bài tham khảo 2
Đoạn văn chị Dậu đánh nhau với cai lệ tiêu biểu cho ngòi bút và phong cách của Ngô Tất Tố.
Tình thế hiểm nguy xuất hiện khi anh Dậu vừa “run rẩy cất bát cháo anh mới kề vào miệng” thì cả lũ tay sai ác ôn đã “sầm sập tiến vào với những roi song, tay thước và dây thừng” (cụm từ láy “sầm sập” có sức diễn tả trạng thái vừa
nặng nề vừa nhanh chóng, vừa đe dọa vừa tiến công). Đã thế, chúng còn được trang bị đầy đủ những thứ vũ khí chuyên dụng cho việc đánh người (roi song, tay thước); cho việc trói người (dây thừng). Nhân vật đại diện cho quyền uy ra oai đầu tiên và hắn cũng là người có quyền hành to nhất ở đấy. Đó là cai lệ.
– Trước hết là nghệ thuật xây dựng nhân vật:
+ Nhân vật cai lệ được miêu tả bằng cách cho hắn lộ rõ bản chất ngay từ đầu, từ điệu bộ, cử chỉ, hành động đến lời nói… Hắn không che giấu bản chất tay sai của mình và sử dụng nó để trấn áp, đe dọa những người dân hiền lành thấp cổ bé họng. Hắn đánh, hắn trói… hắn là con người — công cụ. Ớ con người hắn không có chỗ cho tình người hay nói cách khác hắn đã mất hết tính người. Hắn ra oai bằng cách “gõ đầu roi xuống đất”, bằng cách “thét” với “giọng khàn khàn”. Cách miêu tả ở đây cho thấy sự lố bịch của con người này, bởi vì “gõ xuống đất” thì có dùng sức mạnh bao nhiêu đi chăng nữa, tiếng vang cũng không lớn, nhưng với hắn thì phải “gõ” chứ không thể nào khác được. Cái “giọng khàn khàn” của hắn thì dù có “thét” hay “gào”, “rống” đi chăng nữa thì âm vực cũng không thoát ra khỏi cái “khàn khàn” (hệ quả của việc hắn đã “hút nhiều xái cũ” — sự việc cho thấy địa vị tay sai thấp hèn của hắn) nhưng hắn vẫn “thét”. Sự tác oai tác quái của hắn chưa dừng ở đó. Hắn còn “trợn ngược hai mắt”, “hắn quát”, hắn “hằm hè”, hắn ăn nói cục cằn thô lỗ theo kiểu những tay đầu gấu vô học: “Mày định nói cho cha mày nghe đấy à?”. Đã thế, hắn không chỉ nói mà còn kèm theo hành động: “Vừa nói hắn vừa bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch”, rồi “sấn đến trói anh Dậu”. Hắn hành động như một con thú say mồi: “tát vào mặt chị Dậu một cái bốp, rồi hắn cứ nhảy vào cạnh anh Dậu”. Thậm chí khi bị quật ngã “chỏng quèo” thì hắn “vẫn nham nhảm thét trói vợ chồng kẻ thiếu sưu”. Một đoạn văn ngắn nhưng tràn ngập âm thanh của đe dọa, của khủng bố, của chết chóc, được khắc họa bằng các hình ảnh thính giác, hình ảnh thị giác, làm nổi bật nhân vật cai lệ — một tên tay sai khát máu, một kẻ chuyên ức hiếp người lành. Hắn là hiện thân cho loại người — công cụ, loại nô lệ tuyết đối trung thành với chủ. Chính tính chất nô lệ, công cụ này đã loại bỏ tính người ra khỏi con người hắn.
+ Hình tượng chị Dậu cũng là một thành công của tiểu thuyết Tắt đènnói chung và của đoạn trích Tức nước vỡbờ nói riêng. Chị Dậu được miêu tả theo quá trình phản ứng (đối với cai lệ và bọn tay sai nhà lí trưởng) từ thấp đến cao, từ nhún nhường đến dữ dội, quyết liệt, phù hợp với đặc điểm tâm lí và tính cách nhân vật.
Sự đối lập giữa hai nhân vật chị Dậu V^L cai lệ thể hiện qua sự khác biệt về động cơ hành động. Đối với chị Dậu, mọi phản ứng chống trả đều xuất phát từ tình yêu chồng thương con, đều gắn với con người; còn đối với tên cai lệ, hắn hành động theo bản năng công cụ.
Khi phân trần với cai lệ và đám người nhà lí trưởng, giọng chị Dậu “run run” nhưng không phải là run sợ mà là một cách thế hiện sự mềm mỏng, nhẹ nhàng. Tiếp đó, chị “vẫn thiết tha” van nài (“Xin ông trông lại”), thậm chí khi tên cai lệ chạy “sầm sập tới chỗ anh Dậu” thì sắc của chị biến đối, chị “xám mặt” “chạy đến đỡ tay hắn”. Cách xưng hô cho đến lúc này vẫn là cách xưng hô nhún nhường, vẫn là sự van xin: “Cháu van ông, nhà cháu mới tỉnh được một lúc, ông tha cho”. Nhưng sự van xin đó là vô ích trước một công cụ nô lệ không chút tính người. Tên cai lệ vẫn “sấn đến”. Các động từ chỉ hành động của cai lệ (“giật phắt”, “chạy sầm sập”, “sấn đến”,….) diễn tả sự thô bạo đến cùng cực của hắn. Vì thế, chị Dậu không còn nhún nhường hay phân trần nữa mà chị đấu lí. Quan hệ xưng hô cũng thay đổi: “Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ”. Đến lúc này, tính chất công cụ của tên cai lệ càng lộ rõ hơn bao giờ hết. Và cao trào của xung đột được tái hiện bằng sự chuyển đổi bất ngờ của chị Dậu cả về thái độ lẫn hành động: “Chị Dậu nghiến hai hàm răng: Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!”. Sự chuyển đổi cách xưng hô trong đoạn văn này hết sức thú vị và đầy kịch tính. Ban đầu, chị Dậu hạ mình (gọi cai lệ là ôngxưng cháu, van xin: “cháu van ông”) sau đó đến quan hệ đồng đẳng (tôi – ông) và cuối cùng là hạ thấp triệt để đối thủ (bà – mày). Thái độ của chị Dậu rất quyết liệt và điều đó càng thể hiện rõ qua hành động “túm lấy cổ” cai lệ “ấn dúi ra cửa”. Tên tay sai – công cụ, nô lệ – bị quật ngã.
Cai lệ – công cụ tay sai ở cấp huyện và đồng thời với hắn, tên “người nhà lí trưởng” – tay sai cấp làng – cũng bị đánh gục: “hắn bị chị này túm tóc lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm”. Trong khoảnh khắc, quyền uy của chê độ thuộc địa nửa phong kiến đã bị “người đàn bà lực điền”, “bị chị chồng con mọn” cho đo ván không chỉ bằng sức lực mà còn bằng cả sự thức tỉnh khởi nguồn từ sự uất ức bị dồn nén, chất chứa, sự tủi nhục cực khổ khi phải đứt ruột bán con, bán chó để lo cho đủ một suất SƯU cho chồng. Chị Dậu sẵn sàng chấp nhận điều tồi tệ nhất: “Thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được”.
– Cách miêu tả linh hoạt thông qua sự quan sát tinh tường và sự sắp xếp khéo léo các tình tiết, sự kiện. Các sắp xếp, bố trí chi tiết, sự kiện, hành động dồn dập tạo ra sự căng thẳng, kịch tính. Một bên là những tên đàn ông được trang bị vũ khí đủ để tạo khả năng sát thương và một bên là người đàn bà tay không, chồng ốm, con thơ; một bên là quyền uy thống trị một bên là sự khốn cùng do SƯU cao thuế nặng. Không gian xảy ra sự kiện là khoảng sân trước nhà anh Dậu — một không gian hẹp, không gian dồn đẩy, thời gian diễn ra sự kiện cũng rất ngắn nhưng số nhân vật thì khá nhiều và thuộc hai phía đối kháng nhau. Bao trùm lên đó là âm thanh của trống, của tù và, của không khí ngột ngạt đau khổ trong mùa SƯU thuế.
– Ngôn ngữ của các nhân vật phù hợp với tâm lí, tính cách của từng người. Nhân vật nào thì có kiểu ngôn ngữ đó. Với một nhân vật, ngôn ngữ cũng bộc lộ những thái độ, trạng thái tình cảm khác nhau: cách nói của chị Dậu khi nói với bà lão láng giềng hay với chồng, khác khi nói với tên cai lệ, và khi nói với tên cai lệ cũng có sự thay đổi cách nói, cách dùng từ, cách xưng hô theo diễn biến của câu chuyện.
Vì thế, “Cái đoạn chị Dậu đánh với tên cai lệ là một đoạn tuyệt khéo” (Nguyễn Tuân)
Chứng minh ý kiến của nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan: Cái đoạn chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ là một đoạn tuyệt khéo – Bài làm 3
Tác phẩm “Tắt đèn” của nhà văn Ngô Tất Tố là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất viết về đề tài người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Bao trùm “Tắt đèn” là một không gian chật chội, ngột ngạt bởi nỗi tủi nhục, sự ấm ức của người nông dân. Nhưng đó đây trong tác phẩm vẫn lóe lên những điểm sáng bất ngờ. Đọc đoạn trích “Tức nước vỡ bờ”, nhà văn Nguyễn Tuân từng đánh giá đó là khoảnh khắc cháy sáng trong tác phẩm. Còn nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan thì nhận xét: “Cái đoạn chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ là một đoạn tuyệt khéo”.
Cái chật chội, ngột ngạt trong “Tắt đèn” bị gây nên bởi nạn sưu thuế trong xã hội Việt Nam phong kiến nửa thực dân xưa. Gia đình chị Dậu nghiêng ngả, xô dạt cũng vì cái nạn ấy, vốn là gia đình nghèo khổ “hạng cùng đinh” trong làng, nhà chị Dậu không có tiền đóng sưu thuế cho anh Dậu. Để cứu chồng khỏi đòn roi tù ngục, chị Dậu đành cắn răng bán con bán chó. Nhưng tai họa vẫn tiếp tục ập xuống: chị Dậu còn phải đóng thuế cho người em chồng đã chết. Anh Dậu vừa về đã bị bọn lính lệ ập đến bắt đi. Đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” trích từ chương XVIII trong tác phẩm thuật lại cuộc giằng co giữa chị Dậu và đám cai lệ đến bắt chồng chị. Đoạn trích đã thể hiện phẩm chất cao đẹp của chị Dậu, một người phụ nữ có lòng thương chồng rất mực đồng thời có tinh thần phản kháng thế lực áp bức.
“Cái đoạn chị Dậu đánh nhau với tên cai lệ là một đoạn tuyệt khéo”. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đã lấy nội dung sự việc trong đoạn trích để gọi tên đoạn trích. Và khi đánh giá đó là “một đoạn tuyệt khéo”, Vũ Ngọc Phan đã đề cập đến thành công trong nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật, nghệ thuật miêu tả, ngôn ngữ tác phẩm…
Đoạn trích tuy ngắn nhưng tính cách các nhân vật hiện lên thật rõ nét, sinh động. Đặc biệt là nhân vật chị Dậu và tên cai lệ. Là một người phụ nữ nông dân, chị Dậu rất mực thương chồng. Với chồng, chị tỏ ra rất nhẹ nhàng, nấu cháo, mời chồng ăn cháo. Ngay cả với đám cai lệ và người nhà lí trưởng, lúc đầu chị cũng rất mực lễ phép: “van xin tha thiết”, xưng “cháu” gọi “ông”. Hơn cả lễ phép, đó còn là sự nhẫn nhục cam chịu đến hạ mình. Nhưng khi thái độ đó không lay chuyển được đám đầu trâu mặt ngựa, chị Dậu trở nên mạnh mẽ lạ thường. Chị “cự lại” hành động sấn đôn bắt anh Dậu của tên cai lệ bằng lí lẽ: “Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ!”. Cách xưng hô đã thể hiện vị trí ngang hàng “tôi” – “ông”. Rổi khi bị cai lệ “tát vào mặt”, chị Dậu chuyển từ đấu lí sang đấu lực “Mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem!”. Cách xưng hô “bà” – “mày" đã thể hiện một vị thế khác của chị Dậu, một mối quan hệ khác giữa chị và cai lệ: “bà” – người trên, “mày” – kẻ dưới. Không dừng lại ở đó, chị còn thể hiện ở hành động quyết liệt “túm lấy cổ”, “ấn dúi ra cửa”, “túm tóc lẳng cho một cái”… Có thể nói, tính cách nhân vật chị Dậu trong đoạn trích này dược khắc họa rất khéo léo, độc đáo. Vừa bộc lộ được những nét truyền thống vừa thể hiện được sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ.
Bên cạnh hình ảnh chị Dậu với những đặc điểm tiêu biểu của người phụ nữ nông dân Việt Nam là nhân vật cai lệ, người nhà lí trưởng – đám đầu trâu mặt ngựa hung hăng bất nhân thú tính. Chúng là đại diện trực tiếp cho quyền lực bất nhân của “nhà nước”, của chế độ thực dân phong kiến đương thời. Hình ảnh của chúng được khắc họa bằng những hành động, lời nói bộc lộ bản chất hung bạo, không chút tình người. Đến nhà một người ốm yếu, nghèo hèn mà chúng “sầm sập tiến vào”, “trợn ngược hai mắt”, “đùng đùng giật phắt cái thừng”, “bịch luôn vào ngực chị Dậu”… Chẳng những vậy, trước những lời “van xin tha thiết” và sự nhẫn nhục của chị Dậu, chúng chẳng chút động lòng vẫn sấn sổ đánh, bắt vợ chồng nhà chị.
Miêu tả các nhân vật và cuộc ẩu đả trong đoạn trích, Ngô Tất Tố cũng thể hiện một ngòi bút linh hoạt, sống động. Ngôn ngữ nhân vật rất độc đáo, thể hiện tính cách và những diễn biến tinh tế trong cảm xúc nhân vật. Chị Dậu ban đầu xưng “cháu” gọi “ông” với cai lệ. Khi ấy chị đang lo lắng cho sức khỏe của chồng và sợ hãi vì thái độ hung hãn của hai tên tay sai. Nhưng khi bị chúng "bịch vào ngực”, lòng càm phẫn trào lên, chị “cự lại” xưng “tôi” gọi “ông”. Và khi lòng căm phẫn dâng lên tột điểm, chị đã vùng lên xưng “bà" đầy uy quyền và gọi “mày” rất coi thường, khinh bỉ. Cuộc ẩu đả giữa chị Dậu và hai tên tay sai cũng được miêu tả rất chi tiết, tỉ mỉ và sinh động. Hành động của tên cai lệ được diễn tả bằng những động từ, tính từ giàu sức biểu cảm “sầm sập”, “trợn ngược”, “đùng đùng giật phắt”… Hành động vùng lên đánh lại hai tên tay sai lại càng đặc biệt. Chỉ trong một câu văn, Ngô Tất Tố dùng đến bốn động từ diễn tả sức mạnh và hành động chớp nhoáng của chị Dậu: “túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa, túm tóc lẳng cho một cái..”. Trước sức mạnh của người đàn bà lực điền, hai tên mạt hạng “chổng quèo”, “ngã nhào” ra hè.
Bên cạnh nghệ thuật miêu tả là ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ đối thoại khá đặc sắc. Nó vừa bộc lộ sắc nét tính cách nhân vật vừa phản ánh được những diễn biến tâm lí nhân vật.
“Tức nước vỡ bờ” quả là “một đoạn tuyệt khéo”. Nhờ vậy, nhà văn đã dựng lên hình ảnh một người phụ nữ nông dân đầy sức mạnh, dám bứt phá để đòi quyền sống trong cái xã hội ngột ngạt đầy rẫy áp bức bất công. Cái khéo của Ngô Tất Tố là đã khêu một tia lửa lóe lên giữa bóng đêm phủ chụp “Tắt đèn”. Và nói như Nguyễn Tuân, lúc ấy Ngô Tất Tố đã “xui người nông dân nổi loạn”.