Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Cảm nhận của em về cuộc đời người nghĩa sĩ

3 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
992
2
0
Phương Dung
01/10/2017 16:21:12
Đã hơn một thế kỉ trôi qua tiếng tới thơ Đồ Chiểu vẫn còn vang vọng mãi trong trái tim mỗi người Việt Nam yêu nước. Bởi trong cuộc đời cầm bút của mình, ông đã để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm có giá tri về nội dung lẫn nghệ thuật: Lục Vân Tiên, Văn tế Trương Định, Ngư Tiều y thuật vấn đáp, Thơ Điếu Phan Tòng, Chạy giặc…và đặc biệt không thể nào không kể đến một tác phẩm được Nguyễn Đình Chiểu viết để bày tỏ nỗi thương tiếc đối với những người nông dân nghĩa sĩ dũng cảm chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc thân yêu – “ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”. Tác phẩm đã khắc họa một hình tượng thật đẹp về người nông dân nghĩa sĩ trong buổi đầu chống Pháp.
Nửa cuối thế kỉ XIX là giai đoạn biến động mạnh mẽ của dân tộc ta, được đánh dấu bằng cuộc xâm lược của Thực dân Pháp. Cảnh nước mất nhà tan, muôn dân đau khổ khiến cho bao người phải rơi lệ, bao sĩ phu yêu nước phải cầm bút. Bài “ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” ra đời trong một thời đại như thế. Tác phẩm được viết theo thể loại văn tế – một thể loại thường dùng riêng các tác phẩm văn học thể hiện tấm lòng đối với người đã khuất: Văn tế Trương Quỳnh Như của Phạm Thái, Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du,…Văn tế sử dụng lối văn biền ngẫu, từng vế sóng đôi tạo nên sự nhịp nhàng cân đối gây ấn tượng mạnh mẽ trong lòng người đọc.
Khi đọc “ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” ta không chỉ thấy ở đó tấm lòng cảm phuc kính trọng đối với những người nghĩa sĩ mà còn bắt găp một bức tranh chân thực về cuộc sống, cuộc đời của họ – những người nông dân khoác áo nghĩa binh. Mở đầu bài văn tế người đọc bắt gặp ở đó hoàn cảnh của cuộc chiến đấu và ý nghĩa cao cả của sự hi sinh:
“ Súng giặc đất rền; Lòng dân trời tỏ
Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận  
nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ”
đứng trước vận nước nguy nan,Thưc dân Pháp giày xéo lên quê hương khiến nhân dân:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất tổ bầy chim dáo dát bay”   ( Chạy giặc)                                                thử hỏi lòng dân ai không oán giận? Đứng trước hoàn cảnh đau thương ấy, không phải ai cũng dũng cảm đứng lên tiêu diệt kẻ thù. Chỉ có những người nông dân vốn yêu chuộng hòa bình, yêu nước họ mới dũng cảm quên mình dấn thân vào cuộc chiến đấu không ngại hi sinh.
Người nông dân Nam Bộ vốn hiền lành chất phác chỉ biết  “ cui cút làm ăn” nhưng vẫn “toan lo nghèo khó”. Riêng từ “ cui cút”  thôi cũng đủ độc giả hiểu được cuộc sống của họ. Họ làm việc một cách chăm chỉ, lặng lẽ nhưng chẳng ai đoái hoài. Cuộc sống của họ vốn “ một nắng hai sương ”, “ bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” để làm ra hạt lúa, củ khoai lo từng bữa ăn. Cái cuộc sống nghèo khổ ấy khiến họ hăng say lao động hơn, không hề biết đến binh đao :
“ Chưa quen cung ngựa, đâu đến trường nhung; chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập sung, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”
Đôi bàn tay họ chay sạn vì cần cù lao động cầm cuốc cầm cày chứ không phải vì cầm súng. Trong tay họ không có vũ khí làm sao mà ra trận đánh giặc được? Họ luôn mong chờ tin tức của triều đình nhưng đã mười tháng rồi nào đâu cũng chẳng thấy: “ Tiếng phong hạc phập phòng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời han trong mưa”. Họ luôn sống trong nỗi phập phòng lo sợ biết tới khi nào: “ Thánh đế ân soi thấu” để họ được nhận “ Một trận mưa nhuần rửa núi sông”. Tuy vẫn người nông dân ấy trong hoàn cảnh đất nước bị xâm lăng Nguyễn Đình Chiểu đã nhìn thấy ở họ một sức sống tiềm tàng,họ mang trong mình dòng máu nóng của lòng căm thù mãnh liệt:
“ Bữa thấy bòng bong che lớp trắng, muốn đến ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ”
“…… mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”
Một hình ảnh so sánh rất gần gũi “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”. Cỏ đối với nhà nông là kẻ thù nguy hiểm bởi nó sẽ đe doạ và cướp đi sự no ấm, sự bội thu mùa màng khiến gia đình họ sẽ nghèo đói hơn.Và Thực dân Pháp cũng vậy, chúng là kẻ thù “ không đội trời chung” bởi chúng cướp ruộng vườn, tàn sát nhân dân ta.
Không chỉ vậy Nguyễn Đình Chiểu còn phát hiện ra một phẩm chất cao quý ở người nông dân bình dị chất phác ấy là ý thức trách nhiệm đối với Tổ quốc, quê hương. Họ sẵn sàng “ làm quân chiêu mộ” không ngại khó khăn nguy hiểm luôn đến với họ bất kì lúc nào. Với lòng yêu nước họ chẳng thèm “ trốn ngược trốn xuôi”, cũng “ chẳng đợi ai đòi ai bắt”. Họ là nghĩa binh nhưng không hề có áo giáp, trên tấm thân ấy chỉ là một manh áo vải – manh áo nâu bạc màu của đất, màu quê hương đậm đà. Họ cũng không có súng, không có khiên, chỉ chiến đấu với lưỡi dao phay, ngọn tầm vong, với “ hoả mai đánh bằng rơm con cúi”. Trong khi đó Thực dân Pháp nào là tàu thiếc, tàu đồng, đạn to, đạn nhỏ. Mặc dù có sự chênh lệch quá lớn về lực lượng, vũ khí nhưng trong hoàn cảnh ấy họ phải “ quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Quả thật trời không phụ lòng người, họ đã giáng đầu bọn thực dân và bè lũ bán nước một đòn chí mạng: đốt nhà thờ, chém rớt đầu quan hai họ, khiến chúng phải run sợ“ mã tà, ma ní hồn kinh”.
Người nghĩa sĩ biết rằng bước vào chiến trường tức là đối diện với tử thần nhưng họ vẫn dấn thân vào với tâm hồn thanh thản. bởi họ đã gác sang một bên chuyện gia đình vợ con trong lòng họ lúc này chỉ có ánh sáng của yêu nước và ý chí của lòng căm thù. Và  ánh sáng ấy đã chỉ lối cho họ dũng cảm chiến đấu để rồi cũng thanh thản hi sinh như “cày xong thửa ruộng”. Họ đã ngã xuống trên chính quê hương của mình. Sự hi sinh của những người nghĩa sĩ ấy khiến cho bao người thân của họ phải đớn đau: mẹ xa con, vợ xa chồng, con xa cha… . Ôi! Còn gì đau đớn hơn: “ Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều, não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”. Họ đã trở thành người anh hùng áo vải kiên trung bất khuất như nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã từng ca ngợi:
“ Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng”  ( Đất nước)
Nguyễn Đình Chiểu đã phát hiện ra phẩm chất cao quý của người nghĩa sĩtiềm ẩn đằng sau manh áo vải, đằng sau cuộc đời vất vả lam lũ ấylà tinh thần chiến đấu không ngại gian khổ, hi sinh vì nhân dân, vì Tổ quốc, họ bổng chốc “ Rũ bùn đứng dậy sáng loà” ( Đất nước – Nguyễn Đinh Thi). Nếu không có một trái tim nhân hậu, một tấm lòng nồng nàn yêu nước thì Nguyễn Đình Chiểu đã không cho chúng ta sống lại những giây phút hào hùng của dân tộc. Những người nghĩa sĩ họ thật sự đã ra đi mãi mãi nhưng sự hi sinh của họ góp phần điểm tô thêm sắc thắm cho sợi chỉ đỏ của lòng yêu nước đã xuyên suốt lịch sử dân tộc ta.
Hình tượng người nông dân nghĩa sĩ làm nên thành công lớn của Nguyễn Đình Chiểu qua bài văn tế. Nguyễn Đình Chiểu không viết về họ bằng những lời thơ trang trọng, ngôn ngữ trau chuốt mà khắc hoạ bằng nét vẽ gần gũi giản dị, chat phác như chính những người nông dân Nam Bộ. “ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” thật sự là một khúc ca bi tráng về hình ảnh của người nông dân nghĩa sĩ anh hùng trong chiến đấu đồng thời là tấm lòng khâm phục cùng sự thương tiếc của nhà thơ đối với họ. Người nông dân nghĩa sĩ ấy gợi lên trong lòng mỗi chúng ta liên tưởng về hình ảnh người nông dân trong thơ ca hiện đại:
“ Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Tôi với anh đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
…………………………………….
Áo anh rách vai
Quần tôi có hai mảnh vá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” ( Đồng chí – Chính Hữu)
Hay ta bắt gặp người nông dân ấy trong bài “ Nhớ” của Hồng Nguyên:
“ Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi “một hai”
Súng bắn chưa quen
………………………………………..
Áo vải chân không
Đi lùng đánh giặc”
Nói tóm lại, với “ Văn tới nghĩa sĩ Cần Giuộc” , Nguyễn Đình Chiểu đã tạc vào thời gian bức tượng đài nghệ thuật ngôn từ hết sức đặc sắc về hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong buổi đầu chống Pháp. Sự thành công ấy một lần nữa đã khẳng định tài năng của Nguyễn Đình Chiểu – ngôi sao sáng trên bầu trời văn học nghệ thuật, một nhà thơ, một nhà văn yêu nước vĩ đại của dân tộc trong thời kì đầu chống Pháp. Qua hình tượng người nông dân nghĩa sĩ, chúng ta càng thêm yêu quý, trân trọng vẻ đẹp của con người Việt Nam – những con người giàu lòng yêu nước sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc Việt Nam thân yêu.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
2
0
Yuo
01/10/2017 16:27:20
Thế kỉ thứ XIX - thời kì đau thương những vĩ đại của dân tộc ta. ở thế kỉ ấy, có một nhà thơ mù nhưng trong lòng luôn sáng như gương.

Người đó nhìn thấu hết được mà bao người mắt sáng không thấy. Người đó chính là nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Trong văn học Việt Nam từ trước cho đến thời kì của Nguyễn Đình Chiểu chưa có một hình tượng người nông dân nào lại chân thực và cảm động hơn nghĩa từ trong 'văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc' của ông. 

Trước Nguyễn Đình Chiểu, con người, người nông dân thường được xuất hiện trong văn chương Việt Nam nhưng đó chỉ là ngư phủ tiều phu với bóng hình thấp thoáng lúc ẩn lúc hiện trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, hay là đám đông lố nhố hàng ngày chỉ là cục đất của khoai khi có dịp thì trở nên là những kiêu binh lỗ mãng trong Hoàng Lê nhất thống chí.
Những người nông dân xuất hhieenj trong tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu lại hoàn toàn khác, họ chỉ là những con người bình thường với những xuất thân bình thường. Trong bối cảnh lịch sử, 
'súng giặc đất rền, lòng dân trởi tỏ, Mười năm công vở ruộng, chưa ắt còn danh nỗi như phao, một trận nghĩa đánh Tây., tuy là mất tiếng vang như mõ.
Cái thời đại đau thương của lịch sử dân tộc với bọn Thực dân tàn bạo nổ súng xâm lược nước ta, khiến nhân dân rơi vào thảm cảnh loạn li đau khổ vì chiến tranh và triều đình nhà Nguyễn bỏ bê chiến sự.
Thì đã có những người nông dân ' dân áp, dân lân', 'ngoài cật có một manh áo vải' bản tính hiền lành chân chất quanh năm suốt tháng côi cút làm ăn, toan lo ngèo khổ. Họ tự nguyện đứng lên 'nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình, chẳn thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc sức ra tay bộ hổ'
Những người nông dân đó khi còn ở bên trong lũy tre làng họ chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ, thành thục với ngề nông trang.
Việc cuốc, việc cày, làm bừa việc cấy tay vốn làm quen. Nhưng khi nghe tin giặc đến thì dù chỉ là dân thường nhưng những người nông dân ấy cũng vô cùng sốt ruột. Trong xã hội xưa, những chuyện quốc gia đại sự trước hết là việc của quan. Dân nghe theo quan mà làm, dân thấy quan làm mà theo.
Nhưng những người nông dân ấy lại căm thù giặc đến cao độ, những người nông dân ghét quân giặc, thói mọi như nhà nông ghét cỏ, họ nhận thấy được mối nguy hại của đất nước, dân tộc và nhất quyết không chịu bán nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Tình yêu đất nước của họ gắn liền với niềm tự hòa truyền thống của dân tộc. Chính vì vậy, họ tự nguyện cầm vũ khí đi đánh giặc. Một sự chuyển biến phi thường của những người nông dân từ người hiền lành, chất phát trưở thành những người có ý thức trách nhiệm và tự nguyện vì đại nghĩa mà đứng lên đánh giặc.
'Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đao kia, gươi đao dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chứm rớt đầu quan hai họ.
Chi ngọc quan quản gióng trống kè trống giục, đạp rào lướt tới coi giặc cũng như không, nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xuống và liều mình như chẳng có.
Kẻ đam ngang người chém ngược, làm cho mã tà, mã ní hồn kinh, bọn hè trước lúc ó sau trồi kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ.
Cuộc đối đầu một mất một còn giữa những người nông dân yêu nước với kẻ thù là một cuộc đối đầu không cân sức.
Họ thất thế ngay từ ban đầu khi tự giác đứng lên không có ai tổ chức, chẳng có binh thư binh pháp còn quân giặc thì được chuẩn bị có quy mô bài bản. Họ thất thế khi xông trận mà chỉ 'ngoài cật có một manh áo vải', 'trong tay cầm ngọn tầm vông, còn kẻ thù thì có táu sắt táu đồng, đạn nhỏ, đạn to.
Song với ý chí căm thù giặc, lòng yêu nước đã khiến những người nông dân trối kệ hết tàu thiếc tàu đồng súng nổ. Bằng ngọn lửa tinh thần , họ liều mình xung trận người đâm ngang, kẻ chém ngược quân thù làm chúng thất điên bát đảo. Họ liên tiếp tấn công và ghi được thắng lợi, mặc dù vũ khí thô sơ những cũng tạo nên được nhịp điệu dứt khoát, sôi nổi hào hùng đầy khí thế của người nông dân Nghĩa si tự tin vào chiến thắng.
Nhưng ai cũng biết cái giá cuối cùng của hành động đó là cái chết và những người nông dân hiểu điều đó hơn ai hết. và rồi, những người nông dân trở thành ' những anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang'.
Hình tượng người nông dân nghĩa sĩ chân thực lần đầu tiên xuất hiện xuyên suốt một tác phẩm trong văn học Việt Nam đã mang hình dáng bi tráng. Nó như một tượng đài sừng sững tạc vào không gian, lấn ào thời gian để nói với muôn đài rằng: 'thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen, thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ'
Sự gắn bó, lóng yêu nước thương cảm phục đã khiến Nguyễn Đình Chiểu ghi tạc vào thwo văn mình hình tượng người nghĩa sĩ Cần Giuộc thật bi tráng. Hình tượng ấy mang sức nặng của một thời đại 'nước mắt anh hùng lau chẳng ráo' và tấm lòng yêu thương bi hiết của nhà mù đất Đồng Nai. Những người anh hùng 'sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc'. còn nhà thơ đã dựng lại bức tượng đài nghìn năm trong ký ức tâm hồn của người đời bằng văn chương.

0
0

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k
Gửi câu hỏi
×