Trong lịch sử thời kỳ đấu tranh giữ nước của dân tộc ta, tuổi trẻ Việt Nam luôn có những đóng góp xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lịch sử được Đảng, Bác Hồ và cả dân tộc giao phó. Dù trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ dù phải hy sinh cả tính mạng khi còn ở tuổi thanh xuân thì thế hệ trẻ với những cái tên đã đi vào lịch sử như Lý Tự Trọng, Võ Thị Sáu, Trần Văn Ơn, Nguyễn Văn Trỗi,... vẫn luôn nêu cao tinh thần bất khuất, chí khí anh hùng, lẫm liệt để gìn giữ lý tưởng sống mà họ đã chọn và truyền lại cho nhiều thế hệ thanh niên viết tiếp trang sử vàng chói lọi của dân tộc Việt Nam.
Nhân kỷ niệm 67 năm Ngày Thương binh Liệt sĩ (27/7/1947 – 27/7/2014), Ban Biên tập website xin giới thiệu đến cán bộ, đoàn viên, thanh thiếu nhi trong tỉnh về một số gương anh hùng liệt sĩ tiêu biểu của tuổi trẻ Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Lý Tự Trọng
Lý Tự Trọng tên thật là Lê Văn Trọng. Quê gốc ở xã Thạch Minh, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh nhưng lại sinh ra tại làng Bản Mạy, tỉnh NaKhon - Thái Lan trong một gia đình Việt kiều yêu nước có đông anh chị em. Cha ông là Lê Hữu Đạt, mẹ là Nguyễn Thị Sờm. Năm 1923, chỉ mới 10 tuổi, Lý Tự Trọng được sang Trung Quốc học tập, học giỏi, nói thạo tiếng Hán và tiếng Anh. Ông hoạt động trong Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên.
Năm 1929, Lý Tự Trọng về nước hoạt động với nhiệm vụ thành lập đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và làm liên lạc cho xứ uỷ Nam Kì với Đảng Cộng sản Việt Nam. Anh làm liên lạc cho các đồng chí cộng sản ở nước ngoài qua các chuyến tàu đến cảng Sài Gòn. Ngày 09/02/1931, trong buổi kỷ niệm một năm cuộc bạo động Yên Bái, tên thanh tra mật thám Lơ Gơrăng chực nhảy tới bắt người đang giương cờ và diễn thuyết, Lý Tự Trọng đã nhảy ra bắn chết Lơ Gơrang. Lý Tự Trọng bị địch bắt, bị tra tấn hết sức dã man.
Năm 1931, một ngày cuối xuân, thực dân Pháp đưa Lý Tự Trọng từ bót Catina đến tòa án để kết án anh tội tử hình. Người thanh niên cộng sản mới 17 tuổi ấy đã lấy vành móng ngựa để làm diễn đàn lên án bọn thống trị, kêu gọi nhân dân đứng dậy đấu tranh. Luật sư bào chữa cho anh xin tòa mở lượng khoan hồng vì anh chưa đến tuổi thành niên, đã hành động không có suy nghĩ.
Lý Tự Trọng dõng dạc nói: “Tôi hành động không phải là không suy nghĩ. Tôi hiểu việc tôi làm. Tôi làm vì mục đích cách mạng. Tôi chưa đến tuổi thành niên thật, nhưng tôi đủ trí khôn để hiểu rằng con đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng và không thể là con đường nào khác. Tôi tin rằng nếu các ông suy nghĩ kĩ thì các ông cũng cần phải giải phóng dân tộc, giải phóng những người cần lao như tôi”.
Chánh án, một tên quan cai trị thực dân tuyên án xử tử anh Trọng. Lý Tự Trọng vẫn bình tĩnh. Tên thực dân Pháp hỏi anh có ăn năn gì không; Lý Tự Trọng đứng trước vành móng ngựa, mặt thẳng phía trước chỉ nói một câu: “Không ăn năn gì cả!”
Ở trong xà lim án chém khám lớn Sài Gòn, Lý Tự Trọng oanh liệt sống những ngày cuối cùng của cuộc đời mình. Mọi chi tiết về người tù án chém "Trọng con" được những tên gác ngục, tên chủ khám truyền ra ngoài với một lòng cung kính, khâm phục: “Ông nhỏ ngày nào cũng tập thể dục! Nhìn ông nhỏ sống không ai tưởng tượng được là người đợi đến ngày lên máy chém”.
Lý Tự Trọng yêu đất nước, yêu đồng bào, yêu đồng chí của mình, anh càng yêu cuộc sống, sống trọn vẹn những năm tháng ngắn ngủi của đời mình không hề lãng phí, không để mầm bi quan len lỏi vào tâm hồn mình mặc dù biết mình sắp bị giặc đem hành hình. Bọn thực dân tìm cách lung lạc ý chí gang thép của anh, nhưng tất cả những lời dụ dỗ của chúng đều bị anh đánh bại.
Bà Angđơrê Viôlít đã viết về giờ phút cuối cùng của Lý Tự Trọng: “Ngày 21/11/1931 thì Huy (tức là Trọng) bị đem xử tử. Sài Gòn hết sức xúc động. Hôm ấy phải ra lệnh thiết quân luật. Từ khám lớn vang ra ngoài đuờng phố, tiếng la hét của tù chính trị. Tiếng thét từ lồng ngực và từ trái tim của họ đã đi theo Huy ra trường chém. Phải điều quân đội và lính cứu hỏa để phun nước đàn áp họ. Trong những tường giam của khám lớn đã xảy ra những chuyện như thế. Trước máy chém, Huy định diễn thuyết, song hai tên sen đầm nhảy xô đến không cho anh nói. Người ta chỉ nghe thấy tiếng anh kêu “Việt Nam! Việt Nam!”.
Lý Tự Trọng trước khi lên máy chém mấy lần gọi “Việt Nam” thân yêu và đã hát nhiều lần bài “Quốc tế ca”: “Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian!” và anh đã giữ vững ý chí chiến đấu đến phút chót của đời mình. Ngày nay, giữa thành phố Hồ chí Minh, con đường mang tên Lý Tự Trọng, chạy qua nơi anh từng bắn chết tên mật tám Lơ Gơrăng, anh vẫn như còn đó ở tuổi 17 hiên ngang, với tâm hồn trong sáng tràn ngập lòng yêu đời...
Võ Thị Sáu
Võ Thị Sáu sinh năm 1933, trong một gia đình nghèo ở xã Phước Thọ, quận Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa. Sinh ra ở vùng quê giàu truyền thống cách mạng, năm 12 tuổi chứng kiến cảnh giặc Pháp và bọn Việt gian hà hiếp, giết chóc đồng bào, tàn sát quê hương chị đã nung nấu trong trái tim lòng căm thù giặc sâu sắc.Trải qua nhiều thử thách, năm 1947 chị được kết nạp vào Đội Công an xung phong quận Đất Đỏ lúc 14 tuổi.
Với trí thông minh, dáng vóc nhỏ, nhanh nhẹn, Võ Thị Sáu đã luồn sâu vào vùng tạm chiếm từ thị trấn Đất Đỏ đến Phước Lợi, Long Mỹ, Phước Hải hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ liên lạc, nắm tình hình, cung cấp và báo cáo kịp thời cho tổ chức nhiều tin tức quan trọng, đã giúp cho Công an quận Đất Đỏ có kế hoạch chủ động đề phòng và tấn công địch có hiệu quả. Chị đã anh dũng phá tan cuộc mít tinh kỷ niệm Quốc khánh Pháp 14/7/1948, sau chiến công này chị được tổ chức tuyên dương và giao nhiệm vụ diệt tề trừ gian.
Tháng 11/1948, Võ Thị Sáu cải trang trà trộn cùng tốp người đi làm căn cước, mang theo trái lựu đạn nằm trong cơi đựng trầu. Giữa buổi, Võ Thị Sáu vào nhà làm việc của tên tổng cai Tòng, rút chốt lựu đạn ném thẳng vào mặt y và hô to: “Việt Minh tấn công” rồi kéo mấy chị em cùng chạy. Lựu đạn nổ, cai Tòng nằm quằn quại trong vũng máu nhưng không chết, đám hội tề và lính đồn khiếp vía không dám lùng sục như trước nữa. Tháng 2/1950, Võ Thị Sáu dùng lựu đạn tiêu diệt 2 tên ác ôn có nhiều nợ máu là Cả Đay và Cả Suốt, không may chị bị địch bắt. Địch giam chị tại khám Chí Hòa (Sài Gòn). Kẻ địch dùng mọi cực hình tra tấn, chị chết đi sống lại nhiều lần nhưng vẫn không hé môi. Chị vẫn giữ vững khí tiết người chiến sỹ Cộng sản, người Công an kiên cường, tin tưởng tuyệt đối vào thắng lợi cách mạng.
Không khuất phục được người con gái quận Đất Đỏ, mặc dù Võ Thị Sáu chưa đến tuổi thành niên, thực dân Pháp vẫn đưa ra tòa xét xử và kết án tử hình. Để che giấu tội ác, giặc Pháp đày chị ra Côn Đảo chờ ngày đủ tuổi để thi hành bản án. Tại Côn Đảo, giặc Pháp tiếp tục dùng mọi thủ đoạn dụ dỗ mua chuộc chị Sáu không được. Đêm 22-1-1952, Võ Thị Sáu được Chi bộ nhà tù Côn Đảo kết nạp chính thức vào Đảng Lao động Việt Nam. Sáng 23-1-1952, giặc Pháp đưa chị Võ Thị Sáu ra pháp trường xử bắn. Trước lúc hy sinh, Võ Thị Sáu vẫn tỏ rõ khí thế hiên ngang của người chiến sĩ cộng sản, chị nhìn thẳng vào họng súng kẻ thù hô to: “Đả đảo thực dân Pháp, Việt Nam muôn năm, Hồ Chí Minh muôn năm”. Ngày 3-8-1993, Võ Thị Sáu được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND.
Anh hùng liệt sỹ Võ Thị Sáu là một biểu tượng hiên ngang, lạc quan cách mạng, trước họng súng kẻ thù không hề run sợ, tỏ rõ được khí phách của người yêu nước, yêu cách mạng, tin tưởng tuyệt đối thắng lợi của cuộc cách mạng. Võ Thị Sáu được Đảng tin, nhân dân yêu quý, đồng đội mến phục, kẻ thù khiếp sợ. Chị mãi mãi là tấm gương sáng cho các thế hệ Việt Nam noi theo.
Trần Văn Ơn
Trần Văn Ơn sinh ngày 29/5/1931 tại xã Phước Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Cha là ông Trần Văn Nghĩa là công chức bậc thấp, mẹ là bà Huỳnh Thị Tữu. Hầu hết anh chị của anh đều tham gia phong trào cách mạng, trong đó có chị là Trần Thị Lễ, liệt sĩ đã mất năm 1948.
Sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, năm 1940 sau khi học xong tiểu học ở thị xã Mỹ Tho, Trần Văn Ơn được lên Sài Gòn theo học năm thứ nhất bậc cao tiểu học tại trường Pétrus Ký. Năm học 1947 – 1948, anh tham gia phong trào học sinh yêu nước tại trường và gia nhập Hội học sinh, sinh viên Việt Nam - Nam Bộ. Từ năm 1947, anh tham gia vào phong trào học sinh yêu nước của trường, tham gia Hội học sinh, sinh viên Việt Nam - Nam Bộ. Anh là hội viên mật của Đoàn học sinh kháng chiến nội thành đồng thời nhận nhiệm vụ tuyên truyền, vận động học sinh trong trường tham gia vào các hoạt động chống thực dân Pháp và chính quyền thân Pháp. Anh được coi là một cột trụ của phong trào học sinh yêu nước của Trường Pétrus Ký.
Trước ngày kỉ niệm 09 năm khởi nghĩa Nam Kỳ 23/11, chính quyền Pháp đã bắt cóc một số học sinh của trường Pétrus Ký. Sau sự kiện này đã nổ ra cuộc bãi khóa của học sinh 10 trường ở Sài Gòn vào ngày 23/11/1949. Lúc này, Trần Văn Ơn đang chuẩn bị thi tú tài, nhưng vẫn tích cực tham gia cuộc bãi khóa, đứng đầu nhóm học sinh của trường Pétrus Ký đi biểu tình.
Ngày 09/01/1950, ở Sài Gòn đã nổ ra một cuộc biểu tình lớn của hơn 6000 học sinh, sinh viên và giáo viên các trường, yêu cầu thủ tướng Trần Văn Hữu thả ngay những học sinh, sinh viên bị bắt. Một cuộc đàn áp đẫm máu diễn ra. Trần Văn Ơn đã dũng cảm đương đầu với dùi cui, che chở cho học sinh nhỏ tuổi và các nữ sinh thoát ra ngoài. Trước nguy cơ bị bắt, anh đã đạp đỗ hàng rào sắt hướng dẫn cho các bạn rút lui. Bọn địch nổ súng, Trần Văn Ơn đã anh dũng hy sinh khi chưa đầy 19 tuổi. Chúng ta sẽ không bao giờ quên được ngày 9/1, ngày mà anh Ơn và các bạn học sinh, sinh viên đã đem xương máu, sinh mạng của mình đổi lấy tự do cho các bạn bị giam cầm. Tinh thần anh Trần Văn Ơn bất diệt. Ngày 12-1-1950 hàng vạn người dân Sài Gòn đã xuống đường dự đám tang Trần Văn Ơn và đây trở thành cuộc biểu dương sức mạnh, lòng căm thù của nhân dân Sài Gòn - Gia Định đối với giặc Pháp. Ngày 23-3-2000, Trần Văn Ơn được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
Đại hội Liên đoàn Thanh niên Việt Nam tháng 2/1950 đã lấy ngày 09/01 làm ngày truyền thống hàng năm của học sinh, sinh viên Việt Nam. Truyền thống vẻ vang đó đã được các thế hệ học sinh, sinh viên kế thừa oanh liệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và trở thành bất diệt. Để tưởng nhớ công ơn anh, đoàn viên, thanh thiếu nhi tỉnh Bến Tre đã đóng góp xây dựng tượng đài Anh tại phường 2, thành phố Bến Tre và khu tưởng niệm Anh tại xã Phước Thạnh, huyện Châu Thành.
Nguyễn Văn Trỗi
Nguyễn Văn Trỗi sinh 1/2/1940 là con thứ ba trong một gia đình nghèo tại làng Thanh Quýt, xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, Quảng Nam. Sau Hiệp ước Geneve, gia đình anh vào Sài Gòn sinh sống. Lớn lên, anh làm thợ điện ở nhà máy điện Chợ Quán và tham gia tổ chức Biệt động thành, Đại đội quyết tử cánh Tây Nam Sài Gòn.
Năm 1964, anh được tập huấn cách đánh biệt động nội thành ở căn cứ Rừng Thơm, Đức Hòa, tỉnh Long An. Ngày 02/5/1964, anh nhận nhiệm vụ đặt mìn ở cầu Công Lý ám sát phái đoàn quân sự chính trị cao cấp của Chính phủ Hoa Kỳ do Bộ trưởng quốc phòng Robert McNamara dẫn đầu. Nhiệm vụ này ban đầu được giao cho một đồng đội của Trỗi, nhưng anh xung phong đi thay vì vợ chồng người đồng đội đó đã có con. Công việc bại lộ, anh bị bắt lúc 22 giờ ngày 9/5/1964.
Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đưa anh ra tòa án quân sự kết án tử hình. Nguyễn Văn Trỗi bị xử bắn tại sân sau nhà laoKhám Chí Hòa lúc 9 giờ 45 phút ngày 15/10/1964. Những phút cuối cùng, anh vẫn tỏ rõ khí chất của người anh hùng Đại đội quyết tử, không đồng ý bịt mắt và xưng tội và hô lên những lời cuối cùng:
Hãy nhớ lấy lời tôi
Đả đảo đế quốc Mỹ
Đả đảo Nguyễn Khánh
Hồ Chí Minh muôn năm
Hồ Chí Minh muôn năm
Hồ Chí Minh muôn năm!
Vì Tổ quốc, vì nhân dân, Nguyễn Văn Trỗi đã anh dũng đấu tranh chống đế quốc Mỹ đến hơi thở cuối cùng. Hình ảnh anh Trỗi hai tay bị trói chặt vào cột nhưng đôi mắt anh vẫn sáng lên, vẫn hiên ngang nhìn thẳng vào quân thù là một hình ảnh bất tử đi vào lịch sử, sự hy sinh của anh là tấm gương sáng ngời cho thế hệ trẻ noi theo. Sau khi chết, Nguyễn Văn Trỗi được truy nhận Đảng viên Nhân dân Cách mạng miền Nam và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam truy tặng Huân chương Thành đồng hạng nhất. Năm 2012, kỷ niệm 48 năm ngày mất, nhà tưởng niệm anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi được khánh thành trong khuôn viên nghĩa trang liệt sĩ huyện Điện Bàn (Quảng Nam). Tên ông được đặt cho nhiều con đường, nhiều trường học trên khắp Việt Nam.
Nguyễn Văn Cừ
Nguyễn Văn Cừ sinh ra trong một gia đình nhà Nho, quê xã Phù Khê, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh vào ngày 9/7/1912. Năm 1927, ông tham gia Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên. Tháng 6/1929, ông được kết nạp vào chi bộ Đông Dương Cộng sản đảng đầu tiên ở Hà Nội. Năm 1930, được cử làm Bí thư đặc khu Hồng Gai - Uông Bí. Bị Pháp bắt, kết án khổ sai, đày đi Côn Đảo.
Năm 1936, ông được trả tự do, về hoạt động bí mật ở Hà Nội. Nguyễn Văn Cừ đã tập trung vào công tác khôi phục cơ sở Đảng và đẩy mạnh phong trào đấu tranh của nhân dân và đã thành công trong việc lập lại Xứ uỷ Bắc kỳ và trở thành uỷ viên Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ. Tháng 9/1937, được cử vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ở Hội nghị Hóc Môn (Gia Định). Năm 1938, ông được bầu làm Tổng Bí thư khi mới 26 tuổi.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, Nghị quyết Hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương 11/1939 đã quyết định những vấn đề quan trọng trong chuyển hướng chiến lược cách mạng, mà nội dung trọng yếu là giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc – giai cấp, giai cấp – dân tộc, vấn đề xây dựng Đảng, Mặt trận và phương pháp cách mạng trong tình hình lịch sử mới.
Tháng 6/1940, ông bị thực dân Pháp bắt tại Sài Gòncùng với một số đảng viên khác. Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (1940), thực dân Pháp ghép ông vào tội đã thảo ra "Nghị quyết thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương", "chủ trương bạo động" và là "người có trách nhiệm tinh thần trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ" và kết án tử hình. Ngày 28/8/1941, bản án được thi hành cùng lúc với một số đảng viên cộng sản khác như Hà HUy Tập, Nguyễn thị minh Khai, Võ văn tần, Phan Đăng Lưu...tại trường bắn Hóc Môn.
Những đóng góp của ông trên lĩnh vực chính trị vẫn còn nguyên giá trị đến giai đoạn hiện nay đặc biệt là tác phẩm “Tự chỉ trích” của ông đã đóng góp quan trọng trong công tác sửa đổi lối làm việc, khơi dậy ý thức tự tu dưỡng và tự rèn luyện của thanh niên lúc bấy giờ.
Cù Chính Lan
Cù Chính Lan sinh năm 1930 trong một gia đình nông dân nghèo tại làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Cha là ông Cù Khắc Nhượng, mẹ là bà Hồ Thị Hạ. Anh là con thứ ba và là con út. Sớm mồ côi mẹ, nhà nghèo nên tuổi thơ ông phải đi cày thuê cuốc mướn để nuôi những đứa em cùng cha khác mẹ, hoàn cảnh đã hình thành trong ông lòng thương người, ý chí tự lập, căm ghét cảnh áp bức bất công, và luôn nuôi chí được cầm súng đánh đuổi quân xâm lược, để Tổ quốc sớm được độc lập tự do, người dân làng Quỳnh Đôi sớm hết nghèo khổ, tủi nhục, lầm than, sớm được hưởng cuộc sống thanh bình, no ấm. Năm 1946, quân Pháp trở lại xâm lược nước ta, Cù Chính Lan 16 tuổi đã xin gia nhập Vệ quốc đoàn.
Ngày 13/12/1951, ta mở trận tấn công cứ điểm Giang Mở. Trong khi bộ đội ta chân đất đầu trần đang tập trung áp sát mục tiêu thì gặp phải những chiếc xe tăng địch lao đến ứng cứu. Với khẩu tiểu liên trong tay và quả lựu đạn bên hông, Tiểu đội trưởng Cù Chính Lan tách đội hình chạy bộ cắt đường, đuổi kịp chiếc xe tăng đi đầu. Anh nhảy lên thành xe, cạy nắp tháp xe, thả lựu đạn đã rút chốt. Quả lựu đạn diệt gọn tốp địch bên trong, chiếc xe tăng bất động thành vật cản đường, những chiếc đi sau như rắn bị giập đầu không thể lên ứng cứu đồng bọn. Cứ điểm Giang Mở nhanh chóng bị ta tiêu diệt. Ngày 29/12/1951, anh cùng đồng đội đánh đồn Cô Tô, dù đã hai lần bị thương nhưng anh vẫn nén đau, tiếp tục phá mở những lớp rào gai, dọn đường cho đồng đội lên tiêu diệt địch. Lần thứ ba, anh bị thương nặng vẫn bám trụ trận địa, dốc hết tinh thần động viên anh em chiến đấu. Trận đánh kết thúc cũng là lúc Cù Chính Lan trút hơi thở cuối cùng giữa vòng tay đồng đội. Năm đó anh vừa tròn hai mươi tuổi, tiểu đội trưởng bộ binh, Đại đoàn 304, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tấm gương mưu trí, quả cảm, sáng tạo của Cù Chính Lan lập tức được bộ đội ta noi theo trên các chiến trường, khiến quân xâm lược ưu thế về vũ khí phải bạt vía kinh hồn. Cù Chính Lan là một hình ảnh sáng ngời của người chiến sĩ thi đua ái quốc. Ngày 19/5/1952, liệt sĩ Cù Chính Lan là 1 trong 7 người đầu tiên trên toàn quốc được Đảng và Chính phủ truy tặng Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Ngày 10/8/1952 tại buổi lễ Tuyên dương công trạng khi nghe đọc báo cáo của Anh hùng Cù Chính Lan, từ trên Đoàn Chủ tịch, Bác Hồ đề nghị toàn thể đứng dậy mặc niệm người con ưu tú của dân tộc.
Vừ A Dính
Anh hùng Lực lượng vũ trang Vừ A Dính, dân tộc Mông, sinh ngày 12-9-1934 tại bản Đề Chia, xã Pú Nhung, huyện Tuần Giáo, tỉnh Lai Châu (nay là tỉnh Điện Biên).Vừ A Dính là con thứ ba của ông Vừ Chống Lầu và bà Sùng Thị Plây. Gia đình Vừ A Dính là cơ sở cách mạng của huyện Tuần Giáo. Vừ A Dính sinh ra và lớn lên trong một gia đình người Mông có truyền thống yêu nước và cách mạng, cha mẹ đều là liệt sĩ. Ngay từ nhỏ, Dính là một cậu bé thông minh, gan dạ và nhanh nhẹn. Được cha mẹ giáo dục, Vừ A Dính đã sớm giác ngộ cách mạng và căm thù giặc Pháp xâm lược.
Mới 13 tuổi Vừ A Dính đã thoát ly gia đình trở thành đội viên liên lạc của đội vũ trang huyện Tuần Giáo. Đội vũ trang của Vừ A Dính hoạt động trên một địa bàn rất rộng, từ châu Điện Biên ra châu Tuần Giáo rồi ngược lên châu Tủa Chùa. Dấu chân của Dính và đội vũ trang in khắp núi rừng và các thôn bản trong huyện. Trung tuần tháng 6 năm 1949, giặc Pháp huy động tổng lực quân lính từ các đồn trong khu vực để vây ráp hòng tiêu diệt đội vũ trang Tuần Giáo của Vừ A Dính. Gần một nghìn quân đổ về khu căn cứ Pú Nhung từ nhiều ngả đường.
Trong một lần làm nhiệm vụ liên lạc, Vừ A Dính không may bị giặc bắt và tra tấn bằng những hình thức dã man, đánh đến anh gãy hết tay chân nhưng vẫn không lay chuyển nổi ý chí của anh. Chiều tối ngày 15-6-1949. Vừ A Dính đã anh dũng hy sinh bởi loạt đạn của quân thù bên gốc cây đào cổ thụ ở Khe Trúc gần đồn Bản Chăn, khi chưa tròn 15 tuổi. Vừ A Dính đã hy sinh trong tư thế hiên ngang không một chút run sợ.
Cuộc đời người chiến sĩ liên lạc nhỏ tuổi của đội vũ trang Tuần Giáo đã khép lại nhưng khí phách trung kiên bất khuất của Vừ A Dính trước quân thù như ngọn đuốc rực sáng núi rừng Tây Bắc.
Nguyễn Viết Xuân
Nguyễn Viết Xuân sinh năm 1934, dân tộc Kinh, quê xã Ngũ Kiên, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, lên 7 tuổi, Nguyễn Viết Xuân đã phải sống một cuộc đời đi ở kéo dài suốt 10 năm. 18 tuổi, anh đã dũng cảm vượt vùng tạm chiến ra vùng tự do, xin đi bộ đội. Nhập ngũ tháng 11 năm 1952, lúc đầu, anh làm chiến sỹ trinh sát, rồi tiểu đội trưởng trinh sát, trung đội trưởng pháo cao xạ, sau làm chính trị viên đại đội.
Trong Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, anh đã cùng đồng đội dũng cảm chiến đấu, không ngại hy sinh, gian khổ, góp phần vào thắng lợi chung của Chiến dịch. Năm 1964, Mỹ bị thất bại nặng nề trên chiến trường miền Nam nên mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân ra miền Bắc nước ta. Trong trận đánh địch ngày 18/11/1964, Mỹ đã huy động nhiều tốp máy bay đánh phá ác liệt vùng ChaLo thuộc miền tây tỉnh Quảng Bình. Ngay đợt đầu, 3 chiếc máy bay F.100 bất ngờ lao vào trận địa của đại đội Nguyễn Viết Xuân. Loạt đạn đầu tiên của khẩu đội 3 đã đón đánh chiếc đi đầu trong tốp, bọn địch đổi hướng tấn công và tập trung oanh tạc vào Khẩu đội 3. Cả trận địa nổ súng đánh trả quyết liệt, một chiếc trong tốp bay của địch trúng đạn bốc cháy, nhưng một chiếc khác đã phóng một loạt tên lửa về phía khẩu đội 3. Bất chấp nguy hiểm, Nguyễn Viết Xuân lao ra khỏi công sự, đứng bên khẩu đội 3 đĩnh đạc tỏ rõ khí phách và hô lớn: “Nhằm thẳng quân thù, bắn!”
Giữa làn bom đạn địch, tiếng hô dõng dạc của anh vang trên trận địa đã trở thành khẩu hiệu khích lệ mạnh mẽ tinh thần quyết chiến, quyết thắng của toàn đơn vị. Quân địch tăng cường máy bay điên cuồng bắn phá trận địa của đại đội. Nguyễn Viết Xuân bị thương nặng, gãy nát đùi bên phải. Nhưng anh vẫn thản nhiên bảo y tá cắt nốt phần thịt dính vào chân, bỏ chân đi cho đỡ vướng. Anh nói: “Tôi không việc gì” và căn dặn y tá không được cho mọi người biết. Sau trận chiến đấu ác liệt, anh chỉ định người thay thế, phân công người chăm sóc các đồng đội bị thương, bình tĩnh bàn giao công việc rất tỉ mỉ, rõ ràng trước lúc hi sinh. Khi hy sinh, anh là thiếu uý, chính trị viên đại đội 3, tiểu đoàn 14 pháo cao xạ, sư đoàn 325, Quân khu 4, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tấm gương chiến đấu anh dũng quên mình vì nhiệm vụ của đồng chí được cán bộ chiến sĩ trong đơn vị rất cảm phục. Ngày 1 tháng 1 năm 1967, Nguyễn Viết Xuân đã được nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.