Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Cảm nhận về hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ qua bài thơ Đồng Chí

3 trả lời
Hỏi chi tiết
670
1
0
Camsamita
20/05/2019 22:47:31
Câu 2
Người lính nông dân đã đi vào thơ ca bằng những hình ảnh chân thật và đẹp trong “Nhớ” của Hồng Nguyên, “Cá nước” của Tố Hữu... nhưng tiêu biểu hơn cả là bài “Đồng chí” của Chính Hữu. Bài thơ được sáng tác vào năm 1948 là năm cuộc kháng chiến hết sức gay go, quyết liệt. Trong bài thơ này, tác giả đã tập trung thể hiện mối tình keo sơn gắn bó, ngợi ca tình đồng chí giữa những người lính trong những năm kháng chiến chống Pháp.
Cảm nhận đầu tiên của chúng ta khi đọc bài thơ là hình ảnh người lính hiện lên rất thực, thực như trong cuộc sống còn nhiều vất vả lo toan của họ. Ngỡ như từ cuộc đời thực họ bước thẳng vào trang thơ, trong cái môi trường quen thuộc bình dị thường thấy ở làng quê ta còn đói nghèo lam lũ:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Quê hương xa cách nhau, mỗi người mỗi nơi. Người quê ở miền biển “nước mặn đồng chua”, người ở vùng đồi núi “đất cày lên sỏi đá”. Song dù xa cách nhau, dù khác nhau, nhưng đều là quê hương của lam lũ, vất vả, đói nghèo. Chữ nghĩa bình thường mà như đang cựa quậy khi cuộc sống thực đã ùa vào câu thơ đem đến những cảm nhận sâu sắc về quê hương người lính.
Tuy ở những phương trời khác nhau, “chẳng hẹn quen nhau”, nhưng cùng sống và chiến đấu với nhau trong một đội ngũ, những người lính đã tự nguyện gắn bó với nhau:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Cái rét ở rừng Việt Bắc đã nhiều lần vào trong thơ bộ đội chống Pháp vì đó là một thực tế ai cũng nếm trải trong những năm chinh chiến ấy. Có điều lạ là câu thơ nói đến cái rét gợi cho người đọc một cảm giác ấm cúng của tình đồng đội, nghĩa đồng bào. Câu thơ của Chính Hữu đã diễn tả tình đồng chí thật cụ thể và cô đọng, sự gắn bó giữa những người đồng chí cùng chung nhau chiến đấu “súng bên súng”, cùng chung một lí tưởng “đầu sát bên đầu”. Sự gắn bó mỗi lúc lại càng thêm sâu sắc: Là súng bên súng đến đầu bên đầu, rồi thân thiết hơn nữa là đắp chung chăn, thành tri kỉ.
Đoạn thơ đầu của bài thơ kết thúc bằng hai chữ “Đồng chí” làm sáng tỏ thêm nội dung, ý nghĩa của cả đoạn thơ. Nó giải thích vì sao người lính từ bốn phương trời xa lạ, không hẹn gặp nhau mà bỗng trở thành thân thiết hơn máu thịt. Đó là sự gắn bó giữa những người anh cùng chung một lí tưởng chiến đấu, là sự gắn bó kì diệu, thiêng liêng và mới mẻ của tình đồng chí.
Những người lính, những đồng chí ấy ra đi chiến đấu với tinh thần tự nguyện:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Họ vốn gắn bó sâu nặng với ruộng nương, với căn nhà thân thiết, nhưng cũng sẵn sàng rời bỏ tất cả để ra đi. Nhà thơ đã dùng những hình anh quen thuộc và tiêu biểu của mọi làng quê Việt Nam như biểu tượng của quê hương những người lính nông dân. Giếng nước, gốc đa không chỉ là cảnh vật mà còn là làng quê, là dân làng. Cảnh vật ở đây được nhân cách hoá, như có tâm hồn hướng theo người lính.
Tác giả tả rất thực về cuộc sống của người lính. Nhà thơ không che giấu mà như còn muốn nhấn mạnh để rồi khắc hoạ rõ nét hơn cuộc sống gian lao thiếu thốn của họ. Và phải là người trong cuộc thì mới vẽ lên bức tranh hiện thực sống động về người lính với một sự đồng cảm sâu sắc như vậy:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh.
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Thơ ca kháng chiến khi nói tới gian khổ của người lính thường nói rất nhiều tới cái lạnh, cái rét. Đoạn thơ thứ hai này kết thúc bằng câu “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Một sự cảm thông, chia sẻ vừa chân thành, vừa tha thiết làm sao. Người ta bảo bàn tay biết nói là thế. Hình ảnh kết thúc đoạn thứ hai này cắt nghĩa vì sao người lính có thế vượt qua mọi thiếu thốn, gian khổ, xa quê hương, quần áo rách vá, chân không giày, mùa đông lạnh giá với những cơn sốt rét “run người”... Hơi ấm của tình đồng chí truyền cho nhau đã giúp người lính thắng được tất cả. Hình ảnh kết thúc bài thơ chỉ có ba dòng:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chở giặc tới
Đầu súng trăng treo
Sau những câu thơ tự do đang trải dài “Đêm nay rừng hoang sương muối”... câu kết thúc thu vào trong bốn chữ làm nhịp thơ đột ngột thay đổi, dồn nén, chắc gọn, gây sự chú ý cho người đọc. Hình ảnh kết thúc bài thơ đầy thơ mộng, cái thơ mộng của gian khố, hiểm nguy: một cánh rừng, một màn sương, một vầng trăng với hai ngọn súng, hai con người chờ giặc. “Đầu súng trăng treo” cùng là một câu thơ dồn nén và có sức tạo hình, nó đẹp như một biểu tượng chiến đấu của những người lính giàu phẩm chất tâm hồn. Đó cũng là vẻ đẹp trữ tình mới của thơ ca kháng chiến, kết hợp được súng và trăng mà không khiên cưỡng.
Toàn bài “Đồng chí” từ chi tiết cuộc sống đến cảm giác của tác giả đều rất thật, không một chút tô vẽ đắp điểm, không bình luận, thuyết minh. Bài thơ thiên về khai thác đời sống nội tâm, tình cảm người lính, vẻ đẹp của “Đồng chí” là vẻ đẹp của đời sống tâm hồn người lính mà nơi phát ra vầng ánh sáng lung linh nhất là mối tình đồng đội, đồng chí hoà quyện vào tình giai cấp. Hình ảnh “đầu súng trăng treo” ở cuối bài nâng vẻ đẹp người lính lên đến đỉnh cao khái quát trong đó có sự hài hoà giữa hiện thực và lãng mạn đồng thời mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
Quỳnh Anh Đỗ
21/05/2019 07:30:05
Câu 2:
"Đồng chí" – tác phẩm được coi là "sử thi của một thời gian khổ và oanh liệt". Trong bài thơ này Chính Hữu không chỉ khắc họa thành công tình đồng chí,đồng đội giữa những người lính mà còn dựng lên được bức chân dung sống động về những người lính cụ Hồ kiên cường, bất khuất.
Trước hết, Chính Hữu đã đề cập đến nguồn gốc, xuất thân của những người lính, để từ đó làm sáng lên lí tưởng yêu nước, tinh thần chiến đấu hết mình để bảo vệ tổ quốc.
"Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá".
Những người lính vốn có xuất thân từ những người nông dân nghèo với cuộc sống lam lũ, vất vả nơi "nước mặn đồng chua" .
Cách diễn đạt thành ngữ "nước mặn đồng chua" và "đất cày lên sỏi đá" đã gợi ra hình ảnh của những làng quê nghèo, đất đai cằn cỗi khó cấy trồng, làm ăn,canh tác.
Có lẽ đây chính là điểm tương đồng đầu tiên của những người lính, và đây là cơ sở để những người lính chung sức, đồng lòng vì lí tưởng chung.
“Tôi với anh đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau"
Từ những con người xa lạ, họ đến từ những vùng khác nhau của đất nước, xong chính lí tưởng cứu nước thiêng liêng đã gắn kết họ lại với nhau thành một đội quân cách mạng, cùng nhau chiến đấu. Để từ đó họ trở thành những người động chí, đồng đội:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ"
Những người lính không chỉ có chung những lí tưởng cao đẹp mà họ còn có tình cảm đồng chí đoàn kết, chia sẻ, tương trợ lẫn nhau cả trong chiến đấu cũng như trong điều kiện sinh hoạt thiếu thốn, khắc nghiệt.
Những người lính đã phát huy được những truyền thống quý báu của dân tộc- đó là sự đoàn kết sức mạnh, đó là tình yêu thương gắn bó giữa những người đồng chí, đồng bào. Tình cảm cao đẹp này thật đáng quý biết bao!
Những người lính ra đi với tinh thần khảng khát, quyết tâm cao độ với lí tưởng đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước.Và đối với những người lính, họ ra đi là không xác định ngày về. Họ sẵn sàng chiến đấu, hi sinh dâng hết hết mình cho tổ quốc, non sông.
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà chung mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính"
Hình ảnh "ruộng nương", "gian nhà chung" càng làm nổi bật lên cái tinh thần bất khuất, quật cường của những người lính ấy.
Ra đi thực hiện trách nhiệm với tổ quốc nhưng trong sâu thẳm tâm hồn của mỗi người lính đều mang nặng nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương.
Nói đến điều này, Chính Hữu không phải nhấn mạnh đến tình cảm, nỗi nhớ nhà của những người lính mà để làm nổi bật lên tinh thần quật cường, coi cái chết nhẹ tựa hồng mao, nhấn mạnh đến quyết tâm dâng hiến hết mình cho cuộc chiến đấu gian khổ.
"Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính" câu thơ đã biểu đạt được một cách tinh tế tình cảm yêu nhớ sâu sắc mảnh đất chọn rau của những người lính.
"Giếng nước", “gốc đa" là những hoán dụ chỉ không gian quê nhà thân thuộc, gắn bó. Những người lính mang theo tình yêu mãnh liệt với quê nhà, và đó sẽ là nguồn sức mạnh lớn lao để những người lính ấy thêm mạnh mẽ, quyết tâm.
Trong không khí mưa bom, bão đạn, trong hoàn cảnh sinh hoạt vô cùng khắc nghiệt, thiếu thốn, những người chiến sĩ vẫn không mảy may quan tâm,nản lòng. Họ thể hiện được sự lạc quan và niềm tin mãnh liệt vào tương lai:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá chân không giày"
Những câu thơ trên cho ta thấy tận cùng của cái khắc nghiệt nơi "Rừng thiêng nước độc", những thiếu thốn, cực nhọc trong cuộc sống của những người lính. Đó là những cơn sốt rét vì bị muỗi độc cắn nhưng không có thuốc thang chạy chữa, đó là sự thiếu thốn của cuộc sống sinh hoạt, quân trang không lành lặn “rách vai", "vài mảnh vá", “chân không giày"…
Thiếu thốn là vậy, khó khăn là vậy nhưng những người lính vẫn lạc quan, vui tươi, giọng điệu hóm hỉnh, cười đùa. Cái tinh thần ấy,niềm tin ấy của những người lính đã cho thấy cuộc sống khắc nghiệt không thể cản trở được họ trên con đường thực hiện lí tưởng cách mạng.
Thêm nữa, những người lính truyền cho nhau hơi âm, sức mạnh bằng hành động:
"Thương nhau tay nắm lấy bàn tay"
Hình ảnh "bàn tay nắm lấy bàn tay" thể hiện được tình đồng chí gắn bó, kết đoàn.
Tình đồng chí không chỉ được thể hiện ra trong sinh hoạt, những chia sẻ của cuộc sống thường nhật mà còn biểu hiện mạnh mẽ trong chiến đấu:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu sung trăng treo"
Thời gian "đêm nay", không gian là "rừng hoang" vắng lặng,thời tiết rét buốt đầy sương muối. Sương muối làm tê da như kim châm. Giữa cảnh hoang vu, tịch mịch ấy, tình đồng chí đồng đội vẫn tỏa ra khiến người ta ấm áp."Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới"
Đêm phục kích giữa rừng, bên cạnh có đồng đội người lính còn có một người bạn tâm giao, thân thiết nữa, đó là vầng trăng.
"Đầu súng trăng treo"
Vầng trăng là hình ảnh quen thuộc trong thơ ca nhưng trăng sà xuống treo trên mũi sung lạ là một phát hiện mới mẻ, khám phá bất ngờ của riêng Chính Hữu.
“Đồng chí" của Chính Hữu đã khắc họa sinh động bức chân dung tinh thần của anh bộ đội cụ hồ thời kháng chiến chống Pháp. Họ là những người nông dân mặc áo lính, yêu quê sâu lặng nhưng sẵn sàng bỏ lại sau lưng tất cả để lên đường chiến đấu; trong gian khó vẫn lạc quan, yêu đời, gắn bó với đồng đội. Hình ảnh đó thật đẹp đẽ biết bao!
0
0
(•‿•)
21/05/2019 08:26:10
Chính Hữu thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Vừa cầm sung vừa cầm bút làm thơ, ông đã đóng góp cho nền văn học nước nhà nhiều thi phẩm đặc sắc về chiến tranh và người lính. Một trong số đó phải kể đến “ Đồng chí” – tác phẩm được coi là “ sử thi của một thời gian khổ và oanh liệt”. Trong bài thơ này Chính Hữu không chỉ khắc họa thành công tình đồng chí,đồng đội giữa những người lính mà còn dựng lên được bức chân dung sống động về những người lính cụ Hồ kiên cường, bất khuất.
Trước hết, Chính Hữu đã đề cập đến nguồn gốc, xuất thân của những người lính, để từ đó làm sáng lên lí tưởng yêu nước, tinh thần chiến đấu hết mình để bảo vệ tổ quốc.
“ Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Những người lính vốn có xuất thân từ những người nông dân nghèo với cuộc sống lam lũ, vất vả nơi “ nước mặn đồng chua” .
Cách diễn đạt thành ngữ “ nước mặn đồng chua” và “ đất cày lên sỏi đá” đã gợi ra hình ảnh của những làng quê nghèo, đất đai cằn cỗi khó cấy trồng, làm ăn,canh tác.
Có lẽ đây chính là điểm tương đồng đầu tiên của những người lính, và đây là cơ sở để những người lính chung sức, đồng lòng vì lí tưởng chung.
“Tôi với anh đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Từ những con người xa lạ, họ đến từ những vùng khác nhau của đất nước, xong chính lí tưởng cứu nước thiêng liêng đã gắn kết họ lại với nhau thành một đội quân cách mạng, cùng nhau chiến đấu. Để từ đó họ trở thành những người động chí, đồng đội:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Những người lính không chỉ có chung những lí tưởng cao đẹp mà họ còn có tình cảm đồng chí đoàn kết, chia sẻ, tương trợ lẫn nhau cả trong chiến đấu cũng như trong điều kiện sinh hoạt thiếu thốn, khắc nghiệt.
Những người lính đã phát huy được những truyền thống quý báu của dân tộc- đó là sự đoàn kết sức mạnh, đó là tình yêu thương gắn bó giữa những người đồng chí, đồng bào. Tình cảm cao đẹp này thật đáng quý biết bao!
Những người lính ra đi với tinh thần khảng khát, quyết tâm cao độ với lí tưởng đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước.Và đối với những người lính, họ ra đi là không xác định ngày về. Họ sẵn sàng chiến đấu, hi sinh dâng hết hết mình cho tổ quốc, non sông.
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà chung mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
Hình ảnh “ ruộng nương”, “ gian nhà chung” càng làm nổi bật lên cái tinh thần bất khuất, quật cường của những người lính ấy.
Ra đi thực hiện trách nhiệm với tổ quốc nhưng trong sâu thẳm tâm hồn của mỗi người lính đều mang nặng nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư