bày hiện thực “cái đói ngay trước mắt”. Ba con người, ba mảnh đời. Một kẻ ngờ nghệch. Một người rẻ rúng được “nhặt” về. Một bà lão “gần đất xa trời”. Thế nhưng, họ say sưa nói chuyện tương lai. Bà cụ Tứ hào hứng kể những dự tính sắp tới
Như vậy, thông qua nhân vật bà cụ Tứ, Kim Lân đã nói lên khát vọng, ước mơ cao đẹp từ đó bày tỏ lòng trân trọng những phẩm chất tốt đẹp ở con người. Đó cũng chính là biểu hiện của tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn. Một lần nữa, Nam Cao lại thành công trong xây dựng diễn biến tâm lí nhân vật sinh động, chân thực, nói lên phong cách văn chương độc đáo của riêng mình.
Tôi chợt nhớ tới câu nói trong tác phẩm “Cố hương” của Lỗ Tấn: “Trên thế gian này làm gì có đường mòn. Người ta đi mãi thì thành đường thôi…” Cũng đi trên “con đường mòn” phê phán hiện thực, viết về thể tài người nông dân như Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Cống Hoan… nhưng Kim Lân lại có bước đi của riêng mình.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 12 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư