Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Em hãy kể một câu chuyện về Chu Văn An (hoặc Nguyễn Trãi) mà em biết

2 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
7.195
12
2
Trà Đặng
01/01/2018 10:14:18

Dân ta khi nói về thầy Chu Văn An, ai cũng một lòng ngưỡng mộ, vì thầy là một bậc hiền nho, một tấm gương tiết tháo, suốt đời không màng lợi danh. Thầy có công lớn trong việc truyền bá, giáo dục tư tưởng đạo đức Khổng giáo. Nhận thấy tài năng và đức độ của thầy, vua Trần Minh Tông (1300-1357) mời ra làm Tư nghiệp trường Quốc Tử Giám, dạy học cho thái tử Trần Vượng, tức là vua Trần Hiến Tông tương lai.

Ông đã cùng với Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn tham gia vào công việc củng cố triều đình lúc đó đang đi dần vào con đường khủng hoảng, suy thoái.

Ngay từ nhỏ, tuy xuất thân trong một gia đình bình thường nhưng Chu Văn An đã được mẹ là bà Lê Thij Chiêm lo cho ăn học chu đáo. Vốn có lòng hiếu học, coi việc học làm đầu nhưng không cầu danh lợi, thú vui lớn nhất của Chu Văn An ngay từ nhỏ là ở nhà đọc sách.

Thầy giáo Chu Văn An ngay từ hồi còn trẻ đã nổi tiếng là một người cương trực, sửa mình trong sạch, giữ tiết tháo, không cầu danh lợi.

Chu Văn An có nghị lực chuyên cần học tập, nghiêm khắc sửa mình khi trưởng thành. Ông đạt đến mức thông minh, bac sử, tài năng đức độ hơn hẳn các nho sĩ đương thời.

Khi thi đỗ Thái học sinh, tức tiến sĩ dưới triều Trần, ông không ra làm quan, mà trở về mở trường dạy học ở quê nhà.

Tâm huyết với nghề dạy học, không màng danh lợi, Chu Văn An bắt đầu sự nghiệp với một mái tranh đơn sơ ở làng Huỳnh Cung, giáp với làng Quang quê mẹ. Tuy là trường ở làng quê, nhưng cũng có thư viện, thầy Chu dạy học trò từ hạng ấu học, mộng học, trung tập và đại tập (tương đương với vỡ lòng, tiểu học, trung học và đại học), tùy theo mỗi hạng mà thầy Chu có cách dạy khác nhau, nhưng tài liệu giảng dạy cơ bản vẫn là những sách kinh điển của Nho gia (Tứ thư, Ngũ kinh).

Học trò nhiều nơi tìm đến theo học rất đông, có tới 3.000 người. Có cả học trò từ Kinh Bắc, Sơn Nam, Châu Hồng, Châu Hoan đến học chật cửa.

Trường Huỳnh Cung đã đào tạo nên rất nhiều trò giỏi. Khoa thi năm 1314, dưới thời vua Trần Minh Tông, trường có hai học trò đỗ Thái học sinh là Lê Quát và Phạm Sư Mạnh, cả hai đều làm quan dưới triều Trần (Lê Quát được thăng đến chức Thượng thư).

Một trong những nguyên tắc cốt yếu để cảm hóa học trò của thầy Chu Văn An chính là: muốn dạy bảo trò tốt thì thầy phải nghiêm, phải luôn là tấm gương đạo đức cho học trò. Những môn sinh do thầy Chu Văn An đào tạo, dù làm quan to hay vinh hiển đến mức độ nào cũng luôn dành cho thầy một sự tôn kính và lễ độ. Sách Đại Việt sử ký toàn thư đã chép lại việc các đại quan trong triều là học trò của thầy vẫn giữ lễ, khi đến thăm thầy thì lạy, được tiếp chuyện với thầy thì lấy làm vui mừng.

Trong số môn đệ của Thầy có nhiều người thành đạt, thi đỗ ra làm quan to trong triều như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát khi về thăm thầy vẫn giữ lễ, được thầy nói chuyện ít lời thì rất lấy làm mừng. Có những học trò cũ không tốt, ông thẳng thắn quở trách, thậm chí quát mắng không cho gặp. Tính nghiêm nghị, tư cách thanh cao và học vấn sâu rộng làm cho tiếng tăm ông ngày càng lan xa. Đức độ và uy tín của ông như vậy, khiến cho học trò đến theo học càng nhiều và có đủ các loại.

Tài đức và danh tiếng của thầy Chu Văn An vang đến kinh đô Thăng Long, vua Trần Minh Tông (lên ngôi năm 1314) mời ông ra kinh thành dạy học tại Quốc Tử Giám, ngôi trường lâu đời, chuyên đào tạo các hoàng tử, con các vị quan lại với mong muốn thầy Chu sẽ truyền đạt những giáo lý Nho giáo của mình cho họ, những người rất có thể sẽ trở thành những bậc đại quan trong triều đình sau này.

Vua Trần Minh Tông đã giao cho thầy Chu Văn An chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám (tương đương chức Phó Hiệu trưởng) và dạy học cho Thái tử Trần Vượng (sau này là vua Trần Hiến Tông), đào tạo một vị vua mới cho nước Đại Việt. Người đứng đầu Quốc Tử Giám lúc này là quan Tể tướng Trần Nguyên Đán (ông ngoại của danh nhân Nguyễn Trãi, cũng là ông nội của danh tướng Trần Nguyên Hãn), ông rất quý mến tài đức của Chu Văn An, hay tin thầy Chu đồng ý về kinh thành Thăng Long dạy học nên đã hết lòng giúp đỡ.

Đồng thời với nhiệm vụ dạy học cho vua, thầy Chu Văn An còn ra sức phát triển trường Quốc Tử Giám. Thành tựu lớn nhất của thầy Chu khi dạy học tại đất Thăng Long chính là bộ Tứ thư thuyết ước (bộ sách tóm lược nội dung của 4 cuốn sách của Nho gia là Đại học, Trung dung, Luận ngữ và Mạnh Tử), đây chính là giáo trình dạy học chính của thầy Chu Văn An tại Quốc Tử Giám.

Tiếc thay tập giáo trình này đã bị nhà Minh lấy mất. Nếu còn bộ sách, chúng ta sẽ hiểu cụ thể quan điểm của ông. Ơở miếu thờ Chu Văn An ở làng Huỳnh Cung còn ghi lời của Bùi Huy Bích (1744 - 1802) có đoạn, tạm dịch: Kính nghĩ phu tử, tinh thông về lý học, khi ra đời (xuất thế) cũng vì Lễ, khi ở ẩn (thoái ẩn) cũng vì nghĩa. Những học trò của ngài đã đem bày tỏ rõ ràng được đạo Nho, chống lại tà thuyết, gạt bỏ mê tín. Phong thái và ảnh hưởng của ngài dù đến trăm năm sau cũng cảm thấy như chính mình đang ở gần ngài. Trong Kinh thi, chẳng đã có câu: Núi cao, ngửa trông thấy càng cao, đường lớn càng đi càng thấy xa...

Chu Văn An là chủ xướng 4 quan điểm sau:

Cùng lý: bàn cãi cho biết lý lẽ của sự vật. Chính tâm: luôn luôn giữ lòng mình cho chính, không làm điều gì trái với lương tâm. Tịch tà: chống lại tà thuyết, những điều nhảm nhí. Cự bí: đấu tranh vượt mọi khó khăn, chống lại những sự việc làm hại đến nhân tâm. Ở bốn quan điểm này, chúng ta thấy Chu Văn An quan tâm đầy đủ cả hai mặt trí dục và đức dục, học và hành.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
11
5
Quỳnh Anh Đỗ
01/01/2018 10:48:55
Chu Văn An sinh năm Nhâm Thìn (1292), mất năm Canh Tuất (1370), tên hiệu là Tiều Ản, tên chữ là Linh Triệt, người làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm (nay là huyện Thanh Trì, Hà Nội).
Chu Văn An ngay từ hồi còn trẻ đã nổi tiếng là người cương trực, luôn sửa mình trong sạch, giữ tiết tháo, không màng danh lợi, chỉ thích ở nhà đọc sách thánh hiền. Khi thi đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ), ông không ra làm quan như những người khác mà về quê nhà mở trường dạy học. Học trò khắp nơi về xin học rất đông. Học trò của ông không chỉ được học chữ thánh hiền mà còn được dạy về đạo đức của bậc trí nhân quân tử. Về sau, dù ở cương vị nào, họ cũng là những tấm gương về tài năng và đức độ. Trong số đó, nổi tiếng nhất phải kể đến Phạm Sư Mạnh và Lê Quát, cả hai đều đỗ Thái học sinh và làm quan đến chức Hành khiển trong triều Trần. Dù quyền cao chức trọng nhưng mỗi lần tới thăm thầy, họ đều quỳ gối để được thỉnh giáo.
Điều đó một mặt cho ta thấy đạo đức tuyệt vời của học trò chốn cửa Khổng sân Trình nhưng mặt khác khẳng định Chu Văn An phải là người tài năng và đức độ như thế nào mới được học trò trọng vọng như vậy. Có huyền thoại kể rằng, ngay cả thần nước cũng tìm tới ông để học, nhân một năm trời hạn hán vì vâng lời thầy, người học trò thủy thần ấy đã làm phép gọi mưa giúp dân, dù biết trước là phải chết. Câu chuyện nửa phần hư thực đó mãi mãi là một giai thoại không thể kiểm chứng nhưng dù sao nó cũng thể hiện sự đức độ của thầy Chu Văn An có sức cảm hóa cả trời đất, quỷ thần.
Danh tiếng của Chu Văn An vọng đến triều đình, vua Trần Minh Tông mời ông vào làm Tư nghiệp (Hiệu trưởng) Quốc tử giám, trực tiếp dạy Thái tử học. Ngoài việc dạy học, ông cùng với Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn đã tham gia vào việc triều chính, củng cố triều Trần lúc đó đang đi vào con đường khủng hoảng, suy thoái.
Đến thời Trần Dụ Tông, chính sự ngày càng thối nát, bọn nịnh thần bòn rút của cải, xúi giục vua làm những điều trái luân thường đạo lý, bọn gian thần nổi lên như ong. Chứng kiến cảnh người học trò của mình sa đọa như vậy và lo sợ đất nước suy vong, Chu Văn An đã dâng Thất trảm sớ xin chém bảy tên nịnh thần đang thao túng triều đình. (Hiện Thất trảm sớ bị thất truyền nên chúng ta không rõ nội dung của nó thế nào, chỉ biết thời Dụ Tông có những tên gian thần nổi tiếng như Trâu Canh, Bùi Khoan, Trần Ngô Lang). Thế nhưng vua chỉ xem qua và im lặng. Có lẽ sự im lặng khủng khiếp đó đã một phần nào đẩy nhà Trần – một triều đại lừng lẫy chiến công trong lịch sử nhanh chóng suy thoái mà không thể nào cứu vãn được.
Chu Văn An thất vọng, ông treo mũ ở cửa Huyền Vũ rồi từ quan, về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng thuộc làng Kiệt Đắc, huyện Chí Linh lấy hiệu là Tiều Ẩn (người đi ẩn hái củi). Các bậc túc nho là vậy, họ luôn hành xử theo triết lý của Nho giáo “Dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng” (Được dùng thì làm, không được dùng thì giấu mình đi).
Sau này, Nguyễn Trãi về với Côn Sơn để hòa mình với tiếng thông reo, tiếng suối chảy róc rách hay Nguyễn Bỉnh Khiêm về bên Tuyết Giang lập am Bạch Vân vui thú cảnh điền viên cũng cùng một tâm thế như vậy. Cuộc đời đang vẩn đục muốn giữ danh tiết ta phải chọn dòng trong. Hỏi mấy ai bây giờ hành xử được như họ?
Thế nhưng cũng như Nguyễn Trãi vẫn “một tấc lòng ưu ái cũ, đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng”, nên dù về ở ẩn ở núi Phượng Hoàng nhưng mỗi lần triều đình có hội, Chu Văn An vẫn chống gậy về kinh. Đặc biệt, khi vua Trần Nghệ Tông lên ngôi, lúc này Chu Văn An đã gần 70 tuổi, ông vẫn chống gậy về Thăng Long để bày tỏ tấc lòng của mình với đất nước, bởi hơn ai hết, Chu Văn An kỳ vọng vị vua này có thể thay đổi thời cuộc, cứu vãn cơ đồ nhà Trần. Thế mới biết tấm lòng yêu nước sâu nặng của ông như ngó sen đã đứt mà tơ còn vương vậy.
Hình ảnh thầy Chu Văn An tuổi đã già, tóc đã bạc mà vẫn thân hành chống gậy về kinh đó luôn có sức lay động, thức tỉnh chúng ta về ý thức trách nhiệm đối với nhân dân và đất nước. Theo tôi nghĩ, chúng ta những ai đã chọn nghiệp trồng người thì dạy dỗ được một học sinh nên người cũng là biểu hiện cụ thể thiết thực của lòng yêu nước trong thời đại mới.
Chu Văn An sống và dạy học ở ngôi nhà nhỏ giữa chân núi Phượng Hoàng và Kỳ Lân cho đến lúc viên tịch. Vua Trần đã cho thờ ông ở Văn Miếu và ban cho tên thụy là Văn Trinh. Văn là bên ngoài của đức, Trinh là sự chính trực, kiên định của đức. Vua ban tên Thụy như vậy để ngợi ca con người kết hợp được hai mặt của đạo đức bên ngoài thuần nhã, hiền hòa với bên trong chính trực kiên định ở Chu Văn An.
Cuộc đời Chu Văn An có nhiều thăng trầm nhưng lịch sử mãi nhắc đến ông như một biểu tượng của người thanh liêm, chính trực. Thời Trần Dụ Tông, ai cũng biết bọn nịnh thần đáng trăm lần chết nhưng chỉ Chu Văn An dám dâng sớ chém chúng. Khi tâm nguyện của ông không được chấp nhận, ông lập tức khước từ quyền cao, chức trọng để về làm người hái củi ở núi Phượng Hoàng.
Con người đang đi giữa hai bờ danh thực bỗng tự ném mình ra khỏi quỹ đạo ấy thật không dễ dàng gì. Chỉ riêng việc nói lên sự thật thôi đã khó biết bao nhiêu. Ngay trong cuộc sống và công việc của chúng ta cũng vậy, có nhiều điều chúng ta thừa biết là sai nhưng chẳng ai dám nói vì sợ ảnh hưởng đến danh lợi của mình.
Nếu muốn học điều gì từ thầy Chu Văn An, tôi nghĩ trước hết chúng ta nên học cách biết nói thật và bảo vệ sự thật. Là trí thức, những lời xuất phát từ tấm chân tình của ta nếu biết nói ra đúng lúc có thể khiến mọi người không hiểu sai về nhau, tạo nên tinh thần đoàn kết để xây dựng một cuộc sống nồng ấm tình người. Tôi tin đó cũng là tâm nguyện của rất nhiều người.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k
Gửi câu hỏi
×