Khác nhau:
a) XUY:
*Hoàng Việt luật lệ:
Không có gì khác nhiều so với quốc triều hình luật, nhưng có thêm một số phần cụ thể hơn. Trong biểu đồ hình cụ (để trừng phạt) có quy định “Dùng dây mây nhỏ dài 0,2 thước 0,7 thước 0,6 phân trở xuống 0,5 phân trở lên về bề tròn không quá nặng”. Phụ nữ phạm tộ bị xử bằng roi, truợng không được chuộc tội, nếu họ bị xử roi mà họ chịu, nhưng nếu bị xử từ 60 đến 100 trượng thì người ta có thể đổi ra roi. Tội xuy có thể là chính hình để trừng trị các tội nhẹ. VD: Điều 7 quyển 5 quy định “Phàm làm trễ hạn văn thư của quan một ngày, lại điển bị phạt 10 roi, 3 ngày thì thêm một bực tội, mút là 100 roi”. Quan thủ lãnh các nơi được giảm một bực (quan thủ lãnh là đầu mục của lại điển).Phàm nói thủ lĩnh thì quan chính không bị phạm tội.
*Quốc triều hình luật:
Có thể được áp dụng độc lập nhưng cũng có thể áp dụng phạt xuy kèm theo phạt tiền, biếm (Điều 295, điều 374, điều 375, điều 376…) và lưu đồ (xem Điều 1 phần III, IV)
b) TRƯỢNG:
*Hoàng Việt luật lệ:
Luật quy định 2 roi = 1 trượng. Ai phạm tội nặng hơn 50 roi thì người ta bỏ roi mà đánh bằng trượng. Theo lệ 1 (đoạn cuối) trong điều 1 quy định, nếu nữ phạm nhân bị tội trượng cũng đuợc thay thế bằng tội roi, tuy nhiên sau khi đã chấp nhận nguyên tắc tổng quát này thì lệ 8 trong điều 1 và lệ 1 trong điều 19 đã dự liệu một giải pháp khác. Cụ thể là: Đối với đàn bà phạm tội thông gian, tội bất hiếu hoặc tội trộm cắp sẽ chịu tội như luật định, đối với các phạm nhân khác bất luận là hình phạt nào, nếu đàn bà có tài sản thì cho chuộc tội theo giá tiền đã định cho các vợ quan chức. Điều 19, quyển 2 còn dữ liệu đánh trượng đối với nữ phạm nhân, nếu là tội thông gian thì bắt lột áo, tội khác thì cho được mặc áo mỏng.Tuy nhiên, nữ phạm nhân được miễn thích chữ.Nếu đàn bà phạm tội đồ hoặc lưu thì ddánh hẳn 100 trượng còn dư tội thì cho chuộc. Cụ thể:
-60 trượng, đồ 1 năm thì giá chuộc chung là 01 tiền 05 phân. Tội dư của 100 trượng tính ra 07 phân 05 li giá chuộc 07 phân 05 li
-70 trượng, đồ 1,5 năm thì giá chuộc chung người ta cắt ra giá chuộc 100 trượng, giá nhận chuộc là 01 tiền 01 phân 02 li 05 hào.
-80 trượng, đồ 02 năm thì giá chuộc chung người ta cắt ra giá chuộc cho 100 trượng giá nhận chuộc là 01 tiền 05 phân.
-90 trượng, đồ 2.5 năm thì giá chuộc chung người ta cắt ra giá chuộc cho 100 trượng giá nhận chuộc là 01 tiền 08 phân 07 li 05 hào.
-100 trượng, đồ 03 năm thì giá chuộc chung người ta cắt ra giá chuộc cho 100 trượng giá nhận chuộc la 02 tiền 02 phân 05 li
Mặc dù giữa những khoản đã nói trên có sự mâu thuân nhưng các nhà làm luật Gia Long đã có những sự khoan hồng đối với nữ phạm nhân hơn.
*Quốc triều hình luật:
Ở thời này , khung hình trượng có thể áp dụng độc lập (VD: Điều 574, điều 640, điều 649, điều 692…) nhưng cũng có thể là áp dụng kèm theo các tội lưu, tội đồ, tội biếm (VD: Điều 351, điều 356, điều 360, điều 378…). Ở khung hình này thì nữ phạm nhân đuợc khoan hồng nhiều hơn, dù phạm bất cứ tội nào thì nữ phạm nhân đều được thay trượng bằng xuy.Đây chính là điểm ưu việt hơn hẳn hộ luật Gia Long.
c) ĐỒ:
Là hình phạt thứ 3 trên thang hình phạt ngũ hình, áp dụng cho những người phạm tội nặng hơn.
*Hoàng Việt luật lệ:
Trong bộ luật này, người bị phạm tội bị gửi về thúc quản tại trấn nơi họ đồng thời bị áp dụng hình phạt này phải làm những công việc nặng nhọc với thời hạn từ 01 năm dến 03 năm. Hình đồ được chia làm 5 bậc, mỗi bậc tăng thêm 10 trượng và nửa năm. Đồng thời tuỳ theo thời hạn bị áp dụng là ngắn hay dài hạn mà mỗi bậc lại áp dụng thêm một phụ hình (hình phạt bổ sung) với mức phạt từ 60 trượng đến 100 trượng. Cụ thể:
-Bậc 1: 01 năm và 60 trượng
-Bậc 2: 1,5 năm và 70 trượng
-Bậc 3: 02 năm và 80 trượng
-Bậc 4: 2,5 năm và 90 trượng
-Bậc 5: 03 năm và 100 trượng
-Đến năm Thành Thái thứ 18 (1906) thì 5 bậc hình đồ nêu trên đuợc đổi thành hình phạt khổ sai với mức phạt từ 01 đến 05 năm, đồng thời bỏ hình phạt này bổ sung áp dụng kèm theo. Cũng thời gian này, phạm nhân bị áp dụng hình phạt đồ phải phụ trách dịch tại những trạm đưa công văn thiết lập dọc theo đường cái quan. Công việc của phụ trạm là khuân vác, hay làm bồi ngựa (những tống thư văn thời xưa đi xa phải dung ngựa nên mỗi trạm phải có sẵn ngựa tốt và khoẻ để khi cần đổi ngựa thì có ngay). Để tiết kiệm công quỹ nên chính quyền thời đó đã sử dụng phạm nhân để phục dịch tại các trạm này. Ngoài việc đưa công văn các trạm còn có nhiệm vụ chuyên chở các quan chức và hành lí của họ đi công cán Những phạm nhân phải chấp nhận hình phạt đồ được phục dịch tại các trạm trong tỉnh mà họ sinh sống chứ không phải đi xa. Trong thời gian chấp hành hình phạt này phạm nhân được hưởng chế đọ bán tự do. Họ được ngụ cư tại nhà riêng, làng xã, xung quanh trạm, nhưng đến phiên trực của ai thì phải tự giac đến trực ngày đêm để chờ lệnh đội trạm. Khi cần tập hợp phu trạm để khuân vác thì đội trạm đánh mấy hồi trống . Nghe tiếng gọi, những phu trạm sẽ từ các nơi lân cận sẽ đến phục dịch. Những phạm nhân bị áp dụng hình phạt đồ nếu đã 70 tuổi hoặc bị tàn tật thì đều được phép chuộc tội bằng tiền theo một giá ngạch biệt hạ giá hơn giá ngạch bình thường . Việc áp dụng hình phạt này được coi là một sự tiến bộ hơn hẳn so voia hình phạt khổ sai 5 bậc. Các phạm nhân không bị giam giữ tại các trạm giam saukhi làm việc, do đó tránh cho họ cảnh lao tù và giúp họ có điều kiện hoàn lương vì họ vẫn được tiếp xúc với xã hội.
*Quốc triều hình luật :
Ở triều đại này thì hình phat đồ được chia thành ba bậc, tuy theo công việc nặng nhọc mà phạm nhân phải làm, mỗi bậc lại phân biệt công việc của đàn ông với đàn bà. Hình phạt được quy định áp dụng kèm theo xuy, trượng hoặc thích chữ, đeo xiềng.
-Bậc thứ nhất: là dịch đinh và dịch phụ (nam, nữ phải làm việc nặng nhọc)
+ Dịch đinh là hình phạt áp dụng đối với đàn ông và kèm theo 80 trượng. Dịch đinh có nhiều hạng : thuộc đinh (quan chức phải làm những việc phục dịch ở các viện), quân đinh ( làm phục dịch ở các sảnh). Khao đinh (phục vụ trong trại lính), xã đinh (nếu là dân thì làm phục dịch ở bản xã).
+ Dịch phụ là hình phạt áp dụng cho phụ nữ và đánh 50 roi. Dịch phụ cũng có nhiều hạng, nếu phạm tôi nhẹ, thì dân đồ làm thứ phụ ở làng (phục dịch mọi công việc ở làng) còn các vợ quan chức đồ làm viên phụ (làm công việc trong vườn), nếu phạm tội nặng thì bị đồ thành tang thất phụ (phục dịch ở nơi nuôi tằm).
- Bậc thứ hai: (nặng hơn) gồm tượng phường binh (đối với đàn ông) và xuy thất tỳ (đối với đàn bà):
+ Tượng phường binh: quét dọn chuồng voi, đánh 80 trượng và thích vào cổ 2 chữ.
+ Xuy thất tỳ: nấu cơm nuôi quân, đánh 50 roi và thích vào cổ 2 chữ.
- Bậc thứ ba: (nặng nhất) chủng điền binh và thung thất tỳ
+Chủng quân điền (dành cho đàn ông) làm lính lao động ở đồn điền nhà nước, đồng thời bị kèm đánh 80 trượng thích vào cổ 4 chữ, bắt đeo xiềng.
+Thung thất tỳ (dành cho phụ nữ) phải xay thóc giã gạo trong các kho thóc thuế của nhà nước, đánh 50 roi và thích vào cổ 4 chữ.
d) LƯU: là hình phạt đày đi xa
* Hoàng Việt luật lệ:
Gồm 3 bậc:
+ 2000 dặm với 100 trượng
+ 2500 dặm với 100 trượng
+ 3000 dặm với 100 trượng
Hình phạt áp dụng cho phạm nhân tội dù nặng nhưng vẫn chưa dấng phải chết.Họ bị lưu đày vĩnh viễn nơi xa, cả đời không được trở về cố hương. Phạm nhân có thể mang theo vợ con, gia đình. Đến nơi lưu đày họ được sống tự do, được cấp trâu cày và công cụ để tự lao động sản xuất cải tạo. Nơi đi đày thường là các vùng còn chưa được khai thác, dân cư thưa thớt.Tuy HVLL quy định việc lưu đày phạm nhân xa tới 3000 dặm nhưng vẫn chỉ là bị đày ở trong nước chứ không phải bị đày ở ngoài lãnh thổ nước ta.
* Quốc triều hình luật:
Gồm 3 bậc:
+ Lưu cận châu (châu gần) đày đi làm việc nặng ở Nghệ An. Hình phạt phụ: thích vào mặt 6 chữ và đàn ông bị đánh 90 trượng, bắt đeo xiềng, đàn bà bị đánh 50 roi.
+ Lưu ngoại châu (châu ngoài) lưu đến Bố Chánh (Quảng Bình). Phụ hình: đàn ông bị đánh 90 trượng, thích vào mặt 8 chữ và đeo xiềng hai vòng, phụ nữ chịu phụ hình như ở bậc cận châu.
+ Lưu viễn châu (châu xa): đày lên Cao Bằng. Phụ hình bị đánh 100 trượng, thích vào mặt 10 chữ và đeo xiềng 3 vòng, phụ hình của đàn bà như 2 bậc trên
Về thời hạn thụ hình của hình phạt lưu, trên danh nghĩa là lưu đày vĩnh viễn nhung thực tế, sau một thời gian sống tại nơi lưu đày phạm nhân có thể được ân xá nếu có hạnh kiểm tốt và khai khẩn 3 – 5 mẫu đất. Sau khi được ân xá, phạm nhân được trở về quê hương như một người dân tự do hoăc sống tại nơi lưu dày và được sử dụng phần đất mà mình đã khai khẩn. Mục đích hình phạt mang tính trừng phạt về cả thể xác (làm việc nặng nhọc tại nơi có môi trường sống khắc nghiệt) lẫn cả về tinh thần (xa quê hương) . Hình phạt vừa mang tính giáo dục phạm nhân thông qua lao động vừa góp phần phát triển kinh tế dất nước
e) TỬ:
*Hoàng Việt luật lệ
Là hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt của HVLL. Hình phạt chỉ gồm 2 bậc: giảo (thắt cổ) và trảm (chém đầu). Trong trường hợp xử tử hình nhưng giam lại để chờ phúc thẩm vào mùa thu gọi là giảo giam chờ hoặc trảm giam chờ. Trường hợp thi hành án ngay gọi là giảo quyết, trảm quyết. (cùng là chết nhưng giảo nhẹ hơn chảm).
Hoàng Việt luật lệ còn quy định thêm phép “Nhuận Tử” trong một số điều luật quy định về tội phạm (điều 223, điều 253, điều 254, điều 256, điều 257) bao gồm:
+ Lăng trì (xẻo chậm)
+ Trảm khiêu (chém bêu đầu)
+Lục thi (chặt xác chết)
Hình thức này hoàn toàn đều trái với lời giải thích của bộ luật: “Chết lăng trì là hình phạt ghe khiếp nhất trong các hình phạt. Ngày nay vĩnh viễn bỏ nhục hình ấy, chỉ còn giữ lại hình phạt ghê khiếp ngoài hết thảy mọi ghê khiếp này là bằng cách chém kẻ bất trung, bất hiếu mà thôi”.Tuy nhiên, trong thực tế các hình thức nhuận tử chỉ mang tính chất thị uy nhiều hơn là úng dụng thực tiễn.
* Quốc Triều hình luật:
Hình phạt tử gồm 3 bậc:
+ Thắt cổ (giảo), chém đầu (trảm)
+ Chém biêu đầu (khiêu)
+ Lăng trì (dân gian thường gọi là tùng xẻo), tội nhân bị xẻo từng miếng thịt rồi bị mổ bụng, moi ruột cho đến chết, sau đó bị cắt rời chân tay và bị gãy hết xương.
Hình phạt tử không những tước đoạt mạng sống của tội nhân mà còn đánh vào đời sống tinh thần và tâm linh của con người ở những mức độ khác nhau, vừa trừng trị tội phạm vừa răn đe những kẻ khác.