Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Em có nhận thức ntn về tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em

4 trả lời
Hỏi chi tiết
2.567
1
0
Nguyễn Minh Tú
07/05/2018 22:04:58
ae giải giúp mình cả 2 câu ở hình ảnh nhé thanks you

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
2
1
Lãnh Hàn
08/05/2018 05:24:30
3.
- Thực tế cuộc sống của trẻ em trên thế giới: Luôn bị các hiếm họa đe dọa cuộc sống như: chiến tranh, bạo lực, sự phân biệt chủng tộc, bị trớ thành người tỵ nạn, bị bóc lột, bị ruồng bó.
- Tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em, về sự quan tâm của cộng đông Quốc tế đối với vấn đề này:
- Đây là vấn đề quan trọng, có tính cấp bách, toàn cầu cùa nhiệm vụ vì sự sống còn, quyền được bao vệ và phát triển của trẻ cm.
- Công việc này còn đòi hỏi sự quan tâm của từng gia đình, từng cá nhân trong mỗi cộng đồng của xã hội.
4.
Hoàn cảnh:viết vào năm 2001 trong hoàn cảnh chuyển giao của đất nước vào thế kỉ 21 đã hội nhập Phó Thủ tướng Vũ Khoan rất quan tâm đến thế hệ trẻ Việt Nam vì ông hiểu rõ rằng chính thế hệ này quyết định tương lai của đất nước. Trong thời đại khoa học kĩ thuật phát triển mạnh mẽ như hiện nay thì muốn đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội, con người cần phải có một khả năng tương đối toàn diện. Sau những nghiên cứu và khảo sát nghiêm túc, kĩ càng về con người Việt Nam, Phó Thủ tướng đã thẳng thắn và chân thành nhận xét trong bài viết Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới đăng trong tạp chí Tia sáng số Xuân 2001
Cái mạnh của con người Việt Nam chúng ta là sự thông minh và nhạy bén với cái mới… Nhưng bên cạnh cái mạnh đó còn tồn tại không ít cái yếu. Ấy là những lỗ hổng về kiến thức cơ bản do thiên hướng chạy theo những môn học “thời thượng”, nhất là khả năng thực hành và sáng tạo bị hạn chế do lối học chay, học vẹt nặng nề…
Muốn ngẩng cao đầu tự tin vững bước, mỗi chúng ta cần phải nhìn nhận và tự đánh giá bản thân một cách nghiêm túc để thấy rõ đâu là mặt yếu cần khắc phục, đâu là mặt mạnh cần phát huy. Tránh tư tưởng chạy theo cốc môn học có tính “thời thượng” như học Tiếng Anh, học vi tỉnh nhưng không phù hợp với khả năng của mình, không theo học đến nơỉ đến chốn để rổi suốt đời ân hận vì đã bỏ phí thời gian cùng tỉền bạc mà chẳng đem lạỉ bao nhiêu lợi ích cho cá nhân và xã hội. Bước vào thế kỉ XXI, với dân tộc Việt Nam cũng có nghĩa là bước vào vận hội mới, vào cuộc hành trình mới vớỉ rất nhiều triển vọng tốt đẹp ở phía trước. Tuy nhiên, hành trình đó cũng đầy khó khăn, thách thức, đòi hỏi thế hệ trẻ phải có sự có gắng phấn đấu vươn lên không ngừng, thực sự đổi mới bản thân để đáp ứng được nhu cầu đổi mới của dân tộc và đất nước.
Địa. Việc học chay, học vẹt là phổ biến. Vì cơ sở vật chất thiếu thốn nên rất ít trường có được những phòng thí nghiệm đúng quy định. Các môn khoa học tự nhiên như Lí, Hoá, Sinh … phần lớn giáo viên chỉ dạy lí thuyết, có cho học sinh thực hành thì cũng chỉ dừng lại ở những thí nghiệm đơn giản mà thôi. Cho nên kĩ năng thực hành, kĩ năng nghiên cứu khoa học của học sinh hầu như rất yếu. Một điều cần phải nhắc đến là việc tự học của học sinh hiện nay chưa đạt tới mức độ tự giác và thường xuyên. Nhiều người không hiểu rằng trong quá trình học tập thì số lượng kiến thức tiếp thu được từ nhà trường chỉ là sơ đẳng, ít ỏi; còn số lượng kiến thức tiếp thu từ việc tự học qua sách vở và cuộc sống mới là vô hạn. Cho nên họ chưa tạo cho mình thói quen đọc sách – một thói quen tốt vô cùng cần thiết và quan trọng. Chăm đọc sách, đọc sách có mục đích, có định hướng sẽ giúp chúng ta không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết, làm giàu kho tàng kiến thức, để từ đó có khả năng ứng xử và làm việc tốt hơn. Phương pháp giáo dục khoa học và chất lượng cao của các nước tiên tiến trên thế giới cần phải được học tập và vận dụng từng bước vào nền giáo dục ở Việt Nam để rút ngắn dần khoảng cách giữa ta và họ. Người Việt Nam đã có ưu thế là tố chất thông minh, nhanh nhạy trước cái rnới, cái tiến bộ thì vấn đề này chắc chắn sẽ làm được. Những chủ nhân tương lai hứa hẹn sẽ có đủ tài năng gánh vác trọng trách xây dựng đất nước giàu mạnh. ...
đánh giá 5 sao nhé ,sáng vui vẻ
2
1
Quỳnh Anh Đỗ
08/05/2018 16:06:40
Bài 3:
Kể từ khi Việt Nam phê chuẩn Công ước về Quyền trẻ em của Liên hợp quốc (năm 1990) và ban hành Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (năm 1991) tới nay, công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả, góp phần tạo ra những chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động của toàn xã hội đối với lĩnh vực này.
Tuy nhiên, sau hơn 20 năm thực hiện các chương trình hành động quốc gia vì trẻ em, bên cạnh rất nhiều thành tựu đáng ghi nhận thì những hạn chế, yếu kém của công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em cũng bộc lộ. Những yếu kém này đã góp phần làm cho một số mục tiêu, đặc biệt là mục tiêu bảo vệ trẻ em của các chương trình có nguy cơ không đạt được so với mục tiêu kế hoạch đề ra.
Nhiều nguyên nhân đã được các chuyên gia và các nhà quản lý nêu ra: nhận thức của từng gia đình và toàn cộng đồng chưa đầy đủ; năng lực của đội ngũ cán bộ còn yếu kém; dịch vụ bảo vệ trẻ em còn nghèo nàn, chưa có mạng lưới; thiếu hệ thống pháp lý thân thiện với trẻ em; vai trò của quản lý nhà nước còn mờ nhạt, chưa hiệu quả… Bài viết này xin đề cập tới khía cạnh nhận thức của gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục con em của chính mình.
Vì sao trẻ em chưa thực sự được bảo vệ ngay trong gia đình mình?
Cả từ góc độ pháp lý, cả từ khía cạnh đạo đức, truyền thống thì trách nhiệm chăm sóc, bảo vệ trẻ em trước hết là thuộc về gia đình. Trong nhiều năm qua, kinh tế - xã hội phát triển, đời sống vật chất, đời sống tinh thần của nhân dân nói chung và của từng gia đình nói riêng được nâng lên. Những yếu tố cơ bản này đã và đang tạo điều kiện thuận lợi cho việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em. Có thể nói, mặc dù điều kiện, mức độ đầu tư chăm sóc con cái của các gia đình còn chênh lệch nhau, song hầu hết các gia đình đều ưu tiên đến mức cao nhất cho việc chăm lo cho trẻ em được ăn, mặc, học hành, khám chữa bệnh…
Nhận thức của cha mẹ về chăm sóc, nuôi dạy và bảo vệ trẻ em đã từng bước được nâng lên. Tuy vậy, qua sự phản ánh của báo chí và qua các kết quả khảo sát, điều tra thì có thể nói hiện nay tình trạng trẻ em thiếu sự quan tâm, bị xúc phạm, xâm hại, trừng phạt, bạo lực, bóc lột… hiện vẫn đang ở mức cao và càng ngày càng nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp. Điều đáng lo lắng là những hiện tượng này diễn ra không chỉ trong môi trường xã hội mà còn ở ngay trong chính gia đình của các em. Nói cách khác, trẻ em chưa được bảo vệ, chưa được an toàn ngay trong nhà mình, quyền của trẻ em chưa được chính các bậc cha mẹ thực hiện nghiêm túc và đầy đủ. Tất nhiên, khi trẻ em bị mất an toàn (cả về thể xác, cả về tinh thần) ngay trong nhà mình thì lỗi trước tiên phải thuộc về cha mẹ và các thành viên khác trong gia đình. Có thể kể ra đây một số nguyên nhân chính dẫn đến sự hạn chế trong ý thức của gia đình đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Thứ nhất, đó là do một số quan niệm mang nặng tư tưởng phong kiến còn khá phổ biến như: coi con cái là “sở hữu” của cha mẹ, cha mẹ yêu cầu gì, ép buộc gì con cái cũng phải răm rắp theo, không được bày tỏ ý kiến; quan niệm dạy con là việc riêng của từng gia đình, không ai bên ngoài có quyền góp ý hay can thiệp; nhiều gia đình áp dụng phương pháp “yêu cho roi cho vọt” đối với con; hà khắc với trẻ em gái vì cho rằng “con gái là con người ta”… Chính vì những quan niệm bảo thủ, phong kiến nặng nề này mà trong không ít gia đình, trẻ em đã phải chịu đựng bạo hành về thể xác và tinh thần; ý kiến của các em không được cha mẹ tôn trọng, danh dự bị xúc phạm… Hậu quả là không ít em đã có những hành động dại dột, rất thương tâm; nhiều em bỏ nhà đi lang thang, rơi vào cạm bẫy của các tệ nạn xã hội. Nói cách khác là những em này đã bị chính cha mẹ mình đẩy vào nhóm có nguy cơ trở thành trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
Thứ hai là do trình độ học vấn của nhiều bậc cha mẹ còn thấp nên chưa có hiểu biết đầy đủ trong việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Trong nhiều gia đình, trẻ em không bị thiếu ăn nhưng vẫn suy dinh dưỡng; khi đau ốm vẫn được cha mẹ đưa đi chữa trị nhưng lại không phải tại các cơ sở y tế; nhà cửa tương đối khang trang nhưng lại có rất nhiều nguy cơ gây tai nạn cho trẻ; kinh tế không quá thiếu thốn nhưng lại rất nghèo về thông tin… Chính vì sự thiếu hiểu biết của cha mẹ mà rất nhiều trẻ em, tuy được sống trong những gia đình tạm đầy đủ về điều kiện vật chất, nhưng vẫn chưa được bảo vệ và chăm sóc một cách phù hợp; rất nhiều trẻ em phải lao động nặng nhọc, mất an toàn, trong khi gia đình, mặc dù rất khó khăn, nhưng vẫn chưa đến mức lâm vào tình cảnh buộc các em phải làm những công việc quá sức hay nguy hiểm đó. Có không ít trẻ em đã trở thành tàn phế do sự thiếu hiểu biết của cha mẹ. Nói cách khác là chính gia đình đã vô tình biến các em thành trẻ có hoàn cảnh đặc biệt.
Thứ ba là hiểu biết của không ít gia đình về Quyền trẻ em còn quá mờ nhạt. Rất nhiều gia đình chăm lo cho con em một cuộc sống đầy đủ về vật chất và tinh thần. Tuy nhiên, chuyện con cái bị cha mẹ xúc phạm, trừng phạt (bằng cách này hay cách khác) lại xảy ra thường xuyên. Đặc biệt là khi trẻ em mắc lỗi, do chưa hiểu biết về quyền trẻ em hoặc có biết nhưng không tôn trọng, không thực hiện, nên nhiều gia đình đã có cách xử lý thô bạo, thiếu thân thiện với trẻ em, khiến các em tự tìm đến những cách giải quyết hết sức đau lòng. Có những gia đình còn dùng trẻ em để giải quyết mâu thuẫn của người lớn (bắt cóc con; bắt con chịu khổ về vật chất hoặc tinh thần, tình cảm để trả thù vợ hoặc chồng; lôi con vào những cuộc tranh cãi của người lớn; sao nhãng trách nhiệm với con sau ly hôn…).
Một vài kiến nghị
Truyền thông, giáo dục, vận động xã hội luôn có vai trò hết sức đặc biệt trong việc tạo ra sự chuyển biến về nhận thức của cộng đồng nói chung và của từng gia đình, từng cá nhân nói riêng.
Trong nhiều năm qua, truyền thông đã đạt được những thành công quan trọng trong công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến thức về Quyền trẻ em, Luật Bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em cũng như vai trò, trách nhiệm của gia đình, nhà trường và toàn xã hội trong lĩnh vực này. Thông tin về các vấn đề trẻ em đã được truyền tải tới cộng đồng nhiều hơn về số lượng và thiết thực hơn về chất lượng. Nhận thức của người dân về công tác bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em đã được nâng lên đáng kể. Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhận thức của cộng đồng nói chung và của từng gia đình nói riêng vẫn chưa đầy đủ, chưa rõ ràng và vì thế mà chưa thể biến thành hành động được. Chưa bàn tới môi trường xã hội, chỉ xét riêng trong môi trường gia đình, vấn đề nhận thức về Quyền trẻ em và công tác bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em hiện vẫn còn rất nhiều hạn chế. Tình trạng này là nguyên nhân (gián tiếp hoặc trực tiếp) góp phần làm gia tăng nhóm trẻ có nguy cơ trở thành trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
Sau khi Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 hoàn thành, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình hành động tiếp theo trong giai đoạn 2011 - 2015. Vai trò của truyền thông tiếp tục được nhấn mạnh thông qua dự án “Truyền thông, giáo dục, vận động xã hội”. Để nâng cao hiệu quả của công tác này trong việc thay đổi nhận thức của gia đình đối với vấn đề bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, thiết nghĩ, các cơ quan chức năng cần thực hiện một cách mạnh mẽ, ráo riết, liên tục, tới từng gia đình để đạt hiệu quả như khi tiến hành truyền thông về công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình. Bên cạnh các chiến dịch truyền thông nhằm vào cộng đồng nói chung thì rất cần có những hình thức tuyên truyền, phổ biến, vận động sao cho phù hợp với gia đình nói riêng. Đối tượng của các chương trình truyền thông càng được xác định cụ thể bao nhiêu thì hiệu quả càng được nâng cao bấy nhiêu. Với mỗi đối tượng - cha, mẹ, trẻ em, ông bà, họ hàng… cần có nội dung và hình thức tuyên truyền thích hợp, sao cho gần gũi, dễ hiểu và thiết thực, tránh tình trạng tuyên truyền chung chung, mang tính chất khẩu hiệu hoặc “thời vụ”.
Những nội dung của Luật Bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em cần được cụ thể hóa, gắn với những ví dụ thực tế, những tình huống sinh động. Những kiến thức về lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em cần được chuyển tải thành những kỹ năng cụ thể, thiết thực, đơn giản, dễ áp dụng. Có như thế thì mỗi gia đình mới có thể trở thành nơi tôn trọng Quyền trẻ em nhất, nơi bảo vệ trẻ em tốt nhất.
0
2
Quỳnh Anh Đỗ
08/05/2018 16:08:28
“Lớp trẻ Việt Nam cần nhận ra những cái mạnh, cái yếu của con người Việt Nam để rèn những thói quen tốt khi bước vào nền kinh tế mới”. Phó Thủ Tướng Vũ Khoan đã nhấn mạnh trong bài viết “Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới” của mình. Lần đầu được giới thiệu trên báo Tia sáng năm 2001.
Trong những hành trang ấy, có lẽ sự chuẩn bị bản thân con người là quan trọng nhất. Từ cổ chí kim bao giờ con người vẫn là động lực phát triển của lịch sử. Trong thế kỷ tới mà ai ai cũng thừa nhận rằng nền kinh tế tri thức sẽ phát triển mạnh mẽ thì vai trò của con người lại càng nổi trội.
Cần chuẩn bị những cái cần thiết trong hành trang mang vào thế kỷ mới, trong khi chúng ta đã chứng kiến sự phát triển như huyền thoại của khoa học và và công nghệ, làm cho tỷ trọng trí tuệ trong một sản phẩm ngày một lớn. Chắc rằng chiều hướng này sẽ ngày càng gia tăng. Một phần dưới tác động của những tiến bộ về khoa học và công nghệ, sự giao thoa, hội nhập giữa các nền kinh tế chắc chắn sẽ sâu rộng hơn nhiều.
Trong một thế giới như vậy, nước ta lại phải cùng một lúc giải quyết ba nhiệm vụ: thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu của nền kinh tế nông nghiệp, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đồng thời lại phải tiếp cận ngay với nền kinh tế tri thức. Làm nên sự nghiệp ấy đương nhiên là những con người Việt Nam với những điểm mạnh và điểm yếu của nó.
Cái mạnh của con người Việt Nam không chỉ chúng ta nhận biết mà cả thế giới đều thừa nhận là sự thông minh, nhạy bén với cái mới. Bản chất trời phú ấy rất có ích trong xã hội ngày mai mà sự sáng tạo là một yêu cầu hàng đầu. Nhưng bên cạnh cái mạnh đó cũng còn tồn tại không ít cái yếu. Ấy là những lỗ hổng về kiến thức cơ bản do thiên hướng chạy theo những môn học “thời thượng”, nhất là khả năng thực hành và sáng tạo bị hạn chế do lối học chay, học vẹt nặng nề. Không nhanh chóng lấp những lỗ hổng này thì thật khó bề phát huy trí thông minh vốn có và không thể thích ứng với nền kinh tế mới chứa đựng đầy tri thức cơ bản và biến đổi không ngừng.
Cái mạnh của người Việt Nam ta là sự cần cù, sáng tạo. Điều đó thật hữu ích trong một nền kinh tế đòi hỏi tinh thần kỷ luật rất cao và thái độ rất nghiêm túc đối với công cụ và quy trình lao động với những máy móc, thiết bị rất tinh vi. Tiếc rằng ngay trong mặt mạnh này của chúng ta cũng lại ẩn chứa những khuyết tật không tương tác chút nào với một nền kinh tế công nghiệp hoá chứ chưa nói tới nền kinh tế tri thức. Người Việt nam ta cần cù thì cần cù thật nhưng lại thiếu đức tính tỉ mỉ. Khác với người Nhật vốn cũng nổi tiếng cần cù lại thường rất cẩn trọng trong khâu chuẩn bị công việc, làm cái gì cũng tính toán chi ly từ đầu, người Việt Nam ta thường dựa vào tính tháo vát của mình, hành động theo phương châm “nước đến chân hãy nhảy”, “liệu cơm gắp mắm”. Do còn chịu ảnh hưởng nặng nề của phương thức sản xuất nhỏ và cách sống ở nơi thôn dã vốn thoải mái và thanh thản nên người Việt Nam chưa có được thói quen tôn trọng những quy định nghiêm ngặt của công việc là cường độ khẩn trương. Ngay bản tính “sáng tạo’ một phần nào đó cũng có mặt trái ở chỗ ta hay loay hoay “cải tiến”, làm tắt, không coi trọng nghiêm ngặt quy trình công nghệ. Trong một xã hội công nghiệp và “hậu công nghiệp” những khuyết tật ấy sẽ là những vật cản ghê gớm.
Trong một “thế giới mạng’, ở đó hàng triệu người trên phạm vi toàn cầu gắn kết với nhau trong một mạng Internet thì tính cộng đồng là một đòi hỏi không thể thiếu được. Nhân dân ta có truyền thống lâu đời đùm bọc, đoàn kết với nhau theo phương châm “nhiễu điều phủ lấy giá gương”. Bản sắc này thể hiện mạnh mẽ nhất trong cảnh đất nước lâm nguy, ngoại bang đe doạ. Nhưng tiếc rằng phẩm chất cao quý ấy thường lại không đậm nét trong việc làm ăn, có thể do ảnh hưởng của phương thức sản xuất nhỏ, tính đố kỵ vốn có của lối sống theo thứ bậc không phải theo năng lực và lối nghĩ “trâu buộc ghét trâu ăn” đối với người hơn mình ở làng quê thời phong kiến. Ta có thể quan sát thấy điều đó ngay trong cả những việc nhỏ nhặt: ví dụ vào thăm bảo tàng thì người Nhật túm tụm vào với nhau ch chăm chú nghe thuyết minh, còn người Việt Nam ta lại lập tức tản ra xem những thứ mình thích; người Hoa ở nước ngoài thường cưu mang nhau, song người Việt lại thường đố kỵ nhau…
Bước vào thế kỷ mới, nước ta sẽ hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới. Bản tính thích ứng nhanh sẽ giúp dân ta tận dụng những cơ hội, ứng phó với thách thức do tiến trình hội nhập đem lại. Nhưng thái độ kỳ thị đối với sự kinh doanh, thói quen ảnh hưởng sự bao cấp, nếp nghĩ sùng ngoại hoặc bài ngoại quá mức đều sẽ cản trở sự phát triển của đất nước. Thói quen ở không ít người thích tỏ ra “khôn vặt”,”bóc ngắn cắn dài”, không coi trọng chữ “tín” sẽ gây tác hại khôn lường trong quá trình kinh doanh và hội nhập.
Bước vào thế kỷ mới, muốn “sánh vai các cường quốc năm châu” thì chúng ta sẽ phải lấp đầy hành trang bằng những điểm mạnh, vứt bỏ những điểm yếu. Muốn vậy thì khâu đầu tiên, có ý nghĩa quyết định là hãy làm cho lớp trẻ – những người chủ thực sự của đất nước trong thế kỷ tới – nhận ra điều đó, quen dần với những thói quen tốt đẹp ngay từ những việc nhỏ nhất.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư