Như Voltaire từng nói: "Thơ là âm nhạc của tâm hồn nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm". Và Tràng Giang mang nỗi buồn mênh mang, sâu lắng trong giọng thơ vừa cổ điển vừa lãng mạn, rất tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận trước cách mạng. Xuân Diệu đã có nhận xét rất tinh tế: "bài thơ hầu như đã trở thành cổ điển của một nhà thơ mới". Nét cổ điển được thể hiện ngay từ tiêu đề tác phẩm: Tràng Giang - "Tràng" là một âm khác "Trường" - có nghĩa là dài. Tuy nhiên, Huy Cận đã chọn Tràng Giang vì nó chẳng những đã chứa trong mình cả "Tràng Giang" mà nhờ âm "ang" đã gồm cả nét nghĩa sông rộng, sông lớn, mở ra một khoảng không gian bao la vô tận vô cùng. Dường như cảnh càng bát ngát thì tình càng miên man, và Huy Cận, bởi "quá cảm nghe với mênh mông thì giọng thơ của người cũng lây cái sầu của vù trụ". Bài thơ mở ra bằng lời đề từ:
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.
Dường như đã gói trọn cảm hứng chủ đạo của tác phẩm. Đó là nỗi niềm cảm nhận sâu xa của cái tôi cô đơn trước cái vô cùng của trời đất. Trong nỗi niềm ấy, Tràng Giang đầy nỗi nhớ không gian, khao khát được giao cảm giữa con người với vũ trụ, đồng thời muốn hòa nhập giữa cái tiểu ngã hữu hạn với cái đại ngã vô hạn. Thơ xưa các thi nhân tìm đến thiên nhiên vũ trụ luôn nhận mối đồng cảm tương giao. Huy Cận cũng đến với vù trụ. Thế nhưng khác xưa là, tác giả chỉ thấy thâm thìa nỗi buồn của cái tôi cô độc, với cảm giác "bâng khuâng" "dợn dợn" trước không gian bao la. Phải chăng, nguồn mạch thơ mới của bài Tràng Giang cũng chính là ở đó.
Trước hết, ta bắt gặp một không gian vũ trụ mênh mông:
Sóng gạn tràng giang buồn diệp diệp.
Sắc thái cổ điển và hiộn đại hòa quyện nhau, nhuần nhuyễn để làm nổi rõ cảnh thiên nhiên vắng lặng và buồn. Tràng Giang đó, bình thản suy tư qua bao lớp sóng "buồn điệp điệp", qua dòng khơi "nước song song", cảm giác buồn ấy lại gửi trong vần điệu, trong những từ gợi hình mỏng manh càng làm tăng thêm mỗi lúc và trải dài mải không thôi, càng như thấm đẫm trong từng cảnh vật.
Nắng xuống trời
Lên sâu chót vót.
Không gian như vụt lớn hơn. Trên bức tranh sông dài lại hiện lên bầu trời thăm thẳm: "Sâu chót vót" - "sâu" đã gợi lên cho người đọc ấn tượng thăm thẳm, hun hút, khôn cùng, mà lại là "sâu chót vót" thì chiều cao càng vô tận. Câu thơ bảy chữ thì có ba chữ vần bằng nằm giữa bốn vần trắc, dường như nhấn mạnh thêm không gian vô tận giừa mặt đất sâu thẳm và trời cao chót vót. Cái đẹp ở đây chính là tác giả đã đặt những hình ảnh ấy trong một thế giới hài hòa nghệ thuật tuyệt diệu "nắng xuống" - "trời lên" càng cao rộng, cảnh vật càng thêm vắng lặng. Nỗi buồn tựa hồ như thấm vào không gian ba chiều. Con người như trở nên nhỏ bé và rợn ngợp trước cái bao la vĩnh hằng của vũ trụ, cái xa vắng của thời gian:
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Cũng như trong câu thơ:
Lớp lớp mây cao dùn núi bạc
Thiên nhiên hiện ra buồn nhưng cũng thật tráng lộ. Nét đặc trưng này của không gian đã được Đỗ Phủ miêu tả trong bài Thu hứng:
Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm
Mặt dất mây ùn cửa ải xa.
Lấy lại ý thơ người xưa, hình ảnh "mây cao đùn núi bạc" trong bài thơ gợi lên ấn tượng về sự mênh mông của vũ trụ. Nếu trôn kia là sông nước Tràng giang "điệp điệp" "song song” thì bây giờ là "lớp lớp" mây cao - những đám mây trắng cứ đùn lên, trùng điệp phía chân trời. Huy Cận không viết: "đùn sóng bạc" - nghĩa là những áng mây như muôn ngàn con sóng tung bọt trắng, mà viết "đùn núi bạc" khiến cho không gian vũ trụ không chỉ hiện lên bao la, vô tận mà còn hùng vĩ nữa... Thế nhưng, cũng khác thơ xưa, cảnh vật mỗi lúc một bao la thì hồn người trong bài Tràng Giang càng thêm cô độc, lạc loài. Thi nhân vôn "sớm vương nỗi sầu thiên cổ mang mang" hẳn không khỏi khát khao được giao cảm, tương thông với trời đất vô cùng.
Nếu không gian vũ trụ qua Tràng Giang hiện lên với tất cả vẻ đẹp bao la, kì vĩ mênh mông thì đối lập với nó không gian của cõi nhân thế lại bé nhỏ, đơn côi, lạc loài:
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Đó là hình ảnh của con thuyền côi cút và cành khô lạc loài giữa sông nước mênh mông. Vào những năm ba mươi, đây là những câu thơ mới mẻ, bởi nó xuất hiện cái tầm thường, nhỏ nhoi vô nghĩa như "một cành củi khô". "Trong cảm thức xa vắng về không gian, đối với Huy Cận, con thuyền, cành khô chỉ gợi lên sự đơn lẻ thấm thìa nỗi buồn chia lìa lạc loài đang đón đợi. Thuyền "về" mà nước thì "lại" nghĩa là nghịch chiều nhau. Tuy chỉ có hai hướng thôi nhưng lại tạo nên mối "sầu trăm ngả" và cành cây chỉ còn là "củi một cành khô". Nếu nói như Huy-gô "ngôn ngừ cùng chỉ là một sinh vật" thì ở đây sinh vật ấy đang bơ vơ, đau xót, bất lực vì nước xô đẩy: "Lạc mấy dòng" nó hàm chứa cả cái gì đó côi cút, tan tác đến tội nghiệp. Với cách đặt từ "một" ở giữa hai số từ "trăm" và "mấy" trong những câu thơ khiến hình ảnh cõi nhân thế dường như càng nhỏ lại, bế tắc tột cùng. Tất cả như vây bủa lấy cảnh vật trong sự lạc lõng, đơn côi. Nỗi buồn đó càng như da diết mãi không thồi:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Vài dải đất giừa sông dài, vài ngọn gió hiu hiu nhưng không đủ làm sống động cảnh vật, và âm thanh của tiếng "làng xa vãn chợ chiều" thì mơ hồ, mong manh lắm không làm bớt đi sự vắng lặng của cảnh. Bây nhiêu hình ảnh dường như chỉ là những nét chấm phá, tô đậm thêm không gian cao rộng của vù trụ mà thôi.
Thơ Đường tả Tràng Giang chỉ qua một vài nét châm phá đơn sơ, bình lặng, hiền hòa, không đi sâu vào chi tiết:
Xanh um cổ thụ tròn xoe tán
Trắng xóa Tràng Giang phẳng lặng tờ.
Huy Cận cũng miêu tả Tràng Giang theo trường phái phương Đông truyền thông. Nhưng Tràng Giang vẫn là một bài thơ hiện đại, không chỉ hiộn đại ở hình ảnh, thi liệu mà còn ở cảm xúc của nhà thơ lãng mạn. Huy Cận đã soi "chiếc linh hồn nhỏ" của mình trên sông nước Tràng Giang:
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến dò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ hờ xanh tiếp hãi vàng.
Một loạt tính từ "mênh mông", "lặng lẽ" đã gợi lên không khí vắng vẻ, u buồn. Nỗi buồn như càng được khắc sâu qua hình ảnh những cánh bèo dạt trôi nổi lênh đênh. Hình ảnh đó là ngẫu nhiên nhìn thấy hay vì thi nhân đã liên tưởng đến thân phận "hoa trôi bèo dạt" của những kiếp người chìm nổi long đong trong xã hội. Tâm trạng chung của lớp trẻ những năm 30 là thế. Nhưng không phải vì vậy mà họ quên hết chất thơ chất đẹp ở đời. Ngay cả khi phủ định tất cả "không một chuyên đò ngang", "không cầu gợi chút niềm thân mật" cùng chính là bộc lộ tấm lòng thi nhân yêu cuộc sống, tha thiết mong mỏi niềm giao cảm. Không gian trần thế vì vậy qua cái nhìn thi sĩ dù sầu tư lai láng nhưng vẫn lung linh có hồn. Tình càng sâu thì cẩnh càng đẹp:
Chìm nghiêng cánh nhỏ hóng chiều sa.
Hình ảnh cánh chim đơn lẻ trong buổi chiều tà càng gợi lên những nỗi buồn xa vắng của lòng người. Nhưng cánh chim ấy lại chao xuống vì sức nặng của hoàng hôn nhịp nhàng với buổi chiều bóng xế. Hình ảnh đẹp vừa cổ điển, vừa lãng mạn. Nếu như Nguyễn Du thấy "Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha", Hàn Mặc Tử cũng nhận ra "bóng xuân sang" trên một giàn thiên lý thì Huy Cận, thi nhân cùng rất tinh tế nhận thấy bóng chiều trong một cánh chim nghiêng. Chính là, nhà thơ đã phá lôgic của cuộc sông để đạt đến lôgíc của nghệ thuật. Cũng vì vậy, cánh chim dường như hiện lên sinh động hơn, đẹp hơn và đặc biệt cũng buồn da diết trước cái nhỏ bé, cô đơn giữa vũ trụ bao la.
Từ những hình ảnh quen thuộc của cuộc sống thế gian, một cành củi khô, cồn nhỏ lơ thơ, con thuyền nhỏ, cánh chim... đã hắt vào tác phẩm vẻ tử biệt sinh li, vẻ sầu bi của nó. Chỉ vài nét chấm phá thôi, Huy Cận đã khơi gợi cảm giác lẻ loi, chia li trong lòng người, trong cảnh vật. Đó cũng là tâm lí tự nhiên của con người, cảm thấy nhỏ bé trước thiên địa vô thủy vô chung:
Ai người trước đã qua
Ai người sau dã tới
Nghĩ trời đất vô cùng
Một mình tuôn giọt lệ.
(Trần Tử Ngang)
Cảnh tình ấy khiến thi nhân không thể không bâng khuâng và thầm mong ước. Nó kết tinh thành tình quê hương tha thiết:
Lòng què dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn củng nhớ nhà.
Âm hưởng Đường thi triền miên trong câu thơ. Huy Cận lấy lại ý xưa của Thôi Hiệu:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Nnhưng Huy Cận khác, trong buổi hoàng hôn ấy không hề có "trên sông khói sóng", tạo điều kiện phản xạ gợi nhớ "hương quan" (cổng làng - đường về quê cù) như tác giả Hoàng Hạc Lâu. Phẩi chăng chính cảm giác "dợn dợn" của chủ thể lãng mạn đã làm nảy sinh tâm lí nhớ nhà. Nhớ nhà, muôn được trở về có mặt giữa gia đình, quê cha là để hóa giải cảm giác "dợn dợn" bơ vơ của kẻ tha hương. Tình quê trong bài Tràng Giang vì vậy da diết hơn, thường trực hơn. Nó không chỉ là những dòng ý nghĩ lộ thiên đơn giản, mà là xuất phát từ quy luật thầm kín tự đáy thẳm tâm linh của con người.
Tuy vậy, ý thơ không chỉ dừng lại ở một tình quê hương thuần túy. Phải chăng, "lòng quê dờn dợn vời con nước" còn thổ hiện nỗi niềm của một cái tôi cô độc, nhỏ bé trước vũ trụ đang tìm về giao hòa, nương tựa với cái ta rộng lớn hơn. Chất lãng mạn của bài Tràng Giang là đấy, bôn cạnh nỗi niềm quô hương là nỗi niềm nhân thế:
Dạm dạm trường giang thủy
Du du viễn khách tình.
Có thể nói, Tràng Giang là một bài thơ chứa đầy không gian và tâm trạng; là không gian vũ trụ, cảnh sắc bao la, vô tận mà cũng thật tráng lệ; là. không gian nhân thế, cảnh lại hiện lên cô đơn, lạc loài. Bao trùm lên bức tranh thiên nhiên là sự tĩnh lặng gần như tuyệt đối. Duy chỉ có tiếng lòng nhà thơ đang thầm vọng trong xa thắm:
Bâng khuâng trời rộng nhớ sồng dài.
Hai mươi năm sau, cũng đứng trước một không gian vô tận của đại dương vào lúc hoàng hôn, Huy Cận đã viết những vần thơ vui tươi, khỏe khoắn:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm với gió khơi.
Nhưng đó là sau này, khi Huy Cận đang viết Trời mỗi ngày lại sáng. Còn ở đây, cảm giác vũ trụ ở Huy Cận là sự khắc khoải cô đơn khi đối diện với trời đất vô tận vô cùng. Bài thơ Tràng Giang vì thế mang nỗi buồn mênh mang sâu lắng trong giọng thơ vừa cổ điển vừa lãng mạn. Nỗi buồn của Huy Cận trước sau vẫn là nỗi buồn trong sáng, góp phần làm phong phú hồn người và làm nên vẻ đẹp riêng của bài thơ.