Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

30/05/2018 14:07:06

Nêu suy nghĩ của em về tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Đình Chiểu thể hiện qua một số đoạn trích của Truyện Lục Vân Tiên

5 trả lời
Hỏi chi tiết
4.521
8
0
mỹ hoa
30/05/2018 14:07:58
Đạo lý thương người như thể thương thân, thấm nhuần và toả rạng trong hành động của Vân Tiên. Tình thương người đã nâng cao chí khí và lòng dũng cảm cho chàng thư sinh họ Lục. lời nói chắc nịch vừa để đối chứng, phê phán những kẻ tầm thường vừa đẻ khẳng định việc làm đúng đắn, tất yếu thuộc căn cốt, gốc rễ trong lẽ sống của mình. Đó là lẽ sống của những hiền nhân quân tử thời xưa, của con người chân chính ngày nay.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
4
0
mỹ hoa
30/05/2018 14:08:51
Nhân nghĩa là đạo đức của nhân dân, là gốc rễ để trau dồi rèn dũa con người. Tư tưởng cao đep ấy được Nguyễn Đình Chiểu chuyển tải vào trong truyện thơ rất gần gũi với nhân dân nói chung và người dân Nam Bộ nói riêng.Vẻ đẹp của tư tưởng ấy được toát lên, tỏa sáng qua những hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm Lục Vân Tiên .
Lục Vân Tiên là con nhà thường dân, học giỏi, mong muốn thi cử đỗ đạt để được làm quan giúp vua, giúp nước. Giữa đường đi thi gặp cướp đang quấy nhiễu cuộc sống bình yên của nhân dân, chàng dã lên tiếng:
Tôi xin ra sức anh hào
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này.
Và chàng đã bẻ cây làm gậy, dũng cảm tả xung hữu đột, đánh tan tác giặc Phong Lai. Hành động đánh cướp của Vân Tiên oai hùng dũng mãnh giống Triệu Tử Long chiến đấu với kẻ thù để bảo vệ ấu chúa cho ngôi vua nhà Hán:
Vân Tiên tả đột hữu xung
Khác nào Triệu Tử mở dòng Đương Dương.
Với Triệu Tử Long đó là đạo trung với vua với nước. Với Vân Tiên, người đọc yêu quý hơn, sâu xa Nguyễn Đình Chiểu muốn đề cao là Vân Tiên đánh cướp vì người dân gặp nạn, nhằm cứu dân, diệt trừ cái ác. Đánh cướp cứu dân, giải thoát cho Kiều Nguyệt Nga - con gái quan tri phủ, con đường công danh của Vân Tiên sẽ rất rộng mở nếu chàng nhận lời mời của nàng đến thăm nhà để được tạ ơn. Nhưng Vân Tiên đã khẳng khái chối từ: Làm ơn há dễ trông người trả ơn. ơn nghĩa là chuyện ở đời. Nhưng làm ơn không nghĩ đến trả ơn là lối hành xử của người có học, của người quân tử và cũng là đạo lý của nhân dân:
Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
Kẻ nào đi ngược lại với truyền thống đạo lý của dân tộc chỉ là kẻ tiểu nhân, tầm thường. Vì vậy bên cạnh ngợi ca Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu còn đề cao nghĩa khí của Hớn Minh, Tử Trực, ông Quán.Về chữ Hiếu trong Lục Vân Tiên đã thực sự làm người đọc xúc động bởi nó vừa cao đẹp vừa gần gũi trong cuộc sống thường nhật của người lao động. Truyện kể về Vân Tiên đang trên đường đi thi, nghe tin mẹ mất, quá thương xót mẹ, chàng khóc lóc thảm thiết. Chàng đã bỏ thi - bỏ dở cả con đường công danh sự nghiệp sáng lạn đang ở phía trước, quay về quê để chụi tang mẹ. Trên đường về khóc thương mẹ đến thành bệnh mà mù mắt. Mắt đã mù nhưng nỗi sầu vẫn chưa nguôi ngoai:
Ôi thôi! Con mắt đã mang lấy sầu
Mịt mù nào thấy gì đâu.
Truyện Lục Vân Tiên còn đề cao chữ tiết hạnh. Tuy nhiên, Kiều Nguyệt Nga thủy chung son sắt với Lục Vân Tiên theo quan niệm tình yêu lấy chữ nghĩa làm gốc chứ không phải là tình. NNga là tiểu thư con tri phủ, nàng được giáo dục chu đáo nhất là chữ tiết. Vậy mà sau khi được Vân Tiên cứu thoát khỏi tay bọn cướp, nàng đã nói những lời đẹp nhất để bày tỏ sự cảm kích và ân tình của mình với Vân Tiên:
Lâm nguy chẳng gặp giải nguy
Tiết trăm năn cũng bỏ đi một hồi.
Sau này gặp nạn nàng vẫn thủy chung với Vân Tiên, xem Vân Tiên như là chồng của mình. Hay tin Vân Tiên mất nàng vẽ ra bức tượng để thờ. Khi bị đưa đi cống phiên cho giặc Ô Qua, Nguyệt Nga đã ôm bức tượng Vân Tiên nhảy xuống sông tự vẫn. Được cứu thoát, nàng sống với bà lão trong rừng và một mực thờ bức tượng Vân Tiên. song song với tư tưởng nhân nghĩa, đề cao đạo lý của dân tộc, truyện còn thể hiện tư tưởng nhân- quả. Đó là trừng trị kẻ bất nhân phi nghĩa, người tốt được hưởng hạnh phúc. Luật Nhân quả mang tư tưởng Phật giáo. Nhưng nhân quả trong Lục Vân Tiên rất gần với cuộc sống và ước mơ của nhân dân. Tư tưởng Phật giáo là khổ kiếp này, kiếp sau được hưởng hạnh phúc, còn với Lục Vân Tiên kẻ ác bị trừng trị đích đáng và một kết thúc có hậu ngay sau những gian truân khổ cực cho những người hiền lành. Đó cũng là đạo lý sống ở đời của dân tộc ta. Truyện là bản án kết tội những kẻ bất nhân, lòng lang dạ sói như: Gia đình Võ công lật lọng với chàng rể tương lai họ Lục đang lúc gặp họa; Trịnh Hâm đố kị, phản trắc phạm tội giết người; Bùi Kiệm thiếu tình, thiếu nghĩa tình cách tranh vợ sắp cưới của bạn. Những kẻ như thế không chỉ bị phỉ nhổ mà còn bị trừng trị: Võ Thể Loan bị cọp bắt bỏ vào hang đến chết; Trịnh Hâm bị sóng thần nhấn chìm thuyền và bị cá nuốt sống. Những người được người đời yêu quý bởi những phẩm chất tốt đẹp trải qua bao sóng gió, bất hạnh, chia lìa cuối cùng họ được sum họp, hưởng hạnh phúc trong cuộc đời thực:
Từ đây toại chí muôn phần
Hết cơn bĩ cực đến hồi thái lai.
Tư tưởng ác giả ác báo, gieo gió gặp bão, ở hiền gặp lành đã có từ trong dân gian, trong truyền thống cổ truyền của dân tộc nhưng được Nguyễn Đình Chiểu đưa vào tác phẩm bằng cả trái tim nhiệt huyết, bằng cả tài năng nghệ thuật. Vì vậy nó có một sức sống mãnh liệt trong lòng nhân dân.
4
0
Dương Tú
30/05/2018 14:36:21
Đạo lý thương người như thể thương thân, thấm nhuần và toả rạng trong hành động của Vân Tiên. Tình thương người đã nâng cao chí khí và lòng dũng cảm cho chàng thư sinh họ Lục. Bọn cướp đông đặc, gươm giáo sáng ngời, bừng bừng sát khí. Còn Vân Tiên chỉ có một vũ khí thô sơ “cây gậy bên đàng ”. Thế mà trong cuộc chiến không cân sức ấy :
Vân Tiên tả đột hữu xông
Khác nào Triệu Tử mở vòng Đương Dương.
Không tả tỉ mỉ trận chiến, chỉ bằng mấy dòng thơ ngắn gọn mà đặc sắc cùng nghệ thuật so sánh, tác giả đã làm nổi bật hình ảnh một dũng tướng đánh nhanh, kín võ, sánh ngang Triệụ Tử Long thời Tam Quốc trong trận phá vây quân Tào bảo vệ ấu chúa. Việc làm của Vân Tiên cao đẹp hơn bởi nó xuất phát từ lòng nhân từ, từ tư tưởng cứu dân diệt ác nên giản dị, vô tư mà trong sáng, cao đẹp vô cùng. Cuộc chiến của chàng giống hệt thuở xưa Thạch Sanh diệt đại bàng cứu nàng công chúa. Sức mạnh của chàng là kết tinh sức mạnh của nhân dân, của điều thiện nên nó vô địch :
Lâu la bốn phía vỡ tan
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay
Phong Lai trở chẳng kịp tay
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.
Lời thơ chân chất, thô mộc song hồn thơ thì chan chứa dạt dào. Nó nêu bật một chân lý : kẻ bất nhân độc ác thì thảm bại, người anh hùng làm việc nghĩa sẽ chiến thắng.
Tự nguyện dấn thân vào nguy hiểm, chiến đấu hết mình, thắng lợi rực rỡ…Tất cả đều vì nhân nghĩa, nên sau thắng lợi Vân Tiên không hề kiêu ngạo. Trái lại chàng thật khiêm nhường, chính trực, chân thành mà dung dị. Cuộc kỳ ngộ giữa người đẹp và trang anh hùng diễn ra thật cảm động. Nguyệt Nga tha thiết muốn mời chàng hiệp sĩ qua miền Hà Khê để nàng báo đức thù công, “ Vân Tiên nghe nói liền cười” – nụ cười đáng yêu đáng kính của một tâm hồn vô tư hào hiệp. Chàng cười bởi chàng quan niệm :
Làm ơn há dễ trong người trả ơn
Nay đà rõ đặng nguồn cơn
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.
Đúng là giọng nói, cách nói của chàng trai Nam Bộ – nôm na, giản dị mà chất phác vô cùng. Đằng sau những lời giản dị ấy là ngọt ngào, thơm thảo một quan niệm nhân sinh, một tấm lòng nhân ái, hào hiệp. Với chàng, ơn nghĩa là việc thông thường của người sống có văn hoá, đang theo đòi kinh sử, hướng về nghĩa khí, lấy chữ nhân làm động cơ, làm mục đích cho mọi hành động. Chàng hành động vì lòng nhân, vì nghĩa lớn, trừ kẻ ác, bảo vệ người lương thiện. Chàng quan niệm :
Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
Lời nói chắc nịch vừa để đối chứng, phê phán những kẻ tầm thường vừa đẻ khẳng định việc làm đúng đắn, tất yếu thuộc căn cốt, gốc rễ trong lẽ sống của mình. Đó là lẽ sống của những hiền nhân quân tử thời xưa, của con người chân chính ngày nay.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu, nhân vật Lục Vân Tiên mang cốt cách của tráng sỹ thời loạn, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, trọng nghĩa khinh tài, sống và hành động theo phương châm : “Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha ”. Dẫu còn bị ảnh hưởng bởi quan niệm phong kiến “nam nữ thụ thụ bất thân ” song ngôn ngữ, cử chỉ, hành động của chàng rất đẹp, rất anh hùng. Lòng thương người, chí quả cảm và tinh thần vị nghĩa của chàng đậm màu sắc đạo lý của dân tộc ta.
Bằng giọng thơ phóng khoáng, chân mộc và ngôn từ bình dị, đoạn trích đã hoàn thiện một cách xuất sắc hình ảnh chàng Lục Vân Tiên anh hùng, nghĩa hiệp. Có thể nói, Lục Vân Tiên đúng là nhân vật lí tưởng mà Nguyễn Đình Chiểu muốn gửi gắm ước mơ, khát vọng cứu nước giúp đời của mình. Đọc thơ càng thêm trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của nhà nho yêu nước, yêu đạo lý mà người dân Nam Bộ vẫn trìu mến gọi là Đồ Chiểu.
2
0
Ngọc Trâm
30/05/2018 15:56:51
Nguyễn Đình Chiểu đã sống trong một thời đại lịch sử "khổ nhục nhưng vĩ đại" nửa sau thế kỷ XIX. Khổ nhục vì giai cấp phong kiến hèn nhát đầu hàng Pháp, các phong trào yêu nước lần lượt bị thất bại. Vĩ đại vì sự quật khởi mãnh liệt của nhân dân ta đưa đến sự kết hợp gắn bó giữa tư tưởng nhân dân với tư tưởng yêu nước của thời đại. Chính điều này đã chắp cánh cho thơ văn Đồ Chiểu: tư tưởng đạo lí truyền thống của nhân dân phát triển thành tư tưởng yêu nước chống xâm lược khi đất nước bị ngoại xâm.
Nhận định về thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu, một ý kiến cho rằng:"Thơ văn đạo lí của Nguyễn Đình Chiểu thể hiện đạo làm người trong cuộc sống đời thường và thơ văn yêu nước của ông thể hiện đạo làm người khi đất nước bị xâm lược".
Ta hãy giải thích và chứng minh ý kiến trên qua một số thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu.
Sáng tác văn chương để phát huy đạo lí là tôn chỉ của nhà nho: "Văn dĩ tải đạo". Chính Nguyễn Đình Chiểu đã khẳng định nhiệm vụ đấu tranh bảo vệ đạo lí của văn chương:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khắm;
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
(Than đạo)
Tuy nhiên, khác với thơ văn nặng nề thuyết lí đạo đức theo hệ thức phong kiến, nội dung thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu được đúc kết từ đời sống hằng ngày của nhân dân, là đạo đức nhân dân và thể hiện rõ nét trong Truyện Lục Văn Tiên.
Truyện Lục Vân Tiên đã ca ngợi các mặt khác nhau của đạo làm người trong cuộc đời thường qua một số nhân vật tiêu biểu. Trước hết là nhân vật trung tâm Lục Vân Tiên, một thư sinh có hoài bão cao đẹp:
Làm trai trong cõi thế gian
Phò đời giúp nước phơi gan anh hào.
Chàng còn là một con người hiếu thảo, nghe tin mẹ mất, đau xót khóc than đến mù mắt:
Hai hàng lụy ngọc nhỏ sa
Trời Nam đất Bắc xót xa đoạn trường.
Nếu "trai thời trung hiếu" là chàng thư sinh họ Lục thì "gái thời tiết hạnh" chính là nhân vật Kiều Nguyệt Nga. Nguyệt Nga tiết hạnh, giữ lòng chung thủy, dù trải bao gian nan thử thách, kể cả cái chết cũng chẳng đồi dời:
Nàng rằng trước đã trọn nguyền
Dẫu thay mái tóc, phái nhìn môi ta.
Ngoài Vân Tiên và Nguyệt Nga, các nhân vật khác cũng thể hiện rất rõ "đạo làm người trong cuộc đời thường".
Nhân vật Hớn Minh nghĩa khí "kiến ngãi bất vi" là "phí anh hùng", cho nên gặp kẻ gian tà thì sẵn sàng trừng trị:
Tôi bèn nổi giận một khi
Vật chàng xuống dó bẻ đi một giò.
Còn Vương Tử Trực trọng nghĩa bằng hữu, đã từng lên án thói bội bạc, vô luân của gia đình họ Vô:
Nói sao chẳng biết hổ thầm
Người ta há phải là cầm thú sao?
Tiểu đồng mến chủ, tận tụy lo toan cho Vân Tiên trong cơn hoạn nạn, rồi thờ cúng mồ chủ trong mấy năm dài:
Tiểu đồng trước giữ mộ phần
Ngày qua tháng lại đã gần ba năm.
Ông ngư có tấm lòng trọng nghĩa nhân thật đáng quý:
Ngư rằng lòng lão chăng mơ,
Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn.
Ông tiểu thi ân bất cầu báo:
Già hay thương kẽ thảo ngay
Làm ơn mà lại trông người sao hay?
Vừa ca ngợi những tấm gương sáng của đạo làm người, tác phẩm còn lên án những thói bội bạc, gian tà, vô nhân qua một số nhân vật phản diện xấu xa.
Trước hết, gia đình họ Võ chê bai chàng rể đui mù nên bội hôn, lại mưu hại người một cách bất nhân:
Ra đi đương lúc tam canh
Dắt vào hang tối bỏ đành Vân Tiên.
Rồi gã Trịnh Hâm hiểm ác, chỉ vì lòng đố kị mà hại bạn một cách tàn nhẫn:
Trịnh Hâm khi ấy ra tay
Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời.
Sau hết là "chàng Bùi Kiệm máu dê" dâm ô, đã ép duyên vợ của bạn bằng những lời lẽ vô liêm sỉ:
Chính chuyên làm sự đổi dời
Lăng vân trắc nết hết đời cũng ma.
Xã hội trong Truyện Lục Vân Tiên không chỉ hiện diện bọn Trịnh Hâm, Bùi Kiệm gian hiếm, bọn Đặng Sinh ỷ thế làm càn, bọn tham vàng bỏ nghĩa Võ Công, mà còn nhiều bộ mặt xấu xa gian ác khác. Dối trên ép dưới, ghen hiền ghét ngỏ là thái sư trong triều, gian dối lừa đảo, sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi là lũ thầy thuốc, thầy bói, thầy cúng, ... Chứng đối lập với những con người sáng ngời đạo đức như Vân Tiên, Nguyệt Nga, Hớn Minh, Tử Trực. Tuy trải qua nhiều gian nan nguy hiểm nhưng cuối cùng những người tốt vẫn được hưởng sung sướng, hạnh phúc. Đó chính là giấc mơ lớn về cuộc sống tốt đẹp với những con người tốt đẹp, sống theo đạo lí của nhân dân, như nhân dân mơ ước.
Năm 1859, thực dân Pháp xâm lược nước ta, Nguyễn Đình Chiểu sáng tác thơ văn theo một hướng mới. Mảng thơ văn đạo lí về cuộc đời thường đã phát triển một bậc, trở thành thơ văn yêu nước, với hai nội dung chủ yếu: tố cáo tội ác của giặc và ca ngợi những tấm gương yêu nước sáng ngời. .
Bài thơ Chạy Tây mở đầu bộ phận thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu, đã cực tả cảnh tàn phá quê hương Nam Bộ dưới gót giày xâm lược của giặc Pháp:
Bến Nghé của tiền tan bọt nước;
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.
Cho nên, nhân dân ta căm thù. Lúc đầu, nghe thây kẻ thù hôi tanh nên ghét:
Mùi tinh chiên vấy vả đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.
(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Sau đó, kẻ thù hiện hình cụ thể ngay trước mắt, toàn màu gay gắt "trắng lốp", "đen sì", lòng căm ghét của họ chuyển sang căm thù:
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Cảnh chạy giặc của nhân dân làm Đồ Chiểu xót xa:
Bỏ nhà lủ trẻ la xơ chạy,
Mất ổ dàn chim dáo dác bay.
(Chạy Tây)
Cảnh nô lệ của nhân dân làm Đồ Chiểu đau đớn:
Kể mười mấy năm trời khốn khó, bị tù, bị đày, bị giết, trẻ già nghe nào xiết đếm tên;
Đem ba tấc hai mọn bỏ liều, hoặc sông, hoặc biển, hoặc núi, hoặc rừng, quen lạ thấy đều rơi nước mắt.
(Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc)
Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu còn vạch mặt bọn người theo giặc, phản bội quê hương, bọn "theo quân tả đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc" đế "ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì", những kẻ tham danh cầu lợi "ăn dơ tanh rình, đổi hình tóc râu":
Thảo ngay chẳng biết, lỗi nghi thiên luân.
Rốt cuộc sẽ:
Lung lòng nhân dục, chuốc tai họa trời.
(Ngư Tiểu y thuật vấn đáp)
Bên cạnh thơ văn tố cáo tội ác của thực dân Pháp xâm lược và vạch mặt bọn người phản bội quê hương, Nguyễn Đình Chiểu còn ca ngợi những người yêu nước. Đây là mảng thơ có giá trị hàng đầu trong bộ phận thơ văn yêu nước chống Pháp vào cuối thế kỉ XIX. Khi giặc mới đặt chân lên Nam Bộ, Nguyễn Đình Chiểu đã xúc động biểu dương những người "dân ấp, dân lân". Họ là những nông dân lam lũ làm ăn, nhưng vì mến nghĩa nước nhà nên tự nguyện chiến đấu và dũng cảm hi sinh. Qua thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, họ trở thành những người anh hùng mang tầm vóc lịch sử:
Thác mà trá nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chung đều khen;
Thác mà ưng đinh miếu để thờ, tiếng ngay trái muôn đời ai cũng mộ.
(Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc)
Khi triều đình hàng giặc, cắt đất cầu hòa, lại bắt người kháng chiến buông gươm, giữa trang thơ văn Nguyễn Đình Chiểu vẫn rạng ngời hình ảnh lãnh tụ nghĩa quân Trương Định hiên ngang chống giặc:
Núi đất nửa năm ngăn giặc, nào thành đồng lũy sắt các nai;
Giáo tre ngàn dặm đánh Tây, là ngựa xe giáp nhung mấy cái.
(Văn tế Trương Công Định)
Hình ảnh nghĩa sĩ Phan Tòng bất khuất:
Anh hùng mà thác chẳng đầu Tây,
Một giấc sa trường phận củng may.
(Thơ điếu Phan Công Tòng)
Đến khi Nam Bộ hoàn toàn rơi vào tay giặc, sau đó cả đất nước chìm vào vòng nô lệ, thì chính người trí thức Kì Nhân Sư tự xông mù đôi mắt để kiên quyết bất hợp tác với kẻ thù, thà bỏ đi cái sáng mắt để giữ vẹn cái sáng lòng:
Sự đời thà khuất đôi tròng thịt
Lòng đạo xin tròn một tấm gương.
(Ngư Tiều y thuật vấn đáp)
Tóm lại, thơ văn đạo lí của Nguyễn Đình Chiểu xuất phát từ truyền thống đạo lí của dân tộc, ca ngợi đạo làm người trong cuộc đời thường, có giá trị giáo dục sâu sắc. Còn thơ văn yêu nước của ông "không đi bên lề các cuộc khởi nghĩa, mà trực tiếp tham gia vào phong trào kháng chiến như một thành viên thực sự. Nó giải quyết những khúc mắc về tư tưởng, động viên tinh thần nghĩa sĩ và nhân dân. Vì vậy nó cũng hầu như mang nguyên vẹn cái âm điệu bi hùng của cuộc sống và con người thời đại". (Phạm Văn Phúc).
2
0
Quỳnh Anh Đỗ
31/05/2018 07:19:45
1. Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là tác phẩm tiêu biểu cho bộ phận thơ văn yêu nước chống Pháp của Nguyễn Đình Chiểu. Lần đầu tiên người anh hùng nông dân yêu nước chống ngoại xâm đã bước vào tác phẩm văn học Việt Nam với vẻ đẹp rực rỡ nhất.
- Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là tiếng khóc của dân tộc khóc cho người nông dân anh hùng đã hi sinh trong chiến đấu đuổi giặc thù ra khỏi quê hương. Qua tiếng khóc ấy, Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng được tượng đài nghệ thuật mang tính bi tráng về người nông dân yêu nước chống ngoại xâm. Điều này đã tạo nên tinh thần nhân đạo của ngòi bút Nguyễn Đình Chiểu.
2. Trước thất bại đau thương, người nông dân Cần Giuộc vẫn được tác giả tạo nên tầm vóc, tư thế hiên ngang, quả cảm.
- Người nông dân yêu nước được thể hiện trong vẻ đẹp rực rỡ của người nghĩa si anh dũng cứu nước. Bởi thế, dù họ lâm vào cảnh chết chóc bi thương nhưng vẫn ngời sáng vẻ đẹp hùng tráng, đậm chất sử thi.
- Nguyễn Đình Chiểu đã tạo được tượng đài nghệ thuật bằng chính cuộc đời người nông dân yêu nước chống Pháp vốn chưa có trong văn học Việt Nam từ trước đến nay.
3. Ca ngợi vẻ đẹp của người anh hùng.
- Đề cao phẩm chất của người nông dân: hiền lành, cần cù, giản dị, chất phác, gắn bó với mảnh ruộng làng quê, yêu cuộc sống hòa bình, không hề biết đến chuyện súng gươm.
- Ca ngợi nghĩa khí của người lao động trong thái độ căm thù quân giặc ngang ngược trắng trợn giày xéo quê cha đất tổ và thái độ thất vọng lo lắng của họ khi nhận thấy triều đình vô trách nhiệm bỏ rơi dân lành trước họa xâm lăng.
- Ca ngợi mục đích, động cơ chiến đấu của người nghĩa quân nông dân rất trong sáng và đúng đạo lí của người Việt Nam. Họ chiến đấu là để bảo vệ tấc đất, ngọn rau, vùa hương, bàn độc, của quê hương gia đình. Họ đi chiến đấu với ý thức rất cụ thể thiết thực của người nông dân Việt Nam.
- Ca ngợi tinh thần tự nguyện tham gia chiến đấu của người nông dân yêu nước. Vì nền độc lập cửa đất nước, vì nổi tủi nhục mất nước nên họ đã từ những người nông dân hiền lành trở thành những con người đi chiến đấu vì đại nghĩa, trở thành nghĩa binh, tự nguyện gánh vác việc đánh giặc cứu nước.
- Khẳng định vẻ đẹp của người nông dân: khi trở thành người nghĩa quân giữ nước thì tinh thần và lòng quyết tâm chiến đấu của họ cao cả vĩ đại. Lòng mến nghĩa cao độ dã giúp họ làm được những việc kinh thiên động địa, chiến đấu và hi sinh anh dũng.
- Yêu quý, trân trọng người lính nông dân ra trận nên tác giả đã miêu tả tinh thần chống Pháp của họ với khí thế mạnh mẽ, bất chấp hiểm nguy, họ đã hành động theo tiếng gọi của lòng yêu nước. Thể hiện điều này, Nguyễn Đình Chiểu đã dùng hàng loạt các động từ diễn tả dồn dập, liên tiếp, dứt khoát, cách ngắt nhịp ngắn gọn để miêu tả khí thế tiến công của người lính khi xung trận.
- Phát hiện ra vẻ đẹp của những người nông dân bình thường sống sau lũy tre xanh, vì nghĩa lớn đã trở thành người anh hùng, thành linh hồn của cuộc kháng chiến giữ nước. Họ trở thành nhân vật lí tưởng được mọi thời đại ca ngợi.
4. Miêu tả nỗi đau thương, mất mát của những người đang sống trước sự hi sinh của người nghĩa sĩ cần Giuộc.
- Nỗi đau đớn, mất mát của những người ruột thịt, của quê hương, của thiên nhiên, đất nước trước sự hi sinh của nghĩa quân Cần Giuộc.
- Ca ngợi, tiếc thương bằng sự thương cảm xót xa. Nỗi tiếc thương thể hiện qua hình ảnh cỏ cây, đất trời đều nhuốm màu tang tóc, nghiêng đổ trước sự hi sinh vì đại nghĩa của những người nông dân.
- Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc đã thực sự trở thành khúc ca bi tráng biểu hiện tấm lòng ngưỡng mộ tiếc thương của cả dân tộc đối với người nông dân yêu nước. Tác giả đã viết về điều này bằng giọng văn xúc động, nghẹn ngào, đau đớn nhất.
5. Ca ngợi, khẳng định quan điểm nhân sinh của người lính nông dân và khẳng định sự bất tử của nghĩa sĩ cần Giuộc.
- Ca ngợi nghĩa quân có quan điếm sống chết đúng đắn, cao quý: Thà thác mà đặng câu địch khái...
- Vì đại nghĩa nên người nghĩa binh đà quên mình sẵn sàng hi sinh chiến đấu cho quê hương, đất nước trong mọi hoàn cảnh: Sống đánh giặc thác cũng đánh giặc...
- Tiếc, thương và ngưỡng mộ, Nguyển Đình Chiểu đã khẳng định sự bất tử của người nghĩa sĩ trong lòng nhân dân.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư