Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích bài thơ Ghét chuột - Phân tích bài thơ "Ngụ hứng ở quán Trung Tân"

6 trả lời
Hỏi chi tiết
291
0
0
Phạm Văn Bắc
07/04/2018 13:08:21

Đề bài: Phân tích bài thơ "Ghét chuột" để cho thấy tấm lòng của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với nhân dân và thái độ đối với bọn tham quan ô lại trong xã hội cũ.

Bài làm

   Trạng Trình - Nguyễn Bỉnh Khiêm(1491-1585) là nhà triết học vĩ đại, nhà thơ lớn của đất nước ta trong thế kỉ XVI. Học vấn uyên bác, đạo đức cao khiết, tài năng lỗi lạc, như cây đại thụ tỏa bóng mát cả một thời đại. Tuy sống giữa một giai đoạn lịch sử đầy biến động, nội chiến kéo dài, nhân dân chìm đắm trong lầm than, cực khổ nhưng ông vẫn giữ trọn nhân cách, trở thành ông thầy vĩ đại, xứng đáng với danh hiệu Tuyết Giang phu tử. Ông là nhà thơ giàu tình yêu thương nhân dân. Thơ của ông đã phản ánh và lên án những bất công, thối nát của xã hội phong kiến Việt Nam thời bấy giờ.

   Bài thơ "Ghét chuột" được viết bằng chữ Hán, theo thể ngũ ngôn trường thiên, rút trong tập "Bạch Vân am thi tập" của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ngô Lập Chi đã dịch bài thơ ra tiếng Việt, theo đúng nguyên điệu. Bài thơ mang dáng dấp một thiên ngụ ngôn. Nhà thơ đứng về phía nhân dân lầm than mà căm giận và khinh bỉ bọn quan lại gian tham, độc ác trong xã hội phong kiến mục nát. Yêu, ghét dứt khoát, rõ rang trên cơ sở yêu thương nhân dân là nét nổi bật nhất trong tư tưởng nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.

   Đoạn đầu bài thơ, ngôn ngữ trang trọng, mang màu sắc giáo huấn, phản ánh tư tưởng "lấy dân làm gốc". Con người phải được dạy dỗ, biết làm ăn, sống vì một đạo lý cao đẹp:

"Ôi ! xưa bậc thánh nhân Dạy dân trồng ngũ cốc Cha mẹ được phụng thờ Vợ con được săn sóc".

   Nhà thơ ngụ ý nhắc nhở mọi người phải biết sống lương thiện, không được làm điều ác, trái lương tâm. "Ấm no đều muốn được" là niềm khao khát và ước mong của mọi người. Tư tưởng "lấy dân làm gốc" ấy được diễn đạt một cách trang nghiêm, sâu sắc qua sáu câu thơ đầu, cho thấy tâm hồn và cốt cách cao cả của thi nhân.

   Mười câu thơ tiếp theo nói về "lũ chuột lớn bất nhân". Nghệ thuật phúng dụ được vận dụng sâu sắc đã vẽ lên bộ mặt gớm ghiếc của lũ chuột bốn chân và bầy chuột hai chân trong xã hội thối nát thời bấy giờ . Chúng là "lũ bất nhân" phá hoại mùa màng, "gặm khoét" lương thực, làm cho ruộng đồng xác xơ, kho đụn "kiệt gạo thóc". Tội ác của lũ chuột tày trời:

"Chuột lớn sào bất nhân Gặm khoét thật thảm độc Đồng ruộng trơ rơm khô Kho đụn kiệt gạo thóc".

   Con người thế là hết đường sinh sống. Còn gì nữa để phụng dưỡng cha mẹ và chăm sóc vợ con? Hai lần nhà thơ giận dữ hỏi tội lũ bất lương, tàn ác:"Chuột lớn sao bất nhân?" ... "Sao dám khinh mạng dân?". Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng dâng sớ xin chém lũ nịnh thần hại dân, hại nước. Vì thế, thái độ quyết liệt của ông đối với "lũ chuột lớn" là điều dễ hiểu. Người đọc gàn năm thế kỷ qua vô cùng than phục thái độ căm giận và khinh bỉ của Nguyễn Bỉnh Khiêm đói với bọn tham quan ô lại.

   Lũ "chuột lớn" đã gieo rắc bao tai họa khủng khiếp cho nhân dân. Hai câu thơ được viết theo thủ pháp "bình đối", gợi ra trước mắt nhân gian cuộc sống bi thảm của người dân lam lũ, đói rét:

"Khó nhọc nông phu than Đói gầy nông phụ khóc".

   Tiếng "than khóc" của nhà nông vang dậy đất trời. Bằng cả tấm lòng nhân ái bao la, Nguyễn Bỉnh Khiêm đau cho nỗi đau của dân lành. Ông mãi sống trong niềm kính phục của nhân dân ta.

   Thấp thoáng, ẩn hiện trong những vần thơ là hình ảnh ghê tởm của "lũ chuột hai chân" và "bầy chuột hai chân". Nói đến chuột là phải nói đến hang, lỗ của chúng. Nói đến chuột là phải nói đến thái độ của nhân dân. Và nhà thơ đã viết:

"Rình mò dưới lỗ hang Thân dân đều căm tức".

   "Lỗ hang" là dịch thoát hai chữ "thành, xã". "Thành" là nơi quốc cấm, bất khả xâm phạm. "Xã" là nơi thờ cúng tôn nghiêm, ai dám đào bới? "Lỗ hang" (thành, xã) trong câu thơ là biểu tượng ám chỉ bọn vua chúa, quan lại bề trên, chỗ dựa của bọn tham quan ô lại. "Lũ chuột lớn" ấy ra sức đục khoét dân lành mà không ai dám động đến chúng. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có cái nhìn phên phán sắc bén chỉ ea nguyên nhân sâu xa gây ra mọi tội ác trong xã hội thối nát. Giá trị tố cáo hiện thực của bài thơ "Ghét chuột" càng trở nên mạnh mẽ.

   Sáu câu thơ cuối bài biểu lộ trực tiếp thái độ yêu ghét của nhà thơ. Ông nguyền rủa "lũ chuột" tất sẽ bị người ta xé xác, phanh thây làm mồi cho diều quạ. Ý thơ hàm súc như dồn nén tất cả sợ giận dữ, căm ghét:

"Quấy nhiễu mất lòng người Tất bị người xé xác Thây phơi khắp thị thành Thịt quạ diều rỉa bóc!"

   Tội ác bị trừng phạt, tai họa được diệt trừ. Đó là niềm tin của Nguyễn Bỉnh Khiêm về sức mạnh nhân dân và đạo lý ở đời. Nếu như trong thế kir XVI, Ức Trai đã cầu mong "dân giàu đủ khắp đòi phương" giữa mộ nền thái bình bền vững, thì ở đây, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chỉ có một ước muốn "lớp dân tàn" đang bị đói rét đau thương được sống một cuộc đời yên vui, hạnh phúc an cư lạc nghiệp.

"Khiến cho lớp dân tàn Cùng an hưởng hạnh phúc"

   Cảm phục biết bao tấm lòng ưu ái mênh mông của Bạch Vân cư sĩ.

   "Ghét chuột" là một bài thơ độc đáo về đề tài, sắc bén ở thủ pháp nghệ thuật phúng dụ: Mượn con chuột bốn chân để vạch mặt bọn quan lại tham ô gây biết bao tội ác trong xã hội, sống xa hoa trên máu và nước mắt của nhân dân. Điều đáng quý nhất, đáng khâm phục nhất là tình thương yêu và lòng căm giận một cách sâu sắc, mạnh mẽ của tác giả. Nội dung tố cáo hiện thực và tinh t;hần nhân đạo là giá trị lớn của bài thơ.

   Bài thơ "Ghét chuột" ra đời ngót năm tram năm mà vẫn nóng bỏng tình yêu ghét, giàu tính chiến đấy, vẫn mang ý nghĩa thời sự lớn lao. Tư tưởng "an dân" của Trạng Trình mãi mãi rực sang "như nhật trung thiên". Tình thương dân và lo đời của nhà thơ quê hương mãi mãi dạt dào như dòng sông Tuyết Giang vậy.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
Nguyễn Thị Nhài
07/04/2018 11:15:02

Đề bài: Phân tích bài thơ "Ghét chuột" để cho thấy tấm lòng của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với nhân dân và thái độ đối với bọn tham quan ô lại trong xã hội cũ.

Bài làm

   Trạng Trình - Nguyễn Bỉnh Khiêm(1491-1585) là nhà triết học vĩ đại, nhà thơ lớn của đất nước ta trong thế kỉ XVI. Học vấn uyên bác, đạo đức cao khiết, tài năng lỗi lạc, như cây đại thụ tỏa bóng mát cả một thời đại. Tuy sống giữa một giai đoạn lịch sử đầy biến động, nội chiến kéo dài, nhân dân chìm đắm trong lầm than, cực khổ nhưng ông vẫn giữ trọn nhân cách, trở thành ông thầy vĩ đại, xứng đáng với danh hiệu Tuyết Giang phu tử. Ông là nhà thơ giàu tình yêu thương nhân dân. Thơ của ông đã phản ánh và lên án những bất công, thối nát của xã hội phong kiến Việt Nam thời bấy giờ.

   Bài thơ "Ghét chuột" được viết bằng chữ Hán, theo thể ngũ ngôn trường thiên, rút trong tập "Bạch Vân am thi tập" của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ngô Lập Chi đã dịch bài thơ ra tiếng Việt, theo đúng nguyên điệu. Bài thơ mang dáng dấp một thiên ngụ ngôn. Nhà thơ đứng về phía nhân dân lầm than mà căm giận và khinh bỉ bọn quan lại gian tham, độc ác trong xã hội phong kiến mục nát. Yêu, ghét dứt khoát, rõ rang trên cơ sở yêu thương nhân dân là nét nổi bật nhất trong tư tưởng nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.

   Đoạn đầu bài thơ, ngôn ngữ trang trọng, mang màu sắc giáo huấn, phản ánh tư tưởng "lấy dân làm gốc". Con người phải được dạy dỗ, biết làm ăn, sống vì một đạo lý cao đẹp:

"Ôi ! xưa bậc thánh nhân Dạy dân trồng ngũ cốc Cha mẹ được phụng thờ Vợ con được săn sóc".

   Nhà thơ ngụ ý nhắc nhở mọi người phải biết sống lương thiện, không được làm điều ác, trái lương tâm. "Ấm no đều muốn được" là niềm khao khát và ước mong của mọi người. Tư tưởng "lấy dân làm gốc" ấy được diễn đạt một cách trang nghiêm, sâu sắc qua sáu câu thơ đầu, cho thấy tâm hồn và cốt cách cao cả của thi nhân.

   Mười câu thơ tiếp theo nói về "lũ chuột lớn bất nhân". Nghệ thuật phúng dụ được vận dụng sâu sắc đã vẽ lên bộ mặt gớm ghiếc của lũ chuột bốn chân và bầy chuột hai chân trong xã hội thối nát thời bấy giờ . Chúng là "lũ bất nhân" phá hoại mùa màng, "gặm khoét" lương thực, làm cho ruộng đồng xác xơ, kho đụn "kiệt gạo thóc". Tội ác của lũ chuột tày trời:

"Chuột lớn sào bất nhân Gặm khoét thật thảm độc Đồng ruộng trơ rơm khô Kho đụn kiệt gạo thóc".

   Con người thế là hết đường sinh sống. Còn gì nữa để phụng dưỡng cha mẹ và chăm sóc vợ con? Hai lần nhà thơ giận dữ hỏi tội lũ bất lương, tàn ác:"Chuột lớn sao bất nhân?" ... "Sao dám khinh mạng dân?". Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng dâng sớ xin chém lũ nịnh thần hại dân, hại nước. Vì thế, thái độ quyết liệt của ông đối với "lũ chuột lớn" là điều dễ hiểu. Người đọc gàn năm thế kỷ qua vô cùng than phục thái độ căm giận và khinh bỉ của Nguyễn Bỉnh Khiêm đói với bọn tham quan ô lại.

   Lũ "chuột lớn" đã gieo rắc bao tai họa khủng khiếp cho nhân dân. Hai câu thơ được viết theo thủ pháp "bình đối", gợi ra trước mắt nhân gian cuộc sống bi thảm của người dân lam lũ, đói rét:

"Khó nhọc nông phu than Đói gầy nông phụ khóc".

   Tiếng "than khóc" của nhà nông vang dậy đất trời. Bằng cả tấm lòng nhân ái bao la, Nguyễn Bỉnh Khiêm đau cho nỗi đau của dân lành. Ông mãi sống trong niềm kính phục của nhân dân ta.

   Thấp thoáng, ẩn hiện trong những vần thơ là hình ảnh ghê tởm của "lũ chuột hai chân" và "bầy chuột hai chân". Nói đến chuột là phải nói đến hang, lỗ của chúng. Nói đến chuột là phải nói đến thái độ của nhân dân. Và nhà thơ đã viết:

"Rình mò dưới lỗ hang Thân dân đều căm tức".

   "Lỗ hang" là dịch thoát hai chữ "thành, xã". "Thành" là nơi quốc cấm, bất khả xâm phạm. "Xã" là nơi thờ cúng tôn nghiêm, ai dám đào bới? "Lỗ hang" (thành, xã) trong câu thơ là biểu tượng ám chỉ bọn vua chúa, quan lại bề trên, chỗ dựa của bọn tham quan ô lại. "Lũ chuột lớn" ấy ra sức đục khoét dân lành mà không ai dám động đến chúng. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có cái nhìn phên phán sắc bén chỉ ea nguyên nhân sâu xa gây ra mọi tội ác trong xã hội thối nát. Giá trị tố cáo hiện thực của bài thơ "Ghét chuột" càng trở nên mạnh mẽ.

   Sáu câu thơ cuối bài biểu lộ trực tiếp thái độ yêu ghét của nhà thơ. Ông nguyền rủa "lũ chuột" tất sẽ bị người ta xé xác, phanh thây làm mồi cho diều quạ. Ý thơ hàm súc như dồn nén tất cả sợ giận dữ, căm ghét:

"Quấy nhiễu mất lòng người Tất bị người xé xác Thây phơi khắp thị thành Thịt quạ diều rỉa bóc!"

   Tội ác bị trừng phạt, tai họa được diệt trừ. Đó là niềm tin của Nguyễn Bỉnh Khiêm về sức mạnh nhân dân và đạo lý ở đời. Nếu như trong thế kir XVI, Ức Trai đã cầu mong "dân giàu đủ khắp đòi phương" giữa mộ nền thái bình bền vững, thì ở đây, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chỉ có một ước muốn "lớp dân tàn" đang bị đói rét đau thương được sống một cuộc đời yên vui, hạnh phúc an cư lạc nghiệp.

"Khiến cho lớp dân tàn Cùng an hưởng hạnh phúc"

   Cảm phục biết bao tấm lòng ưu ái mênh mông của Bạch Vân cư sĩ.

   "Ghét chuột" là một bài thơ độc đáo về đề tài, sắc bén ở thủ pháp nghệ thuật phúng dụ: Mượn con chuột bốn chân để vạch mặt bọn quan lại tham ô gây biết bao tội ác trong xã hội, sống xa hoa trên máu và nước mắt của nhân dân. Điều đáng quý nhất, đáng khâm phục nhất là tình thương yêu và lòng căm giận một cách sâu sắc, mạnh mẽ của tác giả. Nội dung tố cáo hiện thực và tinh t;hần nhân đạo là giá trị lớn của bài thơ.

   Bài thơ "Ghét chuột" ra đời ngót năm tram năm mà vẫn nóng bỏng tình yêu ghét, giàu tính chiến đấy, vẫn mang ý nghĩa thời sự lớn lao. Tư tưởng "an dân" của Trạng Trình mãi mãi rực sang "như nhật trung thiên". Tình thương dân và lo đời của nhà thơ quê hương mãi mãi dạt dào như dòng sông Tuyết Giang vậy.

0
0
Phạm Văn Phú
07/04/2018 11:15:02

Đề bài: Phân tích bài thơ "Ghét chuột" để cho thấy tấm lòng của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với nhân dân và thái độ đối với bọn tham quan ô lại trong xã hội cũ.

Bài làm

   Trạng Trình - Nguyễn Bỉnh Khiêm(1491-1585) là nhà triết học vĩ đại, nhà thơ lớn của đất nước ta trong thế kỉ XVI. Học vấn uyên bác, đạo đức cao khiết, tài năng lỗi lạc, như cây đại thụ tỏa bóng mát cả một thời đại. Tuy sống giữa một giai đoạn lịch sử đầy biến động, nội chiến kéo dài, nhân dân chìm đắm trong lầm than, cực khổ nhưng ông vẫn giữ trọn nhân cách, trở thành ông thầy vĩ đại, xứng đáng với danh hiệu Tuyết Giang phu tử. Ông là nhà thơ giàu tình yêu thương nhân dân. Thơ của ông đã phản ánh và lên án những bất công, thối nát của xã hội phong kiến Việt Nam thời bấy giờ.

   Bài thơ "Ghét chuột" được viết bằng chữ Hán, theo thể ngũ ngôn trường thiên, rút trong tập "Bạch Vân am thi tập" của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ngô Lập Chi đã dịch bài thơ ra tiếng Việt, theo đúng nguyên điệu. Bài thơ mang dáng dấp một thiên ngụ ngôn. Nhà thơ đứng về phía nhân dân lầm than mà căm giận và khinh bỉ bọn quan lại gian tham, độc ác trong xã hội phong kiến mục nát. Yêu, ghét dứt khoát, rõ rang trên cơ sở yêu thương nhân dân là nét nổi bật nhất trong tư tưởng nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.

   Đoạn đầu bài thơ, ngôn ngữ trang trọng, mang màu sắc giáo huấn, phản ánh tư tưởng "lấy dân làm gốc". Con người phải được dạy dỗ, biết làm ăn, sống vì một đạo lý cao đẹp:

"Ôi ! xưa bậc thánh nhân Dạy dân trồng ngũ cốc Cha mẹ được phụng thờ Vợ con được săn sóc".

   Nhà thơ ngụ ý nhắc nhở mọi người phải biết sống lương thiện, không được làm điều ác, trái lương tâm. "Ấm no đều muốn được" là niềm khao khát và ước mong của mọi người. Tư tưởng "lấy dân làm gốc" ấy được diễn đạt một cách trang nghiêm, sâu sắc qua sáu câu thơ đầu, cho thấy tâm hồn và cốt cách cao cả của thi nhân.

   Mười câu thơ tiếp theo nói về "lũ chuột lớn bất nhân". Nghệ thuật phúng dụ được vận dụng sâu sắc đã vẽ lên bộ mặt gớm ghiếc của lũ chuột bốn chân và bầy chuột hai chân trong xã hội thối nát thời bấy giờ . Chúng là "lũ bất nhân" phá hoại mùa màng, "gặm khoét" lương thực, làm cho ruộng đồng xác xơ, kho đụn "kiệt gạo thóc". Tội ác của lũ chuột tày trời:

"Chuột lớn sào bất nhân Gặm khoét thật thảm độc Đồng ruộng trơ rơm khô Kho đụn kiệt gạo thóc".

   Con người thế là hết đường sinh sống. Còn gì nữa để phụng dưỡng cha mẹ và chăm sóc vợ con? Hai lần nhà thơ giận dữ hỏi tội lũ bất lương, tàn ác:"Chuột lớn sao bất nhân?" ... "Sao dám khinh mạng dân?". Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng dâng sớ xin chém lũ nịnh thần hại dân, hại nước. Vì thế, thái độ quyết liệt của ông đối với "lũ chuột lớn" là điều dễ hiểu. Người đọc gàn năm thế kỷ qua vô cùng than phục thái độ căm giận và khinh bỉ của Nguyễn Bỉnh Khiêm đói với bọn tham quan ô lại.

   Lũ "chuột lớn" đã gieo rắc bao tai họa khủng khiếp cho nhân dân. Hai câu thơ được viết theo thủ pháp "bình đối", gợi ra trước mắt nhân gian cuộc sống bi thảm của người dân lam lũ, đói rét:

"Khó nhọc nông phu than Đói gầy nông phụ khóc".

   Tiếng "than khóc" của nhà nông vang dậy đất trời. Bằng cả tấm lòng nhân ái bao la, Nguyễn Bỉnh Khiêm đau cho nỗi đau của dân lành. Ông mãi sống trong niềm kính phục của nhân dân ta.

   Thấp thoáng, ẩn hiện trong những vần thơ là hình ảnh ghê tởm của "lũ chuột hai chân" và "bầy chuột hai chân". Nói đến chuột là phải nói đến hang, lỗ của chúng. Nói đến chuột là phải nói đến thái độ của nhân dân. Và nhà thơ đã viết:

"Rình mò dưới lỗ hang Thân dân đều căm tức".

   "Lỗ hang" là dịch thoát hai chữ "thành, xã". "Thành" là nơi quốc cấm, bất khả xâm phạm. "Xã" là nơi thờ cúng tôn nghiêm, ai dám đào bới? "Lỗ hang" (thành, xã) trong câu thơ là biểu tượng ám chỉ bọn vua chúa, quan lại bề trên, chỗ dựa của bọn tham quan ô lại. "Lũ chuột lớn" ấy ra sức đục khoét dân lành mà không ai dám động đến chúng. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có cái nhìn phên phán sắc bén chỉ ea nguyên nhân sâu xa gây ra mọi tội ác trong xã hội thối nát. Giá trị tố cáo hiện thực của bài thơ "Ghét chuột" càng trở nên mạnh mẽ.

   Sáu câu thơ cuối bài biểu lộ trực tiếp thái độ yêu ghét của nhà thơ. Ông nguyền rủa "lũ chuột" tất sẽ bị người ta xé xác, phanh thây làm mồi cho diều quạ. Ý thơ hàm súc như dồn nén tất cả sợ giận dữ, căm ghét:

"Quấy nhiễu mất lòng người Tất bị người xé xác Thây phơi khắp thị thành Thịt quạ diều rỉa bóc!"

   Tội ác bị trừng phạt, tai họa được diệt trừ. Đó là niềm tin của Nguyễn Bỉnh Khiêm về sức mạnh nhân dân và đạo lý ở đời. Nếu như trong thế kir XVI, Ức Trai đã cầu mong "dân giàu đủ khắp đòi phương" giữa mộ nền thái bình bền vững, thì ở đây, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chỉ có một ước muốn "lớp dân tàn" đang bị đói rét đau thương được sống một cuộc đời yên vui, hạnh phúc an cư lạc nghiệp.

"Khiến cho lớp dân tàn Cùng an hưởng hạnh phúc"

   Cảm phục biết bao tấm lòng ưu ái mênh mông của Bạch Vân cư sĩ.

   "Ghét chuột" là một bài thơ độc đáo về đề tài, sắc bén ở thủ pháp nghệ thuật phúng dụ: Mượn con chuột bốn chân để vạch mặt bọn quan lại tham ô gây biết bao tội ác trong xã hội, sống xa hoa trên máu và nước mắt của nhân dân. Điều đáng quý nhất, đáng khâm phục nhất là tình thương yêu và lòng căm giận một cách sâu sắc, mạnh mẽ của tác giả. Nội dung tố cáo hiện thực và tinh t;hần nhân đạo là giá trị lớn của bài thơ.

   Bài thơ "Ghét chuột" ra đời ngót năm tram năm mà vẫn nóng bỏng tình yêu ghét, giàu tính chiến đấy, vẫn mang ý nghĩa thời sự lớn lao. Tư tưởng "an dân" của Trạng Trình mãi mãi rực sang "như nhật trung thiên". Tình thương dân và lo đời của nhà thơ quê hương mãi mãi dạt dào như dòng sông Tuyết Giang vậy.

0
0
Nguyễn Thị Nhài
07/04/2018 11:15:02

Đề bài: Phân tích bài thơ "Ghét chuột" để cho thấy tấm lòng của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với nhân dân và thái độ đối với bọn tham quan ô lại trong xã hội cũ.

Bài làm

   Trạng Trình - Nguyễn Bỉnh Khiêm(1491-1585) là nhà triết học vĩ đại, nhà thơ lớn của đất nước ta trong thế kỉ XVI. Học vấn uyên bác, đạo đức cao khiết, tài năng lỗi lạc, như cây đại thụ tỏa bóng mát cả một thời đại. Tuy sống giữa một giai đoạn lịch sử đầy biến động, nội chiến kéo dài, nhân dân chìm đắm trong lầm than, cực khổ nhưng ông vẫn giữ trọn nhân cách, trở thành ông thầy vĩ đại, xứng đáng với danh hiệu Tuyết Giang phu tử. Ông là nhà thơ giàu tình yêu thương nhân dân. Thơ của ông đã phản ánh và lên án những bất công, thối nát của xã hội phong kiến Việt Nam thời bấy giờ.

   Bài thơ "Ghét chuột" được viết bằng chữ Hán, theo thể ngũ ngôn trường thiên, rút trong tập "Bạch Vân am thi tập" của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ngô Lập Chi đã dịch bài thơ ra tiếng Việt, theo đúng nguyên điệu. Bài thơ mang dáng dấp một thiên ngụ ngôn. Nhà thơ đứng về phía nhân dân lầm than mà căm giận và khinh bỉ bọn quan lại gian tham, độc ác trong xã hội phong kiến mục nát. Yêu, ghét dứt khoát, rõ rang trên cơ sở yêu thương nhân dân là nét nổi bật nhất trong tư tưởng nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.

   Đoạn đầu bài thơ, ngôn ngữ trang trọng, mang màu sắc giáo huấn, phản ánh tư tưởng "lấy dân làm gốc". Con người phải được dạy dỗ, biết làm ăn, sống vì một đạo lý cao đẹp:

"Ôi ! xưa bậc thánh nhân Dạy dân trồng ngũ cốc Cha mẹ được phụng thờ Vợ con được săn sóc".

   Nhà thơ ngụ ý nhắc nhở mọi người phải biết sống lương thiện, không được làm điều ác, trái lương tâm. "Ấm no đều muốn được" là niềm khao khát và ước mong của mọi người. Tư tưởng "lấy dân làm gốc" ấy được diễn đạt một cách trang nghiêm, sâu sắc qua sáu câu thơ đầu, cho thấy tâm hồn và cốt cách cao cả của thi nhân.

   Mười câu thơ tiếp theo nói về "lũ chuột lớn bất nhân". Nghệ thuật phúng dụ được vận dụng sâu sắc đã vẽ lên bộ mặt gớm ghiếc của lũ chuột bốn chân và bầy chuột hai chân trong xã hội thối nát thời bấy giờ . Chúng là "lũ bất nhân" phá hoại mùa màng, "gặm khoét" lương thực, làm cho ruộng đồng xác xơ, kho đụn "kiệt gạo thóc". Tội ác của lũ chuột tày trời:

"Chuột lớn sào bất nhân Gặm khoét thật thảm độc Đồng ruộng trơ rơm khô Kho đụn kiệt gạo thóc".

   Con người thế là hết đường sinh sống. Còn gì nữa để phụng dưỡng cha mẹ và chăm sóc vợ con? Hai lần nhà thơ giận dữ hỏi tội lũ bất lương, tàn ác:"Chuột lớn sao bất nhân?" ... "Sao dám khinh mạng dân?". Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng dâng sớ xin chém lũ nịnh thần hại dân, hại nước. Vì thế, thái độ quyết liệt của ông đối với "lũ chuột lớn" là điều dễ hiểu. Người đọc gàn năm thế kỷ qua vô cùng than phục thái độ căm giận và khinh bỉ của Nguyễn Bỉnh Khiêm đói với bọn tham quan ô lại.

   Lũ "chuột lớn" đã gieo rắc bao tai họa khủng khiếp cho nhân dân. Hai câu thơ được viết theo thủ pháp "bình đối", gợi ra trước mắt nhân gian cuộc sống bi thảm của người dân lam lũ, đói rét:

"Khó nhọc nông phu than Đói gầy nông phụ khóc".

   Tiếng "than khóc" của nhà nông vang dậy đất trời. Bằng cả tấm lòng nhân ái bao la, Nguyễn Bỉnh Khiêm đau cho nỗi đau của dân lành. Ông mãi sống trong niềm kính phục của nhân dân ta.

   Thấp thoáng, ẩn hiện trong những vần thơ là hình ảnh ghê tởm của "lũ chuột hai chân" và "bầy chuột hai chân". Nói đến chuột là phải nói đến hang, lỗ của chúng. Nói đến chuột là phải nói đến thái độ của nhân dân. Và nhà thơ đã viết:

"Rình mò dưới lỗ hang Thân dân đều căm tức".

   "Lỗ hang" là dịch thoát hai chữ "thành, xã". "Thành" là nơi quốc cấm, bất khả xâm phạm. "Xã" là nơi thờ cúng tôn nghiêm, ai dám đào bới? "Lỗ hang" (thành, xã) trong câu thơ là biểu tượng ám chỉ bọn vua chúa, quan lại bề trên, chỗ dựa của bọn tham quan ô lại. "Lũ chuột lớn" ấy ra sức đục khoét dân lành mà không ai dám động đến chúng. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có cái nhìn phên phán sắc bén chỉ ea nguyên nhân sâu xa gây ra mọi tội ác trong xã hội thối nát. Giá trị tố cáo hiện thực của bài thơ "Ghét chuột" càng trở nên mạnh mẽ.

   Sáu câu thơ cuối bài biểu lộ trực tiếp thái độ yêu ghét của nhà thơ. Ông nguyền rủa "lũ chuột" tất sẽ bị người ta xé xác, phanh thây làm mồi cho diều quạ. Ý thơ hàm súc như dồn nén tất cả sợ giận dữ, căm ghét:

"Quấy nhiễu mất lòng người Tất bị người xé xác Thây phơi khắp thị thành Thịt quạ diều rỉa bóc!"

   Tội ác bị trừng phạt, tai họa được diệt trừ. Đó là niềm tin của Nguyễn Bỉnh Khiêm về sức mạnh nhân dân và đạo lý ở đời. Nếu như trong thế kir XVI, Ức Trai đã cầu mong "dân giàu đủ khắp đòi phương" giữa mộ nền thái bình bền vững, thì ở đây, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chỉ có một ước muốn "lớp dân tàn" đang bị đói rét đau thương được sống một cuộc đời yên vui, hạnh phúc an cư lạc nghiệp.

"Khiến cho lớp dân tàn Cùng an hưởng hạnh phúc"

   Cảm phục biết bao tấm lòng ưu ái mênh mông của Bạch Vân cư sĩ.

   "Ghét chuột" là một bài thơ độc đáo về đề tài, sắc bén ở thủ pháp nghệ thuật phúng dụ: Mượn con chuột bốn chân để vạch mặt bọn quan lại tham ô gây biết bao tội ác trong xã hội, sống xa hoa trên máu và nước mắt của nhân dân. Điều đáng quý nhất, đáng khâm phục nhất là tình thương yêu và lòng căm giận một cách sâu sắc, mạnh mẽ của tác giả. Nội dung tố cáo hiện thực và tinh t;hần nhân đạo là giá trị lớn của bài thơ.

   Bài thơ "Ghét chuột" ra đời ngót năm tram năm mà vẫn nóng bỏng tình yêu ghét, giàu tính chiến đấy, vẫn mang ý nghĩa thời sự lớn lao. Tư tưởng "an dân" của Trạng Trình mãi mãi rực sang "như nhật trung thiên". Tình thương dân và lo đời của nhà thơ quê hương mãi mãi dạt dào như dòng sông Tuyết Giang vậy.

0
0
Bạch Tuyết
07/04/2018 11:15:02

Đề bài: Phân tích bài thơ "Ghét chuột" để cho thấy tấm lòng của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với nhân dân và thái độ đối với bọn tham quan ô lại trong xã hội cũ.

Bài làm

   Trạng Trình - Nguyễn Bỉnh Khiêm(1491-1585) là nhà triết học vĩ đại, nhà thơ lớn của đất nước ta trong thế kỉ XVI. Học vấn uyên bác, đạo đức cao khiết, tài năng lỗi lạc, như cây đại thụ tỏa bóng mát cả một thời đại. Tuy sống giữa một giai đoạn lịch sử đầy biến động, nội chiến kéo dài, nhân dân chìm đắm trong lầm than, cực khổ nhưng ông vẫn giữ trọn nhân cách, trở thành ông thầy vĩ đại, xứng đáng với danh hiệu Tuyết Giang phu tử. Ông là nhà thơ giàu tình yêu thương nhân dân. Thơ của ông đã phản ánh và lên án những bất công, thối nát của xã hội phong kiến Việt Nam thời bấy giờ.

   Bài thơ "Ghét chuột" được viết bằng chữ Hán, theo thể ngũ ngôn trường thiên, rút trong tập "Bạch Vân am thi tập" của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ngô Lập Chi đã dịch bài thơ ra tiếng Việt, theo đúng nguyên điệu. Bài thơ mang dáng dấp một thiên ngụ ngôn. Nhà thơ đứng về phía nhân dân lầm than mà căm giận và khinh bỉ bọn quan lại gian tham, độc ác trong xã hội phong kiến mục nát. Yêu, ghét dứt khoát, rõ rang trên cơ sở yêu thương nhân dân là nét nổi bật nhất trong tư tưởng nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.

   Đoạn đầu bài thơ, ngôn ngữ trang trọng, mang màu sắc giáo huấn, phản ánh tư tưởng "lấy dân làm gốc". Con người phải được dạy dỗ, biết làm ăn, sống vì một đạo lý cao đẹp:

"Ôi ! xưa bậc thánh nhân Dạy dân trồng ngũ cốc Cha mẹ được phụng thờ Vợ con được săn sóc".

   Nhà thơ ngụ ý nhắc nhở mọi người phải biết sống lương thiện, không được làm điều ác, trái lương tâm. "Ấm no đều muốn được" là niềm khao khát và ước mong của mọi người. Tư tưởng "lấy dân làm gốc" ấy được diễn đạt một cách trang nghiêm, sâu sắc qua sáu câu thơ đầu, cho thấy tâm hồn và cốt cách cao cả của thi nhân.

   Mười câu thơ tiếp theo nói về "lũ chuột lớn bất nhân". Nghệ thuật phúng dụ được vận dụng sâu sắc đã vẽ lên bộ mặt gớm ghiếc của lũ chuột bốn chân và bầy chuột hai chân trong xã hội thối nát thời bấy giờ . Chúng là "lũ bất nhân" phá hoại mùa màng, "gặm khoét" lương thực, làm cho ruộng đồng xác xơ, kho đụn "kiệt gạo thóc". Tội ác của lũ chuột tày trời:

"Chuột lớn sào bất nhân Gặm khoét thật thảm độc Đồng ruộng trơ rơm khô Kho đụn kiệt gạo thóc".

   Con người thế là hết đường sinh sống. Còn gì nữa để phụng dưỡng cha mẹ và chăm sóc vợ con? Hai lần nhà thơ giận dữ hỏi tội lũ bất lương, tàn ác:"Chuột lớn sao bất nhân?" ... "Sao dám khinh mạng dân?". Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng dâng sớ xin chém lũ nịnh thần hại dân, hại nước. Vì thế, thái độ quyết liệt của ông đối với "lũ chuột lớn" là điều dễ hiểu. Người đọc gàn năm thế kỷ qua vô cùng than phục thái độ căm giận và khinh bỉ của Nguyễn Bỉnh Khiêm đói với bọn tham quan ô lại.

   Lũ "chuột lớn" đã gieo rắc bao tai họa khủng khiếp cho nhân dân. Hai câu thơ được viết theo thủ pháp "bình đối", gợi ra trước mắt nhân gian cuộc sống bi thảm của người dân lam lũ, đói rét:

"Khó nhọc nông phu than Đói gầy nông phụ khóc".

   Tiếng "than khóc" của nhà nông vang dậy đất trời. Bằng cả tấm lòng nhân ái bao la, Nguyễn Bỉnh Khiêm đau cho nỗi đau của dân lành. Ông mãi sống trong niềm kính phục của nhân dân ta.

   Thấp thoáng, ẩn hiện trong những vần thơ là hình ảnh ghê tởm của "lũ chuột hai chân" và "bầy chuột hai chân". Nói đến chuột là phải nói đến hang, lỗ của chúng. Nói đến chuột là phải nói đến thái độ của nhân dân. Và nhà thơ đã viết:

"Rình mò dưới lỗ hang Thân dân đều căm tức".

   "Lỗ hang" là dịch thoát hai chữ "thành, xã". "Thành" là nơi quốc cấm, bất khả xâm phạm. "Xã" là nơi thờ cúng tôn nghiêm, ai dám đào bới? "Lỗ hang" (thành, xã) trong câu thơ là biểu tượng ám chỉ bọn vua chúa, quan lại bề trên, chỗ dựa của bọn tham quan ô lại. "Lũ chuột lớn" ấy ra sức đục khoét dân lành mà không ai dám động đến chúng. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có cái nhìn phên phán sắc bén chỉ ea nguyên nhân sâu xa gây ra mọi tội ác trong xã hội thối nát. Giá trị tố cáo hiện thực của bài thơ "Ghét chuột" càng trở nên mạnh mẽ.

   Sáu câu thơ cuối bài biểu lộ trực tiếp thái độ yêu ghét của nhà thơ. Ông nguyền rủa "lũ chuột" tất sẽ bị người ta xé xác, phanh thây làm mồi cho diều quạ. Ý thơ hàm súc như dồn nén tất cả sợ giận dữ, căm ghét:

"Quấy nhiễu mất lòng người Tất bị người xé xác Thây phơi khắp thị thành Thịt quạ diều rỉa bóc!"

   Tội ác bị trừng phạt, tai họa được diệt trừ. Đó là niềm tin của Nguyễn Bỉnh Khiêm về sức mạnh nhân dân và đạo lý ở đời. Nếu như trong thế kir XVI, Ức Trai đã cầu mong "dân giàu đủ khắp đòi phương" giữa mộ nền thái bình bền vững, thì ở đây, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chỉ có một ước muốn "lớp dân tàn" đang bị đói rét đau thương được sống một cuộc đời yên vui, hạnh phúc an cư lạc nghiệp.

"Khiến cho lớp dân tàn Cùng an hưởng hạnh phúc"

   Cảm phục biết bao tấm lòng ưu ái mênh mông của Bạch Vân cư sĩ.

   "Ghét chuột" là một bài thơ độc đáo về đề tài, sắc bén ở thủ pháp nghệ thuật phúng dụ: Mượn con chuột bốn chân để vạch mặt bọn quan lại tham ô gây biết bao tội ác trong xã hội, sống xa hoa trên máu và nước mắt của nhân dân. Điều đáng quý nhất, đáng khâm phục nhất là tình thương yêu và lòng căm giận một cách sâu sắc, mạnh mẽ của tác giả. Nội dung tố cáo hiện thực và tinh t;hần nhân đạo là giá trị lớn của bài thơ.

   Bài thơ "Ghét chuột" ra đời ngót năm tram năm mà vẫn nóng bỏng tình yêu ghét, giàu tính chiến đấy, vẫn mang ý nghĩa thời sự lớn lao. Tư tưởng "an dân" của Trạng Trình mãi mãi rực sang "như nhật trung thiên". Tình thương dân và lo đời của nhà thơ quê hương mãi mãi dạt dào như dòng sông Tuyết Giang vậy.

0
0
CenaZero♡
07/04/2018 11:15:02

Đề bài: Phân tích bài thơ "Ghét chuột" để cho thấy tấm lòng của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với nhân dân và thái độ đối với bọn tham quan ô lại trong xã hội cũ.

Bài làm

   Trạng Trình - Nguyễn Bỉnh Khiêm(1491-1585) là nhà triết học vĩ đại, nhà thơ lớn của đất nước ta trong thế kỉ XVI. Học vấn uyên bác, đạo đức cao khiết, tài năng lỗi lạc, như cây đại thụ tỏa bóng mát cả một thời đại. Tuy sống giữa một giai đoạn lịch sử đầy biến động, nội chiến kéo dài, nhân dân chìm đắm trong lầm than, cực khổ nhưng ông vẫn giữ trọn nhân cách, trở thành ông thầy vĩ đại, xứng đáng với danh hiệu Tuyết Giang phu tử. Ông là nhà thơ giàu tình yêu thương nhân dân. Thơ của ông đã phản ánh và lên án những bất công, thối nát của xã hội phong kiến Việt Nam thời bấy giờ.

   Bài thơ "Ghét chuột" được viết bằng chữ Hán, theo thể ngũ ngôn trường thiên, rút trong tập "Bạch Vân am thi tập" của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ngô Lập Chi đã dịch bài thơ ra tiếng Việt, theo đúng nguyên điệu. Bài thơ mang dáng dấp một thiên ngụ ngôn. Nhà thơ đứng về phía nhân dân lầm than mà căm giận và khinh bỉ bọn quan lại gian tham, độc ác trong xã hội phong kiến mục nát. Yêu, ghét dứt khoát, rõ rang trên cơ sở yêu thương nhân dân là nét nổi bật nhất trong tư tưởng nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.

   Đoạn đầu bài thơ, ngôn ngữ trang trọng, mang màu sắc giáo huấn, phản ánh tư tưởng "lấy dân làm gốc". Con người phải được dạy dỗ, biết làm ăn, sống vì một đạo lý cao đẹp:

"Ôi ! xưa bậc thánh nhân Dạy dân trồng ngũ cốc Cha mẹ được phụng thờ Vợ con được săn sóc".

   Nhà thơ ngụ ý nhắc nhở mọi người phải biết sống lương thiện, không được làm điều ác, trái lương tâm. "Ấm no đều muốn được" là niềm khao khát và ước mong của mọi người. Tư tưởng "lấy dân làm gốc" ấy được diễn đạt một cách trang nghiêm, sâu sắc qua sáu câu thơ đầu, cho thấy tâm hồn và cốt cách cao cả của thi nhân.

   Mười câu thơ tiếp theo nói về "lũ chuột lớn bất nhân". Nghệ thuật phúng dụ được vận dụng sâu sắc đã vẽ lên bộ mặt gớm ghiếc của lũ chuột bốn chân và bầy chuột hai chân trong xã hội thối nát thời bấy giờ . Chúng là "lũ bất nhân" phá hoại mùa màng, "gặm khoét" lương thực, làm cho ruộng đồng xác xơ, kho đụn "kiệt gạo thóc". Tội ác của lũ chuột tày trời:

"Chuột lớn sào bất nhân Gặm khoét thật thảm độc Đồng ruộng trơ rơm khô Kho đụn kiệt gạo thóc".

   Con người thế là hết đường sinh sống. Còn gì nữa để phụng dưỡng cha mẹ và chăm sóc vợ con? Hai lần nhà thơ giận dữ hỏi tội lũ bất lương, tàn ác:"Chuột lớn sao bất nhân?" ... "Sao dám khinh mạng dân?". Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng dâng sớ xin chém lũ nịnh thần hại dân, hại nước. Vì thế, thái độ quyết liệt của ông đối với "lũ chuột lớn" là điều dễ hiểu. Người đọc gàn năm thế kỷ qua vô cùng than phục thái độ căm giận và khinh bỉ của Nguyễn Bỉnh Khiêm đói với bọn tham quan ô lại.

   Lũ "chuột lớn" đã gieo rắc bao tai họa khủng khiếp cho nhân dân. Hai câu thơ được viết theo thủ pháp "bình đối", gợi ra trước mắt nhân gian cuộc sống bi thảm của người dân lam lũ, đói rét:

"Khó nhọc nông phu than Đói gầy nông phụ khóc".

   Tiếng "than khóc" của nhà nông vang dậy đất trời. Bằng cả tấm lòng nhân ái bao la, Nguyễn Bỉnh Khiêm đau cho nỗi đau của dân lành. Ông mãi sống trong niềm kính phục của nhân dân ta.

   Thấp thoáng, ẩn hiện trong những vần thơ là hình ảnh ghê tởm của "lũ chuột hai chân" và "bầy chuột hai chân". Nói đến chuột là phải nói đến hang, lỗ của chúng. Nói đến chuột là phải nói đến thái độ của nhân dân. Và nhà thơ đã viết:

"Rình mò dưới lỗ hang Thân dân đều căm tức".

   "Lỗ hang" là dịch thoát hai chữ "thành, xã". "Thành" là nơi quốc cấm, bất khả xâm phạm. "Xã" là nơi thờ cúng tôn nghiêm, ai dám đào bới? "Lỗ hang" (thành, xã) trong câu thơ là biểu tượng ám chỉ bọn vua chúa, quan lại bề trên, chỗ dựa của bọn tham quan ô lại. "Lũ chuột lớn" ấy ra sức đục khoét dân lành mà không ai dám động đến chúng. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có cái nhìn phên phán sắc bén chỉ ea nguyên nhân sâu xa gây ra mọi tội ác trong xã hội thối nát. Giá trị tố cáo hiện thực của bài thơ "Ghét chuột" càng trở nên mạnh mẽ.

   Sáu câu thơ cuối bài biểu lộ trực tiếp thái độ yêu ghét của nhà thơ. Ông nguyền rủa "lũ chuột" tất sẽ bị người ta xé xác, phanh thây làm mồi cho diều quạ. Ý thơ hàm súc như dồn nén tất cả sợ giận dữ, căm ghét:

"Quấy nhiễu mất lòng người Tất bị người xé xác Thây phơi khắp thị thành Thịt quạ diều rỉa bóc!"

   Tội ác bị trừng phạt, tai họa được diệt trừ. Đó là niềm tin của Nguyễn Bỉnh Khiêm về sức mạnh nhân dân và đạo lý ở đời. Nếu như trong thế kir XVI, Ức Trai đã cầu mong "dân giàu đủ khắp đòi phương" giữa mộ nền thái bình bền vững, thì ở đây, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chỉ có một ước muốn "lớp dân tàn" đang bị đói rét đau thương được sống một cuộc đời yên vui, hạnh phúc an cư lạc nghiệp.

"Khiến cho lớp dân tàn Cùng an hưởng hạnh phúc"

   Cảm phục biết bao tấm lòng ưu ái mênh mông của Bạch Vân cư sĩ.

   "Ghét chuột" là một bài thơ độc đáo về đề tài, sắc bén ở thủ pháp nghệ thuật phúng dụ: Mượn con chuột bốn chân để vạch mặt bọn quan lại tham ô gây biết bao tội ác trong xã hội, sống xa hoa trên máu và nước mắt của nhân dân. Điều đáng quý nhất, đáng khâm phục nhất là tình thương yêu và lòng căm giận một cách sâu sắc, mạnh mẽ của tác giả. Nội dung tố cáo hiện thực và tinh t;hần nhân đạo là giá trị lớn của bài thơ.

   Bài thơ "Ghét chuột" ra đời ngót năm tram năm mà vẫn nóng bỏng tình yêu ghét, giàu tính chiến đấy, vẫn mang ý nghĩa thời sự lớn lao. Tư tưởng "an dân" của Trạng Trình mãi mãi rực sang "như nhật trung thiên". Tình thương dân và lo đời của nhà thơ quê hương mãi mãi dạt dào như dòng sông Tuyết Giang vậy.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 9 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo