LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Nỗi đau đời là một trong những nét cơ bản nhất của người nghệ sĩ. Chứng minh ý kiến qua việc phân tích hình ảnh Vũ Nương

1) Nỗi đau đời là một trong những nét cơ bản nhất của người nghệ sĩ. Chứng minh ý kiến qua việc phân tích hình ảnh Vũ Nương
2) Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả,nếu nó ko phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan,nếu nó ko đặt ra câu hỏi hay trả lời câu hỏi đó.Chứng minh qua việc đọc hiểu người con gái nam xương.
Huhu! giúp mk vs,đag cần gấp
3 trả lời
Hỏi chi tiết
1.077
1
0
Ori
18/05/2019 10:43:40
2.
Nhà phê bình người Nga Bêlinxki viết: “ Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó” (Lý luận văn học - Nhà Xuất bản Giáo dục - 1993, trang 62). Bằng hiểu biết về văn học, anh (chị) hãy bình luận và làm sáng tỏ ý kiến trên.
Có ai yêu một loài hoa không hương, không sắc; có ai yêu cánh chim bay không gửi lại cuộc đời tiếng hót ngọt ngào, đắm say?; và có ai yêu những áng văn chương nghệ thuật ép khô trong xác chữ vô cảm. Bởi tư tưởng, tình cảm là linh hồn của tác phẩm cũng như hương sắc, tiếng ca là linh hồn của một đời hoa, đời chim vậy. Và “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc không trả lời những câu hỏi đó” (Lý luận văn học - Nhà Xuất bản Giáo dục - 1993, trang 62). (Bêlinxki).
Qua ý kiến của mình, nhà phê bình Bêlinxki đã nêu lên yêu cầu có tính chất sống còn đối với tác phẩm nghệ thuật nói chung, văn chương nói riêng: thông qua bức tranh cuộc sống được miêu tả trong tác phẩm, người nghệ sĩ phải gửi gắm được tư tưởng, tình cảm của bản thân. Có như vậy, văn chương nghệ thuật mới thoát khỏi sự băng hoại, tàn phai nghiệt ngã của thời gian. Đi sâu vào ý kiến đánh giá, ta gặp cách nói giả định “nếu” đầy ấn tượng, ám ảnh. Một điều gì đó hoảng sợ, xót xa, lo lắng như luồng gió lạnh ùa vào cảm nhận của người đọc nếu ngày mai tác phẩm nghệ thuật - cụ thể là văn học “miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả”. Giữa nhà văn, nhà thơ với người thợ chụp hình sẽ không còn khoảng cách bởi văn chương chỉ còn là bức tranh sao chép vẹn nguyên hình ảnh cuộc đời. Còn đâu hơi thở dồn dập khi tình cảm ngày đêm ào ạt xô bờ trong trái tim người đọc. Khi đó văn chương sẽ không còn là văn chương, nghệ thuật sẽ không còn là nghệ thuật. Nói như vậy không đồng nghĩa với việc ta phủ nhận vai trò phản ánh cuộc sống của văn chương. Bởi cuộc đời chính là nơi khơi nguồn, bắt nước và cũng là nơi hướng tới của nghệ thuật chân chính. Một làn gió thở than cuối đông lạnh, mùa thu vàng tàn tạ theo nhịp lá rơi ... “tiếng đời lăn náo nức” ấy được tắm đẫm trong bầu cảm xúc nồng nàn của nghệ sĩ mà vút lên thành thơ ca, văn học vậy? Đã bao giờ bạn băn khoăn tự hỏi con đường nào đưa nghệ thuật đứng riêng một cõi với các bộ môn khoa học tự nhiên khác cũng bắt rễ từ cuộc đời?. Ấy chính là xúc cảm, tư tưởng của tác giả gửi gắm trong tác phẩm. Bởi nghệ thuật, trong đó có văn học là quy luật của tình cảm, trái tim. Nghe vang vang lời đồng vọng của thi sĩ lớn Gamzatôp “Thơ sinh ra từ lòng căm thù hay tình yêu, từ nụ cười trong sáng hay giọt nước mắt đắng cay”. Như hương ngọc lan nồng nàn trong đêm vắng, như tiếng chim sơn tước vút lên say đắm giữa cuộc đời; xúc cảm là “cú hích sáng tạo” đối với người nghệ sĩ. Hơn thế nữa, mỗi niềm vui nỗi buồn anh gửi theo làn gió văn chương góp phần nối nhịp tâm hồn đồng điệu giữa tác giả - bạn đọc.
Ai sẽ an ủi, vỗ về ta những phút nhớ nhà, nhớ mẹ nếu không có thơ Exênin; ai mở lối cho trái tim mình bước vào thế giới kì diệu của tình yêu nếu thiếu Xuân Diệu, Xuân Quỳnh, Puskin. Trong quá trình sáng tạo, người nghệ sĩ đã tự đốt mình lên trong bầu trời cảm xúc nóng bỏng để mỗi áng văn thơ là “ngọn lửa nhen lên trong lòng người, một ngọn lửa đốt cháy, sưởi ấm và soi sáng” ... Chính vì vai trò đặc biệt quan trọng ấy, cho nên “tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả”, đáng sợ hơn “nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc không trả lời những câu hỏi đó”, nghĩa là tác phẩm không còn bất cứ một giá trị nào, không để lại trong lòng người đọc những day dứt, ám ảnh. Ấn tượng về sự vô cảm và trống trải của cõi văn chương ấy sao gần vậy với ngày mai, trong thơ Xuân Quỳnh “Nếu ngày mai em không làm thơ - Cuộc sống trở về bình yên - Ngày nối nhau trên đường phố” êm đềm - Không nỗi khổ không niềm vui bất chợt”.
Sự “bình yên” phẳng lặng ấy là cái chết của nghệ thuật, cái chết của con người trong trái tim nghệ sĩ. Bởi “Người nghệ sĩ chân chính trước hết phải là nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ”. Không còn yêu thương, căm thù làm sao anh có thể viết nên những tác phẩm “là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan” để truyền vào lòng người đọc những ấn tượng rực lửa. Ngô Tất Tố đã khóc cho cuộc đời chị Dậu trước khi người đọc âm thầm nhỏ lệ trên từng con chữ trong “Tắt đèn”. Và ai trong chúng ta có thể cảm nhận được “lời ca tụng hân hoan” sự đổi đời của nhân vật Đào (“Mùa Lạc”) nếu Nguyễn Khải không hát lên tiếng ca yêu thương tin tưởng vào con người mới, xã hội mới? “Cô lấy hồn tôi để hiểu hồn người” lẽ sáng tạo bắt nguồn từ cảm xúc và tìm đến với cảm xúc ấy của Hoài Thanh tưởng không bao giờ cũ với mỗi người cầm bút !.
Sức mạnh nào đã giúp cả dân tộc Trung Hoa bừng tỉnh sau khi đọc những trang văn Lỗ Tấn. Ta có thể thờ ơ trước vấn đề nhân cách, nhân phẩm mỗi lần gấp lại sáng tác của Nam Cao?. Chính nhiệm vụ cải tạo xã hội của văn học đã gọi thức những câu hỏi day dứt, ám ảnh và sự tỉnh ngộ kì diệu ấy. Văn chương “là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan” để bồi đắp thế giới tình cảm, tâm hồn; văn chương còn là những lời hỏi day dứt ám ảnh được đặt ra trước một vấn đề nhức nhối, nóng bỏng trong xã hội. Có như vậy những sáng tác ấy mới có thể ùa vào, tràn ngập trong lòng người đọc, xoá bỏ đi hay khắc sâu thêm những tình cảm con người: những nhỏ nhen, ích kỉ bị loại bỏ, những gì cao quí, đẹp đẽ sẽ được tôn lên ... Ai đã một lần đến với nghệ thuật, ai từng dành trọn cuộc đời mình cho thơ phú văn chương có lẽ hiểu rằng ta say đắm tác phẩm không chỉ bởi hiện thức muôn màu được phản ánh; mà quan trọng hơn để cùng chia sẻ thái độ, tình cảm hay những day dứt của nhà văn, nhà thơ trước cuộc sống. Platô từng khuyên bạn văn rằng “Hãy hát lên khi mỗi tâm hồn anh là một sợi dây đàn” thiếu những tha thiết ấy, thế giới tình cảm của người đọc sẽ ra sao? Nơi nào có thể thay thế văn chương cho ta gửi gắm những nỗi niềm tâm sự.
Như vậy, soi chiếu từ góc độ bạn đọc, tác phẩm hay chủ thể sáng tạo, yếu tố tư tưởng tình cảm trong tác phẩm là lẽ sống còn của văn chương vậy. Nó không chỉ làm nên sức sống, sức hấp dẫn mà còn tạo nên tính khuynh hướng cho tác phẩm. Đồng thời tư tưởng, tình cảm còn chi phối khá sâu sắc, tới hình thức nghệ thuật thể hiện. “Từ trong nước chảy ra đều là nước, từ trong máu chảy ra đều là máu, từ những rung động mãnh liệt, chân thành của trái tim nghệ sĩ, văn chương đã ra đời và sống mãi trong tâm hồn chúng ta bởi nó “miêu tả cuộc sống” không “chỉ để miêu tả” bởi nó “là tiếng thét khổ đau, lời ca tụng hân hoan”, biết “đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó”.
Thời gian trôi qua, năm tháng trôi qua nhưng những day dứt ám ảnh về thân phận của kẻ tài hoa bạc mệnh vẫn ngày đêm nhói lên trong sáng tác Nguyễn Du. Tiếng thơ người dành tặng cho cuộc đời Tiểu Thanh ngõ còn ngân lên ai oán, đau đớn như nhịp tơ đồng nhỏ máu nơi cảm nhận người đọc.
“Tây hồ hoa uyển tận thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
Chi phấn hữu thần liên tử hận
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư
Cổ kim phận sự thiên nan vấn
Phong vận kì oan ngã tự cư
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”
Bài thơ đưa người đọc tìm về thời quá khứ ngày xưa bên đất nước Trung Hoa xa xôi. Núi Cô Sơn có còn in bóng nàng Tiểu Thanh trong những ngày đau khổ cuối đời. Nàng là một người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng trớ trêu thay phải chịu kiếp “lấy chồng chung”, ngày đêm sống trong sự hành hạ, dày vò của người vợ cả tàn nhẫn. Tiểu Thanh ra đi khi tuổi đời còn rất trẻ, khát khao hạnh phúc của một đời người con gái gửi lại trong những vần thơ. Và hai trăm năm sau, Nguyễn Du tìm đến tiếng tơ lòng đau đớn ấy trong cảnh Tây Hồ tàn tạ để khóc thương cho người con gái “hồng nhan bạc mệnh”, khóc thương cho nỗi oan nghiệt của chính mình. Trong cuộc đời bất hạnh của Tiểu Thanh, ta gặp lại tiếng đàn Kiều mười lăm năm truân chuyên, ai oán; nghe đồng vọng giọt nước mắt âm thầm của người kỹ nữ đất Long Thành thẳm xa ... Con tạo xoay vần, cuộc đời nghiệt ngã vùi dập kẻ tài hoa ... hiện thực ấy trở đi trở lại trong thơ Nguyễn Du nhưng không hề trở nên quen nhàm mòn cũ bởi mỗi vần thơ là một “tiếng thét khổ đau”, mỗi lần làm thơ là một lần trái tim Nguyễn Du thổn thức rung động. Câu chuyện về nàng Tiểu Thanh, cảnh Tây hồ tàn tạ theo năm tháng đã đi qua dòng rung cảm mãnh liệt của Nguyễn Du mà vút lên thành “Độc Tiểu Thanh ký”. Thi sĩ đã “miêu tả cuộc sống” không “chỉ để miêu tả” bởi từng câu, từng chữ đều thẫm đẫm xa xót yêu thương, đều vang vọng “tiếng thét khổ đau” của đời hoa giữa dòng nước xoáy.
“Tây hồ hoa uyển tận thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.”
Sự đời “thương hải ví tang điền”, vòng xoay chuyển tàn phai nghiệt ngã ấy cuốn đi tất cả. Tây hồ kia, đài các diễm lệ là thế nay cũng không thoát khỏi bàn tay tạo hoá, từ “tận” diễn tả sự suy biến tận cùng, ngày hôm qua, ngày hôm nay bị đẩy xa vời vợi bởi từ “tận” dữ dội, ghê gớm ấy. Người đọc cảm nhận được tấc lòng đau xót tiếc thương của nhà thơ nhói lên qua âm chắc nặng ấy. Làm sao có thể thờ ơ vô tình khi nhớ về quá khứ tươi đẹp, khi cầm trên tay tập di cảo còn vương sót lại của đời người con gái tài hoa. Cảnh ấy cũng như người vậy
“Ghi phấn hữu thần liên tử hận
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư”
Tiểu Thanh không còn nhưng mối sầu hận cuộc đời vẫn ngày đêm nhức nhối, day dứt. Có lẽ bởi nàng cũng như Thuý Kiều, người kĩ nữ đất Long Thành, hơn ai hết đáng được hưởng hạnh phúc, vậy mà ngay cả hai chữ bình yên cũng vợi xa. Son phấn hay nhan sắc?, văn chương hay tâm hồn? vẫn ngày đêm nấc lên như tiếng thét đau đớn của kẻ tài tử đòi quyền được sống.
“Cổ kim phận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư”
Câu hỏi gửi tới non cao vời vợi kia phải chăng cũng là câu hỏi ném vào xã hội tàn ác. Tuy nhà thơ không nói nhưng cuộc đời yểu mệnh bị đầy đọa cả sau khi chết của Tiểu Thanh là sự lên tiếng gay gắt nhất. Tìm đâu thấy hạnh phúc mong manh, tìm đâu thấy tấc lòng tri kỷ biệt nhỡn liên tài trong xã hội ấy. Cái đẹp bị ganh ghét, tài năng bị dập vùi, nỗi đau bi phẫn nhói lên qua những thanh trắc “cổ”, “phận”, “sự”, “vấn”. Cuộc đời hắt hủi, thiên hạ chối bỏ, những kiếp tài tử tìm về bên nhau cùng xót xa cho cái “thông luỵ của bọn tài tử trong gầm trời suốt cả xưa nay vậy”.
“Rất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”
Đây có lẽ là hai câu thơ thể hiện rõ nhất sự đồng cảm sẻ chia cũng như nỗi đau thân phận của Nguyễn Du. Thơ xưa khuôn mình trong những vần luật chặt chẽ; khuyên thi sĩ nên “đạm” chớ nên “nồng” nhưng dường như nỗi đau đớn bi phẫn đã đưa Nguyễn Du vượt qua lề lối tù túng ấy. Nỗi niềm xót thương người con gái tài sắc hiện lên qua chữ “tận”, qua bóng dáng cô độc viếng nàng tới cái lắng tai nghe tiếng thổn thức của văn chương, son phấn nay bừng cháy thành câu hỏi thương thân: Nàng cũng như ta “cùng hội cùng thuyền” bị trời ganh ghét, viếng nàng qua đôi mảnh giấy tàn lại chạnh lòng thương ta. Nỗi thương người, thương thân đã quyện vào một trong câu hỏi khao khát sự đồng vọng, xẻ chia ấy. “Khấp”, chỉ một tiếng khóc, một tiếng khóc thôi cũng đủ an ủi linh hồn ta rồi. Qua từ “khấp” ấy, Nguyễn Du nhắn gửi tới người đọc hãy biết trân trọng cái nhỏ nhoi. Phải, nếu mỗi người đều có tiếng “khấp” ấm áp, nhỏ nhoi ấy thôi, có lẽ cuộc đời này sẽ không còn những số phận như Thuý Kiều, Tiểu Thanh.
Như vậy qua một bài thơ ngắn, Nguyễn Du không chỉ tái hiện lại vẹn nguyên cuộc đời truân chuyên của một người con gái tài hoa bạc mệnh, sự thay đổi nghiệt ngã, vô tình của tạo hoá; sâu sắc hơn, qua đó Nguyễn Du đã thể hiện tấc lòng xót thương đồng cảm với “tiếng thét khổ đau” đòi quyền sồng của Tiểu Thanh. Từng câu, từng chữ vang lên tiếng hỏi đời, hỏi người, khao khát một giọt nước mắt chia sẻ nhỏ nhoi, ấm áp. Giọt nước mắt - nụ cười, may mắn - bất hạnh, niềm vui - nỗi buồn ... dường như nỗi đau buồn tìm được sự đồng vọng, cảm thông trong lòng người. Phải chăng vì vậy mà mỗi lần trở về làng quê Vũ Đại, gặp Chí Phèo ngất ngưởng tỉnh say, nỗi niềm thương xót lặng thấm, âm thầm, nhói buốt không nguôi “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Đoạn văn tả tiếng chửi Chí Phèo gợi mở trong lòng người đọc hai thế giới vời vợi cách xa. Bên này là một thằng say rượu ồn ào, cô độc; bên kia là cả dân làng Vũ Đại câm lặng, đông đúc. Bên này là âm vang đau đớn của một nhân cách đang quằn quại đòi sống như con người; đáp lại chỉ có thái độ hờ hững, khinh bỉ. Ta lắng tai nghe khao khát giao cảm trong tiếng chửi Chí Phèo để rồi lặng buồn trước khoảng trống yêu thương, đồng cảm. Ai đã một lần lạc lôi vào đoạn văn không trạng ngữ chỉ không gian, thời gian ấy chợt thấy những tháng dằng dặc, những con đường thăm thẳm vô định như bi kịch cuộc đời Chí. Nhân cách càng sống dậy mạnh mẽ, Chí càng bị người đời nhấn sâu vào định kiến “quỉ dữ”, bao khao khát chia sẻ gửi đi, chỉ nhận về khoảng lặng lìa bỏ. Có ai đó từng nói tiếng chửi Chí Phèo như tiếng hát lộn ngược của tâm hồn bị méo mó. Trong cảm nhận của riêng tôi âm thanh gay gắt ấy là tiếng thét khổ đau đòi quyền sống, quyền làm người của Chí. Đã bao giờ bạn băn khoăn tự hỏi điều gì đã khiến Lê Văn Chương nhặt “Chí Phèo” lên từ sọt rác, và sức mạnh nào giúp tác phẩm sống mãi trong lòng người đọc muôn đời. Có lẽ bởi Nam Cao “miêu tả cuộc sống” không “chỉ để miêu tả”.
Ẩn mình trong những trang văn diễn tả sâu sắc, hiện thực người nông dân bị tha hoá nhân cách ấy là tình cảm xót thương, đau đớn ông giành trọn cho nhân vật. Nhà văn đã lặng lẽ theo gót Chí Phèo trên những bước đường tỉnh say, lắng nghe “tiếng thét khổ đau” của một nhân cách đang quằn quại sống dậy nhưng bị cuộc đời lìa bỏ. Và rồi từ những trang văn ấy, lời văn ấy vang lên lời chất vấn gay gắt: làm sao để cứu được nhân cách của người nông dân đang chấp chới bên bờ vực tha hoá? Còn nhỏ, Tô Hoài từng kể lại rằng Nam Cao là một con người rất nhút nhát. Dường như cái mạnh mẽ quyết liệt đã ẩn sâu trong văn chương của ông, lời văn không nói, câu văn không tố cáo gay gắt nhưng tiếng thét “Ai cho tao lương thiện” cùng kết cục bi thảm của cuộc đời Chí Phèo như cơn sóng ngầm cuốn phăng xã hội gian ác ấy. “Cần phải thay đổi” ta như nghe thấy tiếng vọng từ sâu thẳm trang văn Chí Phèo vậy !.
Ai đó từng nói rằng giữa thiên tài thường có sự gặp gỡ, đồng vọng, câu hỏi của người này tìm thấy tiếng đáp lời của người kia. Xuân Diệu – Tố Hữu là những điệu tâm hồn đồng vọng như thế. “Lời kỹ nữ”(Xuân Diệu) và “Cô gái sông Hương” (Tố Hữu) cùng là nỗi lòng cảm thương sâu sắc của các nhà thơ đã dành trọn cho số phận bất hạnh của người con gái làng chơi. Một kỹ nữ thu mình trong đêm lạnh, ôm nỗi sầu mênh mang như biển lớn, bao ái ân chẳng níu được bước chân lữ khách. Một cô gái trôi nổi bập bềnh trên dòng sông, sông Hương thơ mộng lững lờ sao dòng sông cuộc đời cô sục sôi, đau đớn đến vậy. “Thuyền em rách nát còn lành được không”. Mỗi lần tìm về vần thơ ấy, vẫn thấy vẹn nguyên giọt nước mắt mặn chát đọng lại trong cảm nhận của mình, phải chăng Tố Hữu và Xuân Diệu đã sống hết mình với nỗi đau đớn tủi nhục của những người phụ nữ ấy để cất lời xót xa.
“Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo
Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da”
Dường như hơi lạnh từ “Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách” năm nào trong thơ Bạch Cư Dị hay cảm giác “Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh” đã ngược dòng thời gian mà thấm buốt vào câu chữ. Một không gian vời vợi, cao rộng, trống trải, không hình bóng kẻ “viễn du”, không hơi ấm chia sẻ, chỉ còn ngươi kỹ nữ lẻ loi cô độc đang thu mình lại thê thiết khẩn cầu “chớ để riêng em phải gặp lòng em” . Mỗi từ tựa như một giọt trăng tái buốt nhỏ xuống cõi lòng run rẩy, hoảng sợ của ngươi kỹ nữ. Sự cộng hưởng ngữ nghĩa giữa: giá băng, đầy trăng, lạnh lẽo, suốt xương da tạo thành một dòng lạnh chạy dọc câu thơ. Ngỡ người đọc đang run lên trong hơi thở, trong nỗi lòng cô quạnh của kỹ nữ. Từ cảm giác “Em sợ lắm” ấy đến nỗi buồn, nỗi đau cho thân phận người con gái trên dòng sông Hương trong thơ Tố Hữu, tưởng không mấy cách xa.
“Thuyền em rách nát còn lành được không?”
Câu thơ như một tiếng nấc nghẹn ngào, hờn tủi của người con gái bạc phận. Nỗi niềm xót xa ấy là tâm trạng tuyệt vọng, đau đớn của đời người con gái ý thức sâu sắc được chân giá trị của mình. Số phận nghiệt ngã xô đẩy vào kiếp phù du, còn đâu hi vọng hạnh phúc, ước mong bình yên thửa trước. Câu thơ trở đi trở lại trong lòng người đọc như nỗi ám ảnh khôn nguôi về số phận người phụ nữ trong xã hội cũ. Vầng trăng kia sao lạnh lẽo đến thế hay bởi lòng người quá cô độc, tủi sầu; biết tìm đâu bến bờ cho thuyền em neo đậu. Và câu hỏi ấy đã được Tố Hữu trả lời.
“Rằng không cô gái bên sông
Ngày mai cô sẽ từ trong tới ngoài
Thơm như hương nhụy hương lài
Sạch như nước suối ban mai giữa rừng”
Ngày mai mở ra tươi sáng và hạnh phúc biết bao. Ta cảm nhận được sự hồi sinh kì diệu của những kiếp đời bất hạnh trong hương thơm hoa lài, trong dòng nước ngọt mát lấp lánh ánh ban mai. Một điều gì đó bình yên, tinh khiết, phong nhụy đang lấn dần, lấn dần những đêm trăng lạnh, những tháng ngày tăm tối trên dòng Hương giang. Câu chữ sáng lên trong ngày mai, ban mai, trong niềm vui náo nức của cuộc đời mới. Hỡi những kiếp người đau đớn nổi nênh một thủa, xin hãy về đây đắm mình trong dòng suối thanh khiết, cho lắng lại những nỗi buồn, khổ đau để hướng tới cuộc đời mới. “Dòng sông thơ vẫn vỗ nhịp tháng năm, mỗi ngọn sóng là một tấm lòng sứ điệp” những vần thơ của Xuân Diệu ngày đêm dào dạt như câu hỏi không nguôi về hạnh phúc của người kỹ nữ để rồi “Cô gái sông Hương” của Tố Hữu hát lời sẻ chia, lý giải bằng cuộc sống mới, xã hội mới. Ngày mai tươi sáng, bình yên, ngày mai ngọt ngào, hạnh phúc. Và như thế, vần thơ Tố Hữu đã trở thành bờ cát cho con sóng thao thức của Xuân Diệu tìm về ngủ yên. Đến với hai bài thơ, hai chiều thời gian, hai nửa tối - sáng của cuộc đời, người đọc chợt hiểu văn học phải “đặt ra những câu hỏi” và “trả lời những câu hỏi đó” . Có như vậy “Cái chết luôn quì gối trước nghệ thuật”.
Sức sống bất diệt của “Chí Phèo” (Nam Cao); “Độc Tiểu Thanh ký” (Nguyễn Du); “Lời kỹ nữ” (Xuân Diệu), “Cô gái sông Hương” (Tố Hữu) ... giúp người đọc khẳng định thêm ý nghĩa lời nhận định của Bêlinxki “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó”. Văn chương chỉ thực sự là văn chương, nghệ thuật chỉ thực sự là nghệ thuật khi nó phản ánh hiện thực thông qua bầu cảm xúc nồng nàn mãnh liệt của nhà văn, khi mỗi tác phẩm là một dấu hỏi day dứt, trở trăn trước cuộc đời. Bởi nhà văn phải khóc nếu muốn người đọc xúc động thực sự (ý của Chế Lan Viên). Thái độ thờ ơ, nông cạn của người nghệ sĩ sẽ là cái chết đối với văn chương nghệ thuật.
Bản chất văn học là tình cảm - nơi tác phẩm ra đời, đi tới, nơi níu lòng người đọc ở lại muôn đời. Điều này lý giải tại sao những tác phẩm viết theo chủ nghĩa đề tài nhanh chóng rơi vào quên lãng; hiện thực tuy hào hùng nhưng trái tim anh trơ lì, vô cảm, làm sao người đọc có thể nồng nhiệt đón nhận. Qua lời nhận định của Bêlinxki, người đọc tìm thấy con đường đi vào thế giới tác phẩm: bay trên đôi cánh chân thành mãnh liệt của cảm xúc ẩn sâu trong bức tranh hiện thực được phản ánh để tìm thấy ánh ngọc tư tưởng, tình cảm. Ta chợt thấm thía hơn bản lĩnh nghệ thuật của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng. Sâu ẩn trong những trang văn lạnh lùng đến rợn người, hiện thực đến trần trụi ấy là tấm lòng ấm nóng yêu thương họ đã dành cho cuộc đời này, mong muốn con người gần người hơn, sống tốt đẹp, thân ái hơn.
Ngày xửa ngày xưa, chuyện kể rằng một người hành khất yêu nước đã giết giặc bằng giọng hát kì diệu của mình. Và khi quân thù phanh trái tim nhỏ bé vẫn phập phồng trong lồng ngực anh, tiếng hát vút bay lên giữa đất trời, sông núi. Câu chuyện ấy gợi nhắc tôi về cảm xúc trong thơ ca - dòng chảy mãnh liệt băng qua năm tháng để trong lắng tâm hồn người đọc. Và như thế những vần thơ, áng văn bắt nguồn từ cảm xúc chân thành để cất lên “tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan”, “đặt ra những câu hỏi”, “trả lời những câu hỏi đó” sẽ không bao giờ chết

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Quỳnh Anh Đỗ
18/05/2019 10:51:41
1. Vũ Nương - một phụ nữ đẹp người, đẹp nết. Nàng có tư dung đẹp, tính tình lại hiền dịu, nết na. Khi làm vợ Trương Sinh, một người chồng có tính đa nghi, nàng vẫn giữ gìn khuôn phép để không xảy ra cảnh bất hoà.
Hạnh phúc chồng vợ sum vầy chưa được bao lâu, chiến tranh xảy ra, chồng phải ra trận, nàng tiễn chồng lên đường với tâm trạng đau khổ. Lời nói với chồng trong giờ phút chia tay thật chân tình, cảm động làm cho "mọi người đều ứa hai hàng lệ". "Nàng chẳng cầu mong chồng đeo ấn phong hầu mà chỉ cầu xin chồng trở về bình yên vô sự". Nguyện vọng của nàng thật giản dị mà sâu sắc.
Mấy năm chồng đi xa, ở nhà một tay nàng lo toan mọi công việc gia đình, nuôi con từ trứng nước đến khi lớn khôn. Nàng còn là người con dâu hiếu thảo rất mực, khi mẹ chồng đau ốm nàng "hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn". Khi bà cụ qua đời, nàng hết lòng thương xót, lo ma chay tế lễ chu toàn. Sự ăn ở đối xử hết lòng với mẹ chồng chẳng khác nào đối với cha mẹ mình vậy.
Tóm lại, Vũ Nương là một phụ nữ vẹn toàn, thể hiện được những phẩm chất đạo đức cao quý của người vợ, người mẹ, người con. Con người như vậy đáng ra phải được hưởng hạnh phúc đầm ấm của gia đình.
Chiến tranh chấm dứt, chồng trở về, niềm vui chưa trọn vẹn thì bi kịch xảy ra. Trương Sinh - một kẻ vô học, thô lỗ, đa nghi, hay ghen đã nghe lời đứa con ngây thơ, không dò hỏi ngọn ngành, nghi ngờ vợ mình không chung thủy. Nàng đau khổ, khóc lóc bày tỏ nỗi oan với chồng nhưng Trương Sinh một mực vẫn buộc tội vợ, thậm chí còn mắng nhiếc, đánh, đuổi nàng đi. Họ hàng, làng xóm đều biện minh cho nàng nhưng cũng không thay đổi được thái độ của Trường Sinh. Không còn cách nào để minh oan được nữa, nàng chọn cái chết để giãi bày tấm lòng chung thủy, trong trắng của mình. Thật tội nghiệp cho Vũ Nương, ba năm trời cách biệt vẫn giữ gìn một tiết, ấy mà khi chồng trở về lại bị nghi oan, một con người phẩm hạnh như thế, lại mang tiếng nhuốc nhơ. Bi kịch bị dồn nén đến cao độ, trong cảnh ngộ đó, Vũ Nương chỉ có một con đường tìm đến cái chết. Thương Vũ Nương, người đời càng trách giận Trương Sinh phũ phàng:
Khá trách chàng Trương Sinh khéo phũ phàng
("Lại bài Viếng Vũ Thị"của Lê Thánh Tông)
Và ngay cả khi chết rồi, ở dưới thủy cung, nàng vẫn ôm mối hận bị chồng ruồng rẫy, nàng nghĩ: "Thà già ở chốn làng mây cung nước, chứ còn mặt mũi nào về nhìn thấy người ta nữa". Nhưng có lúc nàng lại băn khoăn: "Không thể gửi hình ẩn bóng ở đây được mãi, để mang tiếng xấu xa". Nàng mong muốn thiết tha trở về quê hương đoàn tụ với chồng và để giải được nỗi oan. Nhưng âm dương cách biệt nàng "chẳng thể trở về nhân gian được nữa".
Trong xã hội phong kiến, những người phụ nữ đức hạnh, hiền thục như Vũ Nương đều chịu chung số phận bi đát. Câu chuyện về cái chết thương tâm của Vũ Nương càng làm cho ta thông cảm với những nỗi đau của người phụ nữ trong xã hội cũ. Tác phẩm còn là tiếng nói tố cáo chiến tranh phong kiến đã làm tan vỡ hạnh phúc của nhiều lứa đôi, gia đình.
Trong một xã hội mà quyền sống con người được tôn trọng như xã hội ta ngày nay, những người phụ nữ có nhan sắc, phẩm hạnh như nàng Vũ Thị Thiết chắc chắn sẽ sống cuộc đời hạnh phúc.
Từ một câu chuyện lưu truyền trong dân gian, Nguyễn Dữ đã sáng tác nên một tác phẩm đặc sắc. Mặc dù có ít nhiều yếu tố hoang đường nhưng "Chuyện người con gái Nam Xương" đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng không phai mờ.
1
0
Quỳnh Anh Đỗ
18/05/2019 10:59:24
2.
Trong đại dương nghệ thuật mênh mông, có những viên ngọc ngàn đời bất tử nhưng cũng có những chiếc thuyền nghệ thuật vừa đắm khi vừa mới ra khơi. Phải chăng vì “ Tác phầm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó”. ( Bêlinxki)
Có phải đó là yêu cầu có tính chất sống còn đối với tác phẩm nghệ thuật nói chung, văn chương nói riêng? Bởi nếu tác phẩm nghệ thuật “ miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả” thì có khác chăng một bức ảnh, bản phôtô nguyên xi, máy móc, vô hồn về cuộc sống. Và liệu rằng các tác phẩm đó có cung cấp cho người đọc những hiểu biết chính xác, phong phú hơn các ngành khoa học khác? Nhưng ko thể bác bỏ chức năng “ miêu tả cuộc sống” của tác phẩm nghệ thuật- ở đây hiểu là văn học. Có thể nói cuộc đời là mạch sữa ngọt ngào nuôi lớn văn học, là nguồn nhựa sống dạt dào ko bao giờ vơi cạn. Và có nhà văn, nhà thơ nào có thể sống ở ngoài thế giới hiện thực, bay vào 1 thế giới khác? Vậy nên tác phẩm nghệ thuật phải “ trước hết là cuộc đời”, bởi cuộc đời chính là nơi khơi nguồn, bắt nước và cũng là nơi hướng tới của nghệ thuật chân chính.
Vậy điều gì khiến tp nghệ thuật “ nằm ngoài quy luật của sự băng hoại”, chỉ mình nó ko thừa nhận cái chết? Phải chăng theo ý kiến của nhà phê bình người Nga Bêlinxki trên đây, đó là tư tưởng, tình cảm, là cái tâm của người cẩm bút? 1 bức tranh dù có đẹp đến mấy, 1 bản nhạc dù có hay đến mấy rồi cũng sẽ dần bị lãng quên. Nhưng có những tp qua bao biến cố thăng trầm vẫn vẹn nguyên như thuở nào, vẫn làm bao trái tim người đọc xúc động. Bởi tp đó “ là tiếng thét khổ đau” hoặc “ lời ca tụng hân hoan”. Văn học là làm theo quy luật của tình cảm, là tiếng trống thôi thúc của trái tim. Làm sao nhà văn có thể viết đc khi trái tim anh ko hề rung động? Phải có sự xúc động của nhà văn trc cuộc đời thì văn học mới là văn học, mới ko đơn thuần là hành động chép sử. Tâm hồn nhà văn chính là cửa ngõ để từ đó hiện thực cuộc sống bước vào trang giấy. Bằng trải nghiệm lòng mình, bằng sự nhập thân giữa nhà văn với cuộc đời đã kết tinh thành nghệ thuật. “ Đừng cậy thời đại anh hùng nếu tâm hồn anh quá bé” - ấy là lời nhắn nhủ chân thành, sâu sắc của Chế Lan Viên để lại cho chúng ta. “ Thơ muốn người ta khóc, đầu tiên mình phải khóc, muốn làm cho người ta cười, trước hết mình phải cười” Có ai biết Nguyễn Du đã bao lần nhỏ lệ trc số phận bất hạnh của nàng Kiểu? 15 năm lưu lạc, mỗi lần Kiều bị đánh đập, hành hạ ta như thấy nước mắt ND trên trang giấy. “ Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiểu”. Phải chăng đau đớn quá mà đại thi hào đã thốt lên những lời huyết lệ:
“ Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
2 câu thơ đó hôm nay và mãi mai sau vẫn còn vang vọng, vẫn làm lay động muôn triệu trái tim, tâm hồn đồng điệu. Vì đâu? Vì đó là “ tiếng thét khổ đau”? Vâng, đó là sự trào dâng mãnh liệt của cảm xúc, là tiếng thét kêu cứu, “ tiếng thét khổ đau” cho cuộc đời đầy đau đớn của nàng Kiều. Nguyễn Du khóc, Thúy Kiều đã cạn khô nước mắt và chúng ta- biết bao thế hệ độc giả cũng phải rơi lệ. Thương cảm ,xót xa biết bao cho kiếp người “ tài hoa bạc mệnh” . “ Truyện Kiều” xứng đáng là 1 kiệt tác! Cùng với Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương cũng viết về người phụ nữ, nhưng với tâm trạng của người trong cuộc. Viết về cuộc đời mình còn gì tuyệt vời hơn! Còn gì chân thật hơn những nỗi niềm suy tư của chính bản thân mình. Đọc thơ Xuân Hương người đọc như thấy máu và nước mắt quyện khô trên trang giấy. Dường như trái tim người phụ nữ bé nhỏ ấy đã vỡ tan khi mơ ước ko thành. Lam sao ko đau khi cả cuộc đời nữ sĩ chỉ khao khát đc hưởng hương vị của tình yêu, của hạnh phúc để rồi đc gì ngoài “ kiếp lấy chồng chung”, ngoài thứ tình cảm chia 5 sẻ 7 “ mảnh tình san sẻ tí con con”. Đau thật! Như có hàng vạn con dao đâm và trái tim. Nhưng HXH ko yếu đuối như các nhi nữ bình thường khác, nữ sĩ rất mạnh mẽ, rất kiên cường. HXH muốn vượt thoát tất cả, muốn “ chém cha cái kiếp lấy chồng chung” để rồi đây ko còn chịu cảnh “ kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”. Trớ trêu thay trong cái XHPK bất công phi nhân tính ấy, những người như HXH làm sao có lối thoát. Cố thoát ra nhưng đành bất lực để giờ đây tiếng thơ người còn vang vọng mãi muôn nơi. Phải chăng Xuân Hương đã gửi hồn mình vào trong đó?
Cuộc đời bao la vô cùng, có biết bao “ tiếng thét khổ đau” khác, có thể quanh ta hay nơi nào đó, cũng có thể là của chính bản thân ta. Các tp nghệ thuật đã phơi bày 1 vài mảng nhỏ trong đó, dù ở mảng thì thì cũng có thể gieo vào lòng người đọc hạt giống cảm thông, yêu thương, chia sẻ. Nếu như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương cày xới trên mảnh đất viết về người phụ nữ thì Nam Cao lại đào sâu về người nông dân trc CM T8. Ấy là Chí Phèo, 1 nạn nhân đau khổ của cái XH cạn khô tình người với những ác quỷ mặt người. Khi vừa mới lọt lòng Chí đã ko đc hưởng tình thương của mẹ cha. Lớn lên trong vòng tay yêu thương, đùm bọc nào của anh thả ống lương, bà cụ lòa, bác phó cối. Những năm tháng ấm áp đó chỉ lướt qua như cơn gió trong những câu chữ ngắn gọn của NC. Nặng nề, ảm đạm theo từng dòng chữ là các năm tháng tù tội, những lần rạch mặt ăn vạ, những cơn say triền miên ko dứt của Chí. NC chỉ biết bất lực nhìn Chí rơi xuống vực thẳm. Ông muốn cứu Chí lắm chứ nhưng ko thể. Trong XH đó làm sao có đất sống cho con người nếu ko trở thành “ quỷ”. Có người nhận xét rằng ngòi bút NC có vẻ lạnh lùng, dửng dưng, miệt thị với số phận CP. Ôi! Có ai thấy đc trái tim ấm nóng tình người của nhà văn? NC yêu thương CP lắm chứ, bởi chỉ có ông thấy đc phần người trong “ con quỷ của làng Vũ Đại” . Phải thật yêu thương con người mới có thể thấy đc điều đó. Cho CP gặp Thị Nở, đó là 1 ân huệ lớn đối với 1 con quỷ. Cuộc đời Chí đã chấm dứt từ lâu giờ lại có 1 tia sáng le lói. Chao ôi! Phần người trong Chí đã đc đánh thức. Những tháng ngày triền miên say, những miệt thị của người đời giờ đây có thể thay đổi. 5 ngày đc ở cùng Thị Nở sao mà dài thế! NC thật thiên vị khi dành quá nhiều giấy mực cho 5 ngày đó. Nhưng cũng khó trách nhà văn, vì ông quá yêu thương nv của mình. Những ngày Chí từ vực sau leo lên ngưỡng cửa cuộc đời là những ngày NC vui nhất. Bát cháo hành đã đánh thức lương tri của Chí, thức tỉnh Chí. Tình yêu thương cuả thi Nở đã đánh chết con quỷ trong Chí. Nói Thị Nở là nv đẹp nhất cũng ko quá. Dù vẻ ngoài xấu xí nhưng tấm lòng của thị cao đẹp biết chừng nào. Tình yêu của thị Nở như nguồn nc giữa sa mạc cạn khô tình người. Đẹp quá! Nhưng cái XH khốn nạn đó đã ko cho Chí cơ hội về với cuộc đời. Chí chết trên ngưỡng cửa giữa vực thẳm và cs. Còn gì đau đớn hơn thân phận con người ấy? Ta còn như ngửi thấy giọt nước mắt của Chí. Ôi! NC, ông đã làm đc điều đó- làm cho “ người gần người hơn”
Cuộc đời đâu chỉ có riêng tiếng khóc, bầu trời đâu chỉ có mây đen mà còn có những tia nắng vàng rực rỡ làm cs thêm đẹp tươi, cho tiếng cười thêm giòn giã. Văn học phản ánh hiện thực, đâu chỉ phản ánh những đau khổ mà còn ngợi ca những vẻ đẹp , những niềm vui của cs, của con người. Đến với thơ Xuân Diệu là đến với nguồn sống mới, ta như đc nạp thêm năng lượng, thêm sức trẻ để yêu đời, yêu người hơn. Có ai thấy đc cs đẹp tươi, tràn trể như XD?
“ Của ong bướm này đây tuần tháng mật
…..
Tháng giêng ngon như 1 cặp môi gần”
( Vội vàng)
Đẹp làm sao! Mùa xuân mơn mởn, xanh non, biếc rờn chẳng ai có thể dửng dưng, vô cảm. Thế giới đc cảm nhận qua đôi mắt của XD thật sống động, tràn đầy âm sắc, âm thanh, hương vị, tràn trể nhựa sống. Ta như thấy bàn tay thi sĩ đang chìa ra mời gọi, nào hãy đến đây thưởng thức thiên đường trên mặt đất. Thương quá, yêu quá những vần thơ đắm say. Thơ XD ko phải sự mô phỏng cs mà đó là “ lời ca tụng hân hoan” vẻ đẹp đích thực của cs.
Và Nguyễn Thành Long với “ Lặng lẽ Sa Pa” cũng cất lên tiếng hát ngợi ca vẻ đẹp con người. Hình tượng anh thanh niên mới đẹp làm sao! Sao mà yêu đến thế! Ở anh vừa có vẻ đẹp của tâm hồn, vể lí tưởng sống mà lại còn rất đẹp trong sinh hoạt hàng ngày. Tình nguyện lên làm việc ở đỉnh Sa Pa lạnh giá, vừa cô đơn, vừa thiếu thốn trăm bề vậy mà anh vẫn rất vui vẻ, hăng hái làm việc. Với 1 chàng trai trẻ ưa náo nhiệt thì đó quả là 1 thử thách lớn. Mà công việc của anh thì cũng dễ dàng gì cho cam. Phải có ý chí lắm mới làm đc. Thật khâm phục! Còn người vừa đẹp trong cách nghĩ, vừa đẹp trong hành động. Đẹp làm sao trong đêm giá rét, 1 con người vẫn phải băng vào đêm tối để đo đạc phục vụ cho đất nc mà chẳng buông 1 tiếng thở than. Anh vừa khiêm tốn, chịu khó, cẩn thận lại rất mến khách. Trong tim anh luôn sôi trào dòng máu yêu thương. Anh yêu thương mọi người, luôn nghĩ cho họ, nào là vợ bác lái xe, ông họa sĩ,…Trong nếp sống hàng ngày của anh cũng toát ra vẻ đẹp hiếm có. Sạch sẽ, gọn gàng, lại biết nuôi gà để cải thiện cs, trồng hoa, đọc sách- lối sống lành mạnh biết bao. Nguyễn Thành Long đã xây dựng 1 hình tượng thật có giá trị. Phải yêu thương lắm nhà văn mới dựng nên 1 nv đẹp đến mức tuyệt mĩ.
Như vậy có thể thấy tình cảm là điều kiện ko thể thiếu để có tp nghệ thuật đích thực. Nhưng nếu có tình cảm ko thôi, liệu văn học có đc sức sống mãnh liệt đến vậy? Bêlinxki thêm 1 lần nữa nhấn mạnh vai trò đặc biệt đúng đắn, sâu sắc của tư tưởng nhà văn. Tp nghệ thuật sẽ sống nếu nó “ đặt ra những câu hỏi” và “ trả lời những câu hỏi đó”. Sẽ chẳng còn lại gì nếu tp đó ko để lại trong lòng người đọc những day dứt, ám ảnh.
Gấp trang sách lại rồi mà ta còn nghe vang vọng đâu đây tiếng còi tàu trong “ Hai đứa trẻ” của Thạch Lam. Tiếng còi đó khiến ta chợt tỉnh để nhận ra rằng: cái “ ao Đời bằng phẳng” đó có phải ý nghĩa đích thực của cs? Tiếng kêu cứu của 2 đứa trẻ, cái phố huyện tù túng, quẩn quanh đó cứ ám ảnh ta mãi ko thôi. 2 đứa trẻ kia rồi sẽ ra sao? Cs những con người nơi phố huyện kia rồi sẽ đi về đâu? Chưa có câu trả lời cho câu hỏi đó, nhưng TL đã giúp người đọc hé mở phần nào. Trong hoàn cảnh tù túng, quẩn quanh, vô nghĩa như thế, con người phải tự vượt lên để ko bị bóng tối nhấn chìm. Trong mỗi người dân phố huyện vẫn le lói những hi vọng, những ước mơ dù vẫn còn mơ hồ. Cs sẽ ko bao giờ tắt nếu tim ta vẫn còn ngọn lửa của ước mơ. Đó chính là chiều sâu tư tưởng nhân đạo trong sáng tác của TL. Phải chăng vì thế mà “ Hai đứa trẻ” của ông vẫn còn đang sống, đang cố thoát ra cái thế giới ngột ngạt đó?
Còn NC qua bi kịch của CP đã đưa ra bao câu hỏi dồn dập: Làm thế nào để cứu những con nguời như CP? Làm sao để XH ko còn những anh Chí? Làm thế nào?... những câu hỏi đó cứ vang vọng, văng vẳng suốt thiên truyện, đau đáu mãi ko thôi. Tai ta như còn nghe rõ tiếng CP : “ Ai cho tao lương thiện?” như cứa vào lòng độc giả. Phải tiêu diệt cái XH tàn ác, cạn khô tình người đó, phải tiêu diệt các thế lực chuyên “ hút máu người”, “ ăn thịt người” như Bá Kiến, Đội Tảo,…để ko còn những CP con. Đó là câu trả lời của NC. Và, thông qua tp này, nhà văn cũng gửi đến người đọc thông điệp sâu sắc: chỉ có tình người mới đánh động đc lương tri trong những linh hồn tội lỗi, chỉ có tình người mới cứu đc tình người. CP nhờ tình thương của thị Nở đã đc cảm hóa. Bi kịch của CP cho đến tận hôm nay vẫn là 1 nỗi trăn trở, day dứt lớn.
Tìm hiểu sâu sắc về bản chất của cs, vể bản chất con người là nhu cầu chính đáng của con người. Độc giả tìm đến tp văn chương đâu phải chỉ để tìm hiểu về hiênj thực cs, mà còn muốn biết thêm về ý nghĩa, giá trị của cs, để tìm câu trả lời cho những băn khoăn, trăn trở của bản thân mình. Vì vậy yêu cầu có tính chất sống còn đối với tp văn học là phải “ đặt ra những câu hỏi” và “ trả lời những câu hỏi đó”. Nói cách khác, đó là sự hiện hình của tư tưởng nhà văn trong tp. Tư tưởng đó phải thật đúng đắn, bởi “ Làm 1 thầy thuốc kê đơn buốc thuốc bậy chỉ giết chết 1 người, làm 1 viên võ tướng điều khiển binh tướng bậy chỉ nướng hết 1 đạo quân, còn làm 1 nhà văn viết bậy có thể gây tác hại đến 2, 3 thế hệ” ( Lỗ Tấn) . Quả là 1 nhiệm vụ to lớn, thiêng liêng của văn học. Vậy mới biết đc sức nặng của người cẩm bút. Văn học góp phần làm cho cs con người trở nên tốt đẹp hơn, trong sáng hơn, giúp người gần người hơn. Văn học phải là “ thứ khí giới thanh cao và đắc lực” để “ tố cáo và thay đổi 1 thế giới giả dối và tàn ác”. Nếu ko có tư tưởng tiến bộ, ko có cái nhìn sâu sắc liệu nhà văn có thể hoàn thành những nhiệm vụ đó?
Ý kiến của nhà phê bình người Nga Bêlinxki quả rất đúng. Văn chương chỉ thực sự là văn chương, nghệ thuật chỉ thực sự là nghệ thuật khi nó phản ánh hiện thực thông qua bầu cảm xúc nồng nàn mãnh liẹt của nhà văn, khi mỗi tp là 1 dấu hỏi day dứt. trăn trở trc cuộc đời.
Thế nhưng nói đến nghệ thuật là nói đến cái hay cái đẹp của hình thức nghệ thuật. Muốn lay động lòng người tp nghệ thuật ngoài mang tư tưởng, tình cảm sâu sắc còn phải đc chuyển tải thông qua hệ thống ngôn từ , nghệ thuật đẹp. Có gì hoàn mĩ hơn sự hòa quyện giữa vẻ đẹp bên trong và vẻ đẹp bên ngoài?
Bước đi thời gian nghiệt ngã, nó như muốn cuốn trôi đi tất cả vạn vật trên đời. Giữa phong ba bão táp vẫn còn vương lại cho đời những hạt ngọc tâm hồn đc nuôi dưỡng nhờ những tác phầm nghệ thuật chân chính, sống mãi cùng tháng năm.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư