biện pháp
giải pháp đưa ra lúc này là cùng với việc vận dụng linh hoạt, sáng tạo hiệu quả các công trình thủy lợi hiện có để đóng cống, đắp đập ngăn mặn giữ ngọt; phát động trong nhân dân thực hiện ngay các biện pháp thủ công sử dụng tích nước bằng lu, bể, ao chứa; thực hiện tiết kiệm nước ngọt trong sản xuất và sinh hoạt.
Các nhà máy nước cần chủ động các giải pháp cung cấp nước kịp thời cho các khu dân cư xung yếu; các cơ quan, đơn vị, trường học, bệnh viện; cơ sở sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp trọng điểm khi tình trạng khan hiếm ngọt xảy ra.
Về lâu dài, Chính phủ, các Bộ, ngành khi đầu tư các công trình thủy lợi, hồ đập ngăn mặn, trữ ngọt cho vùng ĐBSCL cần tính tới yếu tố vận hành liên vùng, liên tỉnh; các tỉnh, thành trong vùng cần có liên kết trong phòng chống hạn mặn và biến đổi khí hậu, tránh manh mún, cục bộ; đặc biệt là phát động trong nhân dân liên kết hình thành các ao, hồ, bể trữ nước ngọt liên hộ, liên khóm, ấp.
Bên cạnh đó, chủ động chuyển đổi cơ cấu cây trồng hợp lý phù hợp với điều kiện sản xuất chống hạn mặn, theo phương châm tiết kiệm nước. Ở những vùng bị hạn mặn thường xuyên cần có các loại cây trồng, vật nuôi phù hợp, bảo đảm sản xuất hiệu quả mà bền vững, không gây ảnh hưởng xấu đến các vùng ngọt hóa.
Ở cấp độ quốc tế, cần chủ động khuyến nghị các quốc gia vùng thượng nguồn như Trung Quốc, Lào, Campuchia có chính sách liên kết trong khai thác và sử dụng nguồn nước sông Mê Kông đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các quốc gia dân tộc.
Trong lịch sử khai phá vùng châu thổ Cửu Long rộng lớn, các thế hệ người Việt đã từng bỏ biết bao công sức và trí tuệ để biến một vùng đầm lầy hoang vu, phèn mặn thành những cánh đồng trù phú. Nhiệm vụ của các thế hệ người dân châu thổ hôm nay và các nhà quản lý các cấp lúc này là phải kiểm soát được hạn mặn và biến đổi khí hậu để ĐBSCL tiếp tục phát triển bền vững, vươn lên trong hội nhập./.