LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Nghị luận tác phẩm Đại cáo bình Ngô

Nghị luận ba tác phẩm văn học : " đại cáo bình ngô ", " phú sông bạch đằng ", " chuyện chức phán sự đền tản viên "
5 trả lời
Hỏi chi tiết
2.145
2
0
$$$$$$
25/02/2019 17:55:57
Nghị luận về tác phẩm văn học " Đại Cáo Bình Ngô "

“Bình ngô đại cáo” là áng “thiên cổ hùng văn” bậc nhất trong văn học chữ Hán cổ điển nước ta, là bản anh hùng ca bằng thể văn biền ngẫu, nêu cao ngọn cờ nhân nghĩa, kể tội quân xâm lược, ngợi ca anh hùng, hào kiệt và võ công trừ bạo của dân tộc ta.
Bài đại cáo còn là khúc trữ tình thiết tha trước nổi đau mất nước, chứa chan niềm tự hào dân tộc và niềm vui chiến thắng. cáo là 1 thể văn cổ có từ thời xưa, hoàng đế thường dùng để bổ nhiệm, phong tặng, bảo ban các quan, toàn dân, được gọi là “cáo mệnh”, “cáo phong”, “cáo giới”... đại cáo vốn là tên 1 thiên trong Thượng thư do Chu Công làm để tuyên bố việc phò tá Thành Vương., phế bỏ nhà Ân, sau trở thành thể laọi văn học công bố sự kiện trọng đại cho thiên hạ biết. đặt tên bài văn này là “bình ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi vừa mún dùng lại tên Đại cáo để công bố đạo lớn, vừa tỏ ý đi theo truyền thống nhân nghĩa lâu đời. Bình là đánh dẹp, Ngô là tên nước cũ thời Tam quốc. Minh Thái tổ Chu Nguyên Chương dấy binh ở đất Giang Tô, lúc đầu xưng là Ngô quốc công, do vậy quân nhà Minh được gọi là quân Ngô. Tên bài này có nghĩa là tuyên bố về sự nghiệp đánh dẹp giặc Ngô.

Là 1 thể văn như có tính quan phương, ko nhất thiết bài cáo nào cũng có giá trị văn học. nhưng vì tầm tư tưởng lón lao, sự kiện trọng đại và lời văn hùng hồn, khảng khái, bài “bình ngô đại cáo” do Nguyễn Trãi làm thay lời Lê Lợi đã trở thành 1 thiên anh hùng ca bằng văn tứ lục.

mở đầu bài cáo, tác giả tuyên bố ngay lập trường chính nghĩa của mình:

“việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

2 câu này có nghĩa là: việc nhân nghĩa cốt làm cho nhân dân được yên, mà muốn cho dân yên thì trước hết fải lo tiêu diệt quân tàn bạo. tư tưởng đó đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử VN. Cho nên, tiếp theo, bài cáo nhắc lại truyền thống “yên dân trừ bạo” của các triều đại “từ triệu Đinh , Lí, Trần bao đời gây nên độc lập”, đời nào cũng có hào kiệt đứng lên trừ bạo để yên dân. kết wả là Lưu Cung đời Hán thất bại, Trêịu Tiết của Tống tiêu vong. Toa Đô, Ô Mã đời Nguyễn kẻ bị giết, ng` bị bắt. đáng chú ý ở đoạn này là ngay từ đầu Nguyễn Trãi khẳng định đó là truyền thống văn hoá Đại Việt. “Đại Việt” là quốc hiệu của nước ta thời Lí, thời Trần. đời nhà Đinh đặt quốc hiệu là “đại Cồ Việt” cũng theo tinh thần đó. đồng thời ông cũng khẳng định mỗi đằng “làm đế 1 fương”, đối chọi với Bắc đế, nối tiếp truyền thống của Lí Nam Đế, Lí Thường Kiệt đời trước. như vậy, bài đại cáo mở đầu ko chỉ với tư tưởng nhân nghĩa, mà còn với tư thế của 1 quốc gia có chủ quyền. Phần mở đầu nhằm khẳng định sự ngiệp Lê Lợi là sự kế tục vẻ vang của các truyền thống đó.

Phần 2 của bài nói đến tội ác của giặc và tình cảnh khốn khó của nhân dân và Đất nước dưới ách thống trị của giặc Minh. cuộc đánh dẹp nào cũng fải có lí do, mà lí do chính đáng nhất là tội ác của quân thù và nỗi khốn khó của nhân dân. Tác giả đã dùng 12 cặp đối để tố cáo kẻ thù và phơi bày nổi khổ nhục của nhân dân. Đáng chú ý nhất là tính chất huỷ diệt tàn bạo tột cùng của quân xâm lược:

“nướng dân đen trên ngọn lừa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”.

“Dân đen”, “con đỏ” là hình ảnh ước lệ chỉ ng` dân trăm họ, vô tội. Quân giặc xem dân ta như dê, như cừu, mặc sức tàn hại. Chúng dối trời, lừa dân, gây binh, tính ác trong 2 mươi năm làm cho nhân nghịa bại hoại, đất trời tan nát. Ko có j` ko bị huỷ diệt tàn bạo:

“nặng thuế khoá sạch ko đầm núi”
Vét sản vật, bắt dò chim sá, chốn chốn lưới chăng
Nhìu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cặm đặt”
“tàn hại cả giống côn trùng, cây cỏ”
Tan tác cả nghề canh cửi...”

số phận thê thàm của nhân dân được nhắc tới với 1 tình cảm xót thương sâu nặng:

người bị ép xuống biển, dòng lưng mò ngọic, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi, đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc”.
“nặng nề những nỗi phu phen”
“nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng”.

Tác giả đã khắt hoạ 1 bức tranh khái quát về tội ác chống chất của kẻ thù, mà “Trúc Nam Sơn ko ghi hết tội”, “nước Đông Hải ko rửa hết mùi”.

Người xưa chép sách và thẻ tre. tội ác của giặc Minh cho dù chặc hết trúc Nam Sơn cũng ko ghi hết tội. “khánh trúc nam thư” là thành ngữ của Lã Thị Xuân Thu, ng` TQ thường dùng để kể tội ác quân giặc trong các bài thơ, họch, ở đây dùng để vạch tội ác giặc Minh, thật là đắc dụng. đoạn kể tội kẻ thù được kết thúc bằng vế đối vang dội, đầy tính kích động như 1 lời hịch:

“lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần dân chịu được”

phần thứ 3 của bài cáo là công bố wá trình dấy binh và kháng chiến thắng lợi. đây là phần trữ tình và sảng khoái nhất của bài văn.

Đoạn 1 của phần này gồm 15 cặp đối nói về ý thức sứ mệnh và buổi đầu dựng nghiệp khó khăn của Lê Lợi. Tác giả đã xây dựng nên hình ảnh ng` anh hùng dân tộc, 1 hình tượng trữ tình cao cả, thống nhất.

bằng phương thức tự giới thiệu, bài đại cáo khắc hoạ tấm lòng, chí khí, tài trí, mục đích đầy nghĩa của Lê Lợi. bằng 1 loạt vị ngữ, đoạn văn thể hiện thế giới nội tâm fong fú. 1 lời tự jới thiệu thật dõng dạc:

“ta đây
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình”

1 ý thức sứ mệnh tự giác xem mối thù của nước, nỗi đau của trăm họ như của chính mình, ngày đêm canh cánh bên lòng suốt 20 năm

“ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề ko cùng sống
Đau lòng nhức óc, chóc đã mười mấy năm trời
nếm mật nằm gai, há fải 1 2 sớm tối”
“wên ăn, wên ngủ, cả trong mộng cũng lo việc lấy lại nước nhà:
những trần trọc trong cơn mọng mị
chỉ băn khoăn 1 nỗi đồ hồi”

những hình ảnh “nếm mật nằm gai”, “quên ăn vì giận”, “trần trọc trong cơn mộng mị” làm nhớ tới gương chịu đựng gian khổ, nung nấu ý chí chiến đấu vì đại nghĩa.

những nỗi gian nan, khó nhọc buổi đầu như thiếu ng`, thiếu quân, thiếu lương thảo đã thử thách tinh thần nhẫn nại, đức wý trọng hiền tài và khả năng tập hợp của Lê Lợi. Ngư ời tài như sao buổi sớm, như lá mùa thu, vốn rất hiếm, còn tấm lòng cầu mong của Lê Lợi cũng rất chân thành “Cổ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành fía tả”.

Bên trái là chỗ ngồi tôn wý mà Nguỵ công tử Tín Lăng Quân dành để mời ng` gác cửa thành là Hậu Doanh cộng tác với mình. Nhưng càng chờ đợi, “người càng vắng bóng”, và vai trò chủ động của minh chủ Lê Lợi càng nổi bật.

tự ta, ta fải dốc lòng, vội vã hơn cứu ng` chết đuối. cuối cùng, ng` anh hùng đã tập hợp được nhân dân dưới cờ đại nghĩa của mình, tạo thành 1 khối đoàn kết tuyệt đẹp:

“nhân dân 4 cõi 1 nhà, dựng cần trúc, ngọn cớ phấp phới
tướng sĩ 1 lòng phụ từ, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào”.

Hình ảnh “dựng cần trúc làm cờ” nói lên tích chết cuộc khởi nghĩa của nhân dân, đừng lên vì nghĩa lớn. hình ảnh “hoà nước sông chén rượu ngọt ngào” thể hiện tinh thần đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi.

Đồng thời Lê Lợi đã có 1 chiến lược, chiến thuật hết sức đúng đắn:

“thế trận xuất kì, lấy yếu chống mạnh
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhìu”.

Đoạn 2 của phần bài kể về cuộc phản công thắng lời. đây là đoạn hào hứng, sảng khoái của bài cáo: nhưng thắng lợi liên tiếp, giòn giã, được kể ra với 1 giọng hả hê, tự hào. ở đây tiếp tục xuất hiện hình tượng ng` lãnh tự thao lược, hình tượng uy lực của nghĩa quân, nhưng nổi bật nhất là hình ảnh thất bại nhục nhã của quân giặc.

Tác giả ko giản đơn kể lại bản tin chiến sự hay bản tổng kết chiến thắng mà còn đem lại niềm tự hào về sức mạnh chính nghĩa:

“Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay”

Lê Lợi “thay trời hành đạo”, tự cảm nhận được uy lực của nghĩa quân mạnh như uy trời, ko 1 sức mạnh nào chống đỡ được:

“gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông fải cạn
Đánh 1 trận, sạch ko kinh ngạc
Đánh 2 trận, tan tác chim muông
Cơn gió trút sạch lá khô
tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ”

các hình ảnh “đá núi mòn”, “nước sông cạn”, “sạch ko kinh ngạc”, “tan tác chim muông”, “trút sạch lá khô”, “sụt toang đê vỡ” gọi lên 1 sức công fá mạnh mẽ, phi thường của nghĩa quân và sự sụp đổ ko cách j` chống đỡ được của quân giặc. đó là những ẩn dụ thể hiện quy mô vũ trụ, khổng lồ của sức mạnh chính nghĩa.

Cùng với các hình thức khổng lồ, hùng vĩ và hình tượng về nhịp độ chiến thắng mau lẹ như trúc chẻ ngói tan khiến địch trở tay ko kịp, cách vài ngày 1 chiến thắng, cách vài ngày giết 1 tướng giặc.

Hình ảnh thất bại của quân giặc thể hiện rõ rệt nhất cho sức mạnh của quân ta. Những kẻ sống thì kinh hồn bạt vía:

“Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía
Lí An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân”
“đô Đốc Thôi Tụ lê gối dâng sở tạ tội
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng”

Kẻ chết thì sông máu núi thây:

“Ninh kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tuỵ Động thây chết đầy nội, nhơ để ngàn năm...”
“suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá thây chất thành núi, có nội đầm đìa máu đen...”

ở đây, sự thất bại của quân giặc cũng mang tầm cỡ vũ trụ. “vạn dặm”, “nghìn năm”, “núi”, “sông”, “có nội”.

hình ảnh Lê Lợi điều binh khiển tướng khẩn turơng7, sáng suốt, chủ động, mau lẹ, túc trí đa mưu.

Trái với kẻ thù đã “trí cùng lực kiệt”, Lê Lợi phát huy chiến thuật “mưu phạt, tâm công”. “chẳng đánh mà ng` chịu khuất, ta nay mưu phạt, tâm công”. cả câu này ko chỉ nói chiến thuật mà còn nói về chiến lược: Lê Lợi ko muốn dùng vũ lực để đánh, mà muốn “phạt mưu, tâm công” trước. nhưng quân giặc thất bại cũng ko biết hối cải, còn bày thêm mưu kế, chuốc tội gây oan, cho nên Lê Lợi mới đánh đuổi đến cùng. Đến đây, Lê Lợi bộc lộ 1 thiên tài quân sự lỗi lạc:

“thùa tướng ruỗi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại
tuyển binh tiến đánh. Đông Đô đất cũ thu về”
“ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
Ta sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực”.

Ta đánh thắng nhưng ko hiếu sát, ko hiếu chiến, mà rộng lòng hiếu sinh, yêu hoà bình, lập kế lâu dài.

“tường giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
.....................
họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức”

Quân giặc tha về vẫn còn kinh hồn, bạt vía, tạo thành âm vang lâu dài của chiến thắnt vĩ đại.

Tóm lại, tác già ko chỉ thuật lại chiến thắng, mà chủ yếu khắc hoạ uy vũ của chiến thắng, tầm vóc của chiến thắng, ảnh hưởng lâu dài của chiến thắng và nhất là vẻ đẹp của nhân nghĩa, trí dũng của ng` chiến thắng. những đặc điểm này đem lại màu sắc anh hùng ca cho bài cáo.

phần cuối cùng bày tỏ niềm tin vào nền hoà bình lâu dài của đất nước, cảm ơn trời đất, tổ tiên phù hộ.

Bài “bình ngô đại cáo” ko chỉ hay vì phản ánh chiến thắng oanh liệt, thể hiện tầm vóc lớn lao của tư tưởng nhân nghĩa, mà còn hay vì ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu. trong bài văn này, các cặp đối tề chỉnh, nhịp văn tứ lục đã phát huy tác dụng thẩm mĩ cao độ trong việc xây dựng những hình tượng kì vĩ mang tính chất sử thi, thấm nhuần những tình cảm lớn của dân tộc. Bình Ngô đại cáo quả là 1 thiên anh hùng ca bằng văn biền ngẫu.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Quỳnh Anh Đỗ
25/02/2019 19:18:44
Đề 1:
Mùa xuân năm 1428, sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Minh xâm lược, Nguyễn Trãi thay Bình Định Vương Lê Lợi thảo bản “Cáo Bình Ngô” để tuyên bố sự thắng lợi của dân tộc. Bài cáo đã khẳng định chủ quyền, độc lập, tự tôn dân tộc rất rõ ràng, khí thế cà được coi là bản tuyên ngôn đọc lập thứ hai của dân tộc sau “Sông núi nước Nam” của Lý Thường Kiệt.
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Điều đầu tiên mà Nguyễn Trãi nhắc tới ở bài cáo là tư tưởng “nhân nghĩa”. Nhân nghĩa là lễ nghĩa, nghĩa tình của một con người, nâng lên thành tư tưởng chính là cách đối nhân xử thế của một con người thực thụ, mà ở đây là cốt ở “yên dân”. Đây được coi là một tư tưởng mới, thấm nhuần nội dung tiến bộ của đạo Nho gia, đó là lấy dân làm gốc. Hơn ai hết, ông hiểu rằng, không gì quan trọng hơn là lo cho nhân dân một cuộc sống âm no, yên ổn. Bởi nhân dân chính là cái gốc của một dân tộc, một dân tộc không có dân thì không gọi là dân tộc, nhân dân sẽ là yếu tố quyết định số phận cả một dân tộc: “Đẩy thuyền là dân, Lật thuyền là dân”. Xuất phát từ tư tưởng ấy, mọi hành động đều là vì sự no ấm của dân, mà muốn dân yên ổn, phải trừ được bạo tàn chính là bè lũ bán nước và cướp nước. Phải dẹp gọn giặc xâm lăm, nhân dân mới được hưởng thái bình, sung túc. Tư tưởng ấy không chỉ còn là tư tưởng đạo đức mà đã nâng lên thành chân lí bất di bất dịch. Từ đó, ông đưa ra nhân nghĩa còn gắn với bảo vệ độc lập, khẳng định chủ quyền dân tộc:
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Nước non bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên đế một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Nếu Lý Thường Kiệt khẳng định sự độc tôn dân tộc bằng sách trời thì Nguyễn Trãi đã khẳng định nước Đại Việt ta là một nước hoàn toàn độc lập, tự chủ với một nền văn hiến và có lãnh thổ riêng. Chúng ta và phương Bắc khác nhau về những phong tục, tập quán, văn hóa truyền thống và có cả lịch sử, nhân tài. Núi sông bờ cõi cũng đánh dấu rõ ràng ranh giới lãnh thổ, không cớ gì chúng nhận nước ta là một phần của chúng. Phương Bắc có chúa, Đại Việt cũng có vua, từng thời điểm lịch sử qua cũng có những thời đại riêng sánh ngang với những thời đjai lướn ở phương Bắc. Một đất nước có đủ mọi phương diện về văn hiến và lãnh thổ, chính là một đất nước độc lập không thể chối cãi, chính vì vậy, việc xâm lược của các nước phương Bắc đối với Đại Việt là sai trái, trái với nhân nghĩa.
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét.
Chứng cứ còn ghi.
Ông còn tự hào chỉ ra rõ ràng những tên tuổi, địa danh, những vết tích ô nhục của quân địch phải chịu khi xâm lược vào bờ cõi nước ta, lịch sử về việc chúng thạm bại dưới gươm chính nghĩa của nhân dân Đại Việt vẫn còn đó, chứng ứ còn rõ ràng hơn ban ngày. Điều đó đã khẳng định chúng là quân hiểm ác nhất định sẽ thất bại dưới chúng ta. Vậy mà, chúng vẫn không chịu đầu hàng:
Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây loạn
Rồi, nhân đó, ông chỉ ra những nỗi khổ mà nhân dân phải chịu đựng khi chính sự rối ren:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trờị
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc,
Ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,
Khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng,
Máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất,
Chân tay nào phục dịch cho vừa?
Ông gọi nhân dân là “dân đen, con đỏ” thể hiện sự thương yêu, xót xa khôn cùng. Ông vạch ra tội ác của bọn xâm lăng, đi đến đâu là vùi chôn nhân dân trong lửa, trong máu, những việc tàn nhẫn như chôn sống, dối lừa, bắt thuế, bắt người xuống biển đi mò sản vật, lên rừng săn quý hiếm,… Những việc làm của chúng làm cho nhân dân không những không thể sống yên ổn mà còn chịu biết bao khổ sợ đau đớn, người mất mạn vô số, kẻ lầm than ở khắp nơi. Trong mắt nhân dân chúng chỉ như những con quỷ khát máu khát thịt lúc nào cũng nhe nanh đòi máu, đì mỡ, là những kẻ tội đồ mà:
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Những cụm từ được đặt lên đầu câu nhấn mạnh vào sự căm hờn vô tả của Nguyễn Trãi đối với tội ác của bọn xâm lăng, những tội ác ấy không sao kể xuể, không gì rửa sạch được, không có ngòi bút nào kể hết, không nước ở đâu rửa sạch được máu mà chúng ta ấy lên đất Đại Việt. Sự tàn nhân và tội ác mà chúng để lại cho dân tộc ta đã chất nhiều vô kể, khiến cho:
Lòng người đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha;
Những lời sau là Nguyễn Trãi nói thay lời Lê Lợi:
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.
Ở đoạn này, Nguyễn Trãi tập trung chủ yếu vào việc miêu tả hình ảnh của Lê Lợi. Bắt đầu từ lòng căm thù đối với bè lũ bán nước và cướp nước khiến cho nhân dân ta lầm than, đến việc quyết định dấy binh khởi nghĩa, chịu bao nhiêu khó khăn nhưng vẫn kiên trì theo đuổi, bao nhiêu đêm trằn trọc, mất ngủ cũng đều là vì việc quân việc nước. Đúng là một chủ tướng vừa có tâm vừa có tài, hết lòng vì đại cuộc, với nhân dân lúc này chính là cần một người thủ lĩnh như vậy để dẫn dắt họ đứng lên đấu tranh đánh đuổi những tên xấu xa ra khỏi đất nước, giữ yên bờ cõi, giữ yên cuộc sống yên ổn, ấm no.

Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước,
Vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền,
Thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng,
Mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng,
Vội vã hơn cứu người chết đói.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà,
Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử,
Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Tình thần thì kì vĩ nhưng khó khăn cũng không kém đồ sộ. Buổi đầu của cuộc kháng chiến gặp rất nhiều khó khăn, vất vả, không thể chiêu dụ người tài, đất nước lại đang nhiều khó khăn, quân địch thì đang lúc mạnh nhất, khó đủ mọi bề. Nhưng nhờ vào sự đoàn kết của binh lính, coi nhau như ruột thịt, dốc lòng vì cuộc kháng chiến nên bao trận chiến ác liệt nổ ra, dân ta lấy ích địch nhiều nhưng lòng vẫn hồ hởi tự tin vào chiến thắng cuối cùng.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạọ
Dân ta chính là đại nghĩa, bọn xâm lược chính là hung tàn, câu thơ đối cực hay làm nổi bật sự khác biệt giữa ta và địch, đó chính là lí do, ta tất thắng. Vì thế mà những trận đánh trở nên ngày càng quyết liệt, hăng say:
Sĩ khí đã hăng quân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm
Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy,
Mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh
Mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong,
Giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất,
Ta đây mưu phạt tâm công.
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn
Nên đã thay lòng đổi dạ
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính
Lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người,
Gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc,
Để cười cho tất cả thế gian.
Những trận đánh quyết liệt được chỉ ra hết sức tự hào, thể hiện chí khí ngút trời và tinh thần không chịu lui của quân và dân. Nhưng quân ta càng mưu trí, hãnh diện bao nhiêu, lú cướp nước càng đê hèn bấy nhiêu;
Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng chín,
Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười,
Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm,
Chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường
Tuyệt nguồn lương thực
Rồi những chiến thắng đến bắt đầu dồn dập nhưu vũ báo, báo hiệu sự toàn thắng của quân và dân ta:
Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Tiếp đó, Nguyễn trãi chuyển bài cáo sang không khí trận mạc, qua đó ta thấy được hình ảnh oai dũng của quân và dân ta trên chiến trường, đánh cho quân giặc không còn manh giáp:
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.

Vì thế mà chiến công hiển hách vang dội chất đầy như núi, thảm bại của giặc không kể sao cho xiết:
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ.
Bị ta chặn ở Lê Hoa,
Quân Vân Nam nghi ngờ, khiếp vía mà vỡ mật
Toàn những kẻ tham sống sợ chết, đê hèn bị ổi, xin hàng trong sự thất bại ê chề, vì nhân nghĩa, quân và dân ta dùng lòng nhân đạo để bao dung kẻ vô nhân. Kể từ ấy, chúng ta yên tâm vì:
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Đất nước từ nay bước sang một trang mới, thời kì của đọc lập, tự chủ, của ấm no, hạnh phúc, không còn đâu những cảnh đau thương tan tác, mặt trời như đã tỏ rạng khắp giang sơn. Cuối cùng, Nguyễn Trãi nhắn đến cha ông ta như một sự biết ơn:
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông
Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Bài cáo có giá trị lớn lao, không chỉ thể hiện độc lập, chủ quyền dân tộc trong niềm tự tôn mà còn là tiếng nói yêu nước, yêu dân, tinh thần nhân nghĩa, ý chí quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm của con dân Đại Việt.
0
0
Quỳnh Anh Đỗ
25/02/2019 19:20:38
Đề 2:
Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu là một tác phẩm tiêu biểu của văn học yêu nước thời Lí- Trần.
Trương Hán Siêu (?- 1354) là nhà văn đời Trần, quê ở Ninh Bình. Thời trẻ, ông từng là môn khách của Trần Hưng Đạo, là người có ít nhiều đóng góp trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông lần thứ hai và thứ ba. Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều Trần, là người học vấn uyên thâm, tính tình cương trực, được các vua Trần tôn là thầy, được các nho sĩ đời sau xem là một trí thức nho học chân chính của thời Thịnh Trần. Tác phẩm của ông bộc lộ tinh thần yêu non sông đất nước, tự hào về truyền thống vẻ vang của lịch sử dân tộc, đượm sắc thái trữ tình hoài cổ. Ngôn ngữ trong văn chương của Trương Hán Siêu tinh tế, lắng đọng, sử dụng thành công những hình dung từ giàu sắc thái trữ tình, giọng điệu thi phú rất uyển chuyển.
Bài “Phú sông Bạch Đằng” được sáng tác sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông khoảng 50 năm. Bạch Đằng là con sông ghi dấu nhiều chiến công oanh liệt của dân tộc như trận thắng quân Nam Hán năm 938 của Ngô Quyền, trận thắng quân Nguyên Mông năm 1288 của Trần Hưng Đạo. Đã có rất nhiều nhà thơ viết về con sông lịch sử đầy niềm tự hào này, nhưng bài “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu là nổi tiếng và đặc sắc nhất. Tác phẩm được viết theo lối phú cổ thể. Đây là một thể loại văn có nguồn gốc từ Trung Quốc, viết bằng văn vần hoặc văn xuôi có xen lẫn văn vần, có nội dung kể, tả khách quan các sự việc, phong tục, cảnh vật, bàn sự đời.
Bài “Phú sông Bạch Đằng” có hai nhân vật là khách và các bô lão. Khách trong tác phẩm là người có chí bốn phương, thích du ngoạn, ngắm cảnh, bồi bổ kiến thức “Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều”. Khách bơi thuyền đến sông Bạch Đằng, được gặp các bô lão, được các bô lão kể cho nghe về chiến công oanh liệt của tướng quân nhà Trần năm nào khiến cho “Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ-Bầu trời đất chừ sắp đổi” với ‘Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới-Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói”. Khách và các bô lão bình luận về tầm vóc của chiến thắng, rút ra những nguyên nhân thắng lợi và ca ngợi sự tài tình, nhân đức của các vua Trần cùng tướng quân Trần Quốc Tuấn.
1
0
Quỳnh Anh Đỗ
25/02/2019 19:22:18
​Đề 3:
Người xưa có câu: “cây ngay không sợ chết đứng”, “ở hiền thì sẽ gặp lành”. Thật đúng vậy, những người chính trực, ngay thẳng thì sẽ gặp được những điều tốt đẹp, gặp dữ hóa lành. Tiếp thu tinh thần ấy, với nghệ thuật kể chuyện đặc sắc, Nguyễn Dữ đã xây dựng thành công nhân vật Ngô Tử Văn khẳng khái, cương nghị trong “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên”, qua đó thể hiện nhiều tư tưởng sâu sắc.

“Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” là một trong những truyện hay, truyện tiêu biểu của Truyền kì mạn lục – một tác phẩm nối tiếng và để đời của Nguyễn Dữ. Cũng giống như những truyện khác trong “Truyền kì mạn lục”, “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” cũng chứa đựng nhiều yếu tố hoang đường, kì ảo. Hồn ma tên tướng giặc ngoại xâm tử trận tác oai tác quái, làm hại dân lành. Khi bị Tử Văn đốt đền thì hắn hiện lên báo mộng, dọa dẫm và đòi đi kiện Diêm Vương. Tử Văn ốm rồi chết, xuống địa phủ chầu Diêm Vương. Quang cảnh thế giới âm phủ là một thế giới kì ảo và cảnh Diêm Vương vừa thật vừa không thật. Được Diêm Vương xử án xong, Ngô Tử Văn trở về dương thế, hai ngày sau lại mất, hồn đi nhận chức phán sự đền Tản Viên.

Ben cạnh những yếu tố hiện thực, những yếu tố hoang đường đã góp phần làm cho câu chuyện trở nên đặc sắc và hấp dẫn. Chính vì thế mà mặc dù biết là hư cấu nhưng người đọc vẫn không thể ngừng theo dõi diễn biến của câu chuyện được. Qua việc sử dụng yếu tố hoang đường, kì ảo, Nguyễn Dữ cũng nhằm thể hiện một ý tưởng nghệ thuật của mình, đó là: thế giới cõi âm cũng chính là sự phản chiếu bóng dáng cuộc đời thực. “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” vì thế đã trở thành một bức tranh hiện thực về một xã hội đen tối, ở đó những kẻ đại diện cho công lý lại chính là những kẻ bất lương, vô nhân đạo nhất. Truyện cũng còn ca ngợi con người dám đấu tranh đến cùng cho chính nghĩa qua hình tượng nhân vật Ngô Tử Văn.

Tử Văn được giới thiệu là người “khẳng khái nóng nẩy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng bắc người ta vẫn khen là một người cương phương”. Chính tính cách này của Tử Văn đã dẫn tới hành động đốt đền khi thấy bởi hồn ma tên tướng giặc trong đền đã “làm yêu làm quái trong dân gian”, bao phen làm hại dân lành.

Hành động đốt đền đã khơi dậy một cuộc chiến quyết liệt giữa Tử Văn và hồn ma tướng giặc, mà thực chất đó chính là cuộc chiến giữa chính nghĩa và gian tà, giữa cái thiện và cái ác, giữa công bằng dân chủ và áp bức bất công. Hành động của Ngô Tử Văn cũng cãng khẳng định tính tình cương trực, quyết đoán của chàng. Để trừ hại cho dân, chàng đã dám đốt đền – việc mà xưa nay chưa ai dám làm vì động chạm đến thần linh. Nhưng Tử Văn là người đọc sách thánh hiền, chàng hiểu rõ việc mình làm, cho nên trước khi đốt đền “tắm gội chay sạch, khấn trời” rồi mới “châm lửa đốt đền”.



Sự khẳng khái, cương trực của Tử Văn còn thể hiện qua thái độ của chàng với hồn ma tên tướng giặc. Khi sống hắn là kẻ xâm lược nước ta, đến khi bỏ mạng ở nước Nam thì lại tranh miếu Thổ địa, vậy mà còn láo xược dám đến mắng mỏ, đe dọa Tử Văn. Trước sự ngang ngược trắng trợn của hồn ma tướng giặc, chàng không hề khiếp sợ mà vẫn “ngồi ngất ngưởng tự nhiên”. Điều đó càng chứng tỏ một khí phách cứng cỏi, một niềm tin vào chính nghĩa, sự đúng đắn trong hành động của Ngô Tử Văn. Vì cảm kích hành động chính nghĩa của chàng mà Thổ thần đã đến dặn dò chàng, đồng thời nhận lời giúp đỡ nếu Tử Văn cần đến người làm chứng.

Bản lĩnh kiên định, chính nghĩa của Tử Văn được thể hiện rõ nhất trong khi chàng lôi xuống âm phủ và hầu kiện với Diêm Vương. Bị lũ quỷ sai nha lôi xuống địa phủ, đi qua những cảnh âm tào rùng rợn, nào quỷ dạ xoa, nào qua sông “gió tanh sóng xám”, hơi lạnh đến thấu xương nhưng Tử Văn không hề run sợ, không vì thế mà trở nên chùn nhụt, khúm núm. Ngay cả khi bị quy kết “tội ác sâu nặng, không được dự vào hàng khoan giảm”, Tử Văn không tâm phục, một mực kêu oan, đòi phải xét xử minh bạch. Khi đối diện với Diêm Vương uy quyền và trước những lèo lá tráo trợn của hồn ma tướng giặc, Tử Văn cũng không hề nao núng, ngược lại còn đanh thép vạch trần những tội ác của tên tướng giặc với những bằng chứng mà hắn không thể nào chối cãi. Vì sự chính nghĩa, chàng đã hết lòng đấu tranh và cuối cùng cũng đã chiến thắng được tên giặc hung ác, trả lại chức vị cho Thổ thần nước Việt, giải trừ tai họa cho nhân dân. Không những thế, vì có nhân cách cao đẹp mà Tử Văn còn được tiến cử vào chức phán sự đền Tản Viên, chịu trách nhiệm bảo vệ và giữ gìn công lí.

Ngược lại với sự cương trực, ngay thẳng của Tử Văn là sự gian trá, giảo hoạt của viên Bách hộ họ thôi. Vốn là một tên tướng giặc bại trận bỏ thân nơi đất khách, hắn trở thành môt hồn ma lưu vong, không người cúng tế. Nhưng ngay cả khi chết đi rồi thì bản chất xâm lược của hắn vẫn không hề mất đi. Hắn cướp ngôi đền của Thổ thần, tác oai tắc quái làm hại dân lành nếu không cúng tế cho hắn. Khi bị Tử Văn đốt đền, hắn còn trịnh thượng đến dọa nạt, dùng lời lẽ đạo Nho kẻ sĩ để buộc tội. Thấy Tử Văn không hề run sợ, hắn có tìm đến tận Diêm Vương để nhờ trừng trị. Đây đích xác là một kẻ vừa ăn cướp vừa la làng. Khi có nguy cơ bị bại lộ thì hắn lấp liếm, ra vẻ từ bi độ lượng nhưng nhờ có Diêm Vương phán xét, kẻ gian trá như hắn đã bị trừng trị thích đáng. Nếu như Tử Văn là một hàn sĩ áo vải đại diện cho chính nghĩa và tinh thần đấu tranh vì lẽ phải thì hồn ma tên tướng giặc chính là đại diện cho kẻ xâm lược gian ác, xảo quyệt. Xây dựng hai nhân vậ này, tác giả đã thể hiện tinh thần chính nghĩa của con người Việt Nam, đồng thời vạch trần và tố cáo bản chất xấu xa, bất lương của bọn cướp nước. Người chính trực dù chết vẫn chính trực, kẻ tiểu nhân thì về cõi tào địa phủ cũng vẫn xảo trá, đê tiện.

Qua cuộc đấu tranh chống lại cái ác, bảo vệ chính nghĩa, trừ hại cho dân, hình tượng nhân vật Ngô Tử Văn đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong người đọc. Đó là một con người khẳng khái, chính trực, bản lĩnh vững vàng để bảo vệ công lý, chống lại cái xấu cái ác. Qua đây, tác giả cũng thể hiện niềm tin về sự chính nghĩa nhất định sẽ thắng gian tà, thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc, bộc lộ quyết tâm đấu tranh với cái xấu, cái ác đến cùng. Truyện cũng ngầm phản ánh xã hội thực tại với đầy rẫy những bất công, những quan tham thì nhận của đút, cái ác thì hoành hành, công lý thì bị che mắt. Tất cả những ý nghĩa nhân đạo, nhân văn này đã góp phần làm nên đặc sắc cũng như thành công cho tác phẩm.
1
1
Nguyễn Thư
25/02/2019 19:27:28
Trong dòng văn học ca ngợi truyền thống yêu nước xuyên suốt lịch sử văn học Việt Nam,"Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi được đánh giá là áng thiên cổ,là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc được có thế hệ người Việt tự hào.
Bài đại cáo là khúc trữ tình thiết tha trước nổi đau mất nước, chứa chan niềm tự hào dân tộc và niềm vui chiến thắng. cáo là 1 thể văn cổ có từ thời xưa, hoàng đế thường dùng để bổ nhiệm, phong tặng, bảo ban các quan, toàn dân, được gọi là “cáo mệnh”, “cáo phong”, “cáo giới”... đại cáo vốn là tên 1 thiên trong Thượng thư do Chu Công làm để tuyên bố việc phò tá Thành Vương., phế bỏ nhà Ân, sau trở thành thể laọi văn học công bố sự kiện trọng đại cho thiên hạ biết. đặt tên bài văn này là “bình ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi vừa mún dùng lại tên Đại cáo để công bố đạo lớn, vừa tỏ ý đi theo truyền thống nhân nghĩa lâu đời. Bình là đánh dẹp, Ngô là tên nước cũ thời Tam quốc. Minh Thái tổ Chu Nguyên Chương dấy binh ở đất Giang Tô, lúc đầu xưng là Ngô quốc công, do vậy quân nhà Minh được gọi là quân Ngô. Tên bài này có nghĩa là tuyên bố về sự nghiệp đánh dẹp giặc Ngô.
Bài cáo gồm bốn đoạn. Đoạn đầunêu lên luận để chính nghĩa của cuộc kháng chiến, đó là tư tưởng nhân nghĩa kết hợp xới độc lập dân tộc "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân-Quân điếu phạt trước lo trừ bạo""như nước Đại việt ta từ trước - Vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Đoạn hai của bài cáo đã vạch trần tội ácgiã man của quân Minh. Đoạn văn là bản cáo trạng đanh thép, tố cáo giặc Minh ở các điểm:âm mưu cướp nước, chủ trương cai trị phản nhân đạo, hành động bóc lột tàn bạo mất hết nhân tín.Bài đại cáo còn là khúc trữ tình thiết tha trước nổi đau mất nước, chứa chan niềm tự hào dân tộc và niềm vui chiến thắng. cáo là 1 thể văn cổ có từ thời xưa, hoàng đế thường dùng để bổ nhiệm, phong tặng, bảo ban các quan, toàn dân, được gọi là “cáo mệnh”, “cáo phong”, “cáo giới”... đại cáo vốn là tên 1 thiên trong Thượng thư do Chu Công làm để tuyên bố việc phò tá Thành Vương., phế bỏ nhà Ân, sau trở thành thể laọi văn học công bố sự kiện trọng đại cho thiên hạ biết. đặt tên bài văn này là “bình ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi vừa mún dùng lại tên Đại cáo để công bố đạo lớn, vừa tỏ ý đi theo truyền thống nhân nghĩa lâu đời. Bình là đánh dẹp, Ngô là tên nước cũ thời Tam quốc. Minh Thái tổ Chu Nguyên Chương dấy binh ở đất Giang Tô, lúc đầu xưng là Ngô quốc công, do vậy quân nhà Minh được gọi là quân Ngô. Tên bài này có nghĩa là tuyên bố về sự nghiệp đánh dẹp giặc Ngô.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 10 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư