LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích bài thơ Ngụ hứng ở quán Trung Tân - Phân tích đoạn thơ: "Năm nay đào lại nở ... Hồn ở đâu bây giờ?"

12 trả lời
Hỏi chi tiết
401
0
0
Phạm Văn Phú
07/04/2018 13:28:20

Đề bài: Phân tích bài thơ "Ngụ hứng ở quán Trung Tân" của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Bài làm

   Nguyễn Bỉnh Khiêm(1491-1585) quê ở làng Trung Am, xã Lý Học, Vĩnh Bảo, Hải Phòng, học giỏi, đỗ Trạng Nguyên. Ông có câu thơ "Văn khôi tam thượng tiểu tài sơ" nghĩa là ba lần đỗ đầu vẫn cười mình tầm thường. Làm quan dười triều Mạc một thời rồi ông treo ấn từ quan, về quê dựng am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ, lập quán Trung Tân, xây Nghinh Phong kiều, mở trường học, có nhiều học trò thành tài nổi tiếng như Phùng Khắc Khoann (Trạng Bùng), Nguyễn Dữ, ...Ông đức trọng tài cao, được người đời kính ái gọi là Tuyết Giang phu tử. Lúc ông mất, nhà Mạc truy phong là Trình Quốc Công.

   Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà triết học vĩ đại để lại nhiều sấm kỳ linh diệu, là nhà thơ lỗi lạc của dân tộc trong thế kỉ XVI. Thơ ông hàm súc, ẩn chứa triết lý, giáo huấn, thương dân, lo đời, ghét chiến tranh. Những câu thơ viết thế thiên nhiên rất tươi tắn, thú vị. Hiện còn lại gần 200 bài thơ Nôm trong "Bạch Vân quốc ngữ thi tập" và trên 1000 bài thơ chữ Hán trong "Bạch Vân Am thi tập".

   Năm Nhân Dầm (1543) Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thoái quan về sống giữa xóm làng, quê hương. Mùa thu năm ấy, ông cùng các bô lão lập quán Trung Tân làm chỗ ngồi chơi hóng gió và để khách qua đường nghỉ chân. Trong bài "Bài bia ở quán Trung Tân", Nguyễn Bỉnh Khiêm nói rõ:

   "Có người hỏi ta rằng: "Quán ấy đặt tên Trung Tân có nghĩa là gì?" Ta trả lời rằng: "Trung có nghĩa là đứng giữa không chênh lệch, giữ vẹn được điều thiện là trung, không giữ được điều thiện thời không phải là trung vậy; Tân có nghĩa là cái bến, biết chỗ đáng đậu là bến chính, không biết chỗ đậu là bến mê vậy" ...

   Trạng Trình có chùm thơ nhiều bài lấy nhan đề "Trung Tân ngu hứng". Bài thơ thứ nhất này gồm hai tư câu thơ theo thể ngụ ngôn trường thiên, lấy vần trắc (bắc-trắc-thực-sắc..) làm âm vận chủ đạo. Bài thơ dịch của Ngô Lập Chi rất hay, vừa giữ được nguyên điệu thanh thoát, vừa sát nguyên tác, nhất là phép đối.

   Hai câu thơ đầu nói lên vị trí của quán Trung Tân:

 "Sông ngòi vòng tây bắc Làng xóm bọc tây nam" 

   Quán ở giữa xóm làng đông vui, có sông ngòi uốn quanh, rất hữu tình. Trong "Bài bia ở quán Trung Tân" , tác giả cho biết rất cụ thể:"bến Trung Tân, trông sang phía đông nhìn Đông Hải, ngoảnh sang phía tây nhìn Tây Kinh, bên nam trông sang Ngư Khê thì thấy Trung Am, Bích Động, cái kia cái nọ quanh dựa vào nhau; bên bắc cúi nhìn sông Tuyết Giang thì thấy chợ Hàn, bến Nguyệt bao bọc tả hữu, một con đường cái quan chạy dọc ở giữa, biết bao bánh xe, chân ngựa từ hàng ngàn dặm xa tấp nập đi qua chốn này".

   Ba câu tiếp theo nói về am Bạch Vân nơi đọc sách và dưỡng nhàn của ông sau khi đã thoát vòng danh lợi. Am ở bên nửa mẫu vườn, một nơi thanh tĩnh mà chủ nhân là một con người thanh bạch. Câu thơ "xe ngựa bụi không đến" mang tính hàm nghĩa sâu sắc.

   Tiếp theo nhà thơ nói đến hoa, cá, chim, chuyện uống rượu và pha trà. Vừa tả cảnh, vừa tả tình. Cảnh vật được nhân hóa. Cá, chim như bầu bạn tri kỉ. Một tâm hồn thanh cao, tự tại, dung hòa với thiên nhiên. Uống trà, uống rượu, ngâm thơ ... lòng càng thêm "tiêu dao, khoan khoái". Từng cặp câu song hành, đăng đối, ngôn ngữ hài hòa, giọng thơ khoan thai, đủng đỉnh. Trong nguyên tác và trong bản dịch đều thế:

 "Hoa, trúc tay tự giồng Gậy, dép bên mùi hoa Chén, cốc ánh sáng hồng Rửa nghiên, cá nuốt mực Pha trà, chim lánh lót Ngâm thơ thừa tiêu dao Uống rượu thêm khoan khoái" 

   Nguyễn Bỉnh Khiêm có không ít vần thơ dung dị nói lên niềm vui dạt dào của kẻ sĩ thanh cao sống giữa thiên nhiên. Một đời thanh bạch mà sang trọng, ở cõi đời này mấy ai dễ có được như Trạng Trình?

 "Ruộng hiềm đất áy, cày chưa chín Sách được câu thần dạ những ngoong".                         (Bài 111) "Trà sen, sáng đãi người đưa khát Rượu thánh hôm mời khách uống say".                         (Bài 140) "Vườn rau, sáng dạo, sương đầy dép Bến cá, đêm trăng, bóng lọt thuyền"                ("Ngụ ý" - thơ dịch) 

   Giọng thơ pha chút hóm hỉnh tự giễu mình khi ông nói về "vụng" và "xảo". Cấu trúc vần thơ liên hoàn. Thơ mang nội dung đạo lý với cách nói thâm trầm, thấm thía. Khuyên mình hay nhắc khẽ ai?

 "Người xảo thì ta vụng Ấy vụng thế mà hay! Ta vụng, người thì xảo Ấy xảo thế mà gay!" 

   Vụng là vụng về, chất phác. Xảo là xảo quyệt, tham lam, dối trá. Vụng và xảo nói về hai laoị người trong xã hội xưa nay. Có bài thơ ông nói về khôn và dại trong thiên hạ:

 "Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn, người đến chỗ lao xao..." 

   Nơi vắng vẻ là nơi sống với ruộng vườn, thoát vòng danh lợi. Chốn lao xao là chốn bon chen, giành dật. Cũng là hai cách sống đối lập của hai loại người trong xã hội, có người đánh trọng, có kẻ đáng khinh!

   Giữa thế kỉ XIX, quan đại thần , nhà thơ tài tử Nguyễn Công Trứ cũng có viết về chuyện danh lợi ở đời với tâm thế kẻ sĩ:

 "Chen chúc lợi danh đà chán ngắt Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao! Đám phồn hoa chót bước chân vào Sực nghĩ lại giật mình bao kể xiết"            ("Thoát vòng danh lợi") 

   Tám câu còn lại nói về nguyên lý đạo đức, một tiêu chí về triết lí nhân sinh. Ông sống giữa thời loạn lạc, vì thế điều ông nói là cả một sự chiêm nghiệm lịch sử và xã hội; là bài học về đạo lý, nhân sinh: "Đường đời rất gập ghềnh ...Lòng người rất hiểm ác". Ý tưởng không có gì mới lạ, trước đó mấy nghìn năm, trăm năm đã có người nói. Cái hay là ở hai câu cuối bài thơ:

 "Quân tử biết răn mình, Chí thiện làm mẫu mực". 

   "Chí thiện" là tiêu chuẩn tuyệt đối về cái sự lí ở sự đời. Biết sống đẹp và hương thiện cũng là chí thiện. Là quân tử, là kẻ sĩ thì phải là người chân chính. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống và ứng xử như vậy. Vì thế ông mới được ca ngợi là Ông thầy của cả một thời đại.

   Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm đến nay vẫn còn bức đại tự sơn son thiếp vàng với bốn chữ "Như nhật trung thiên" – như mặt trời giữa bầu trời. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy cán bộ đảng viên:"Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng", phải "cần, kiệm, liêm, chính, chí, công, vô, tư". Đó cũng là chí thiện vậy. bài học về "chí thiện" vẫn nhiều điều mới mẻ với chúng ta ngày nay. Chí thiện là sống đẹp, là gương sang muôn đời ngợi ca.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
Tôi yêu Việt Nam
07/04/2018 11:15:01

Đề bài: Phân tích bài thơ "Ngụ hứng ở quán Trung Tân" của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Bài làm

   Nguyễn Bỉnh Khiêm(1491-1585) quê ở làng Trung Am, xã Lý Học, Vĩnh Bảo, Hải Phòng, học giỏi, đỗ Trạng Nguyên. Ông có câu thơ "Văn khôi tam thượng tiểu tài sơ" nghĩa là ba lần đỗ đầu vẫn cười mình tầm thường. Làm quan dười triều Mạc một thời rồi ông treo ấn từ quan, về quê dựng am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ, lập quán Trung Tân, xây Nghinh Phong kiều, mở trường học, có nhiều học trò thành tài nổi tiếng như Phùng Khắc Khoann (Trạng Bùng), Nguyễn Dữ, ...Ông đức trọng tài cao, được người đời kính ái gọi là Tuyết Giang phu tử. Lúc ông mất, nhà Mạc truy phong là Trình Quốc Công.

   Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà triết học vĩ đại để lại nhiều sấm kỳ linh diệu, là nhà thơ lỗi lạc của dân tộc trong thế kỉ XVI. Thơ ông hàm súc, ẩn chứa triết lý, giáo huấn, thương dân, lo đời, ghét chiến tranh. Những câu thơ viết thế thiên nhiên rất tươi tắn, thú vị. Hiện còn lại gần 200 bài thơ Nôm trong "Bạch Vân quốc ngữ thi tập" và trên 1000 bài thơ chữ Hán trong "Bạch Vân Am thi tập".

   Năm Nhân Dầm (1543) Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thoái quan về sống giữa xóm làng, quê hương. Mùa thu năm ấy, ông cùng các bô lão lập quán Trung Tân làm chỗ ngồi chơi hóng gió và để khách qua đường nghỉ chân. Trong bài "Bài bia ở quán Trung Tân", Nguyễn Bỉnh Khiêm nói rõ:

   "Có người hỏi ta rằng: "Quán ấy đặt tên Trung Tân có nghĩa là gì?" Ta trả lời rằng: "Trung có nghĩa là đứng giữa không chênh lệch, giữ vẹn được điều thiện là trung, không giữ được điều thiện thời không phải là trung vậy; Tân có nghĩa là cái bến, biết chỗ đáng đậu là bến chính, không biết chỗ đậu là bến mê vậy" ...

   Trạng Trình có chùm thơ nhiều bài lấy nhan đề "Trung Tân ngu hứng". Bài thơ thứ nhất này gồm hai tư câu thơ theo thể ngụ ngôn trường thiên, lấy vần trắc (bắc-trắc-thực-sắc..) làm âm vận chủ đạo. Bài thơ dịch của Ngô Lập Chi rất hay, vừa giữ được nguyên điệu thanh thoát, vừa sát nguyên tác, nhất là phép đối.

   Hai câu thơ đầu nói lên vị trí của quán Trung Tân:

 "Sông ngòi vòng tây bắc Làng xóm bọc tây nam" 

   Quán ở giữa xóm làng đông vui, có sông ngòi uốn quanh, rất hữu tình. Trong "Bài bia ở quán Trung Tân" , tác giả cho biết rất cụ thể:"bến Trung Tân, trông sang phía đông nhìn Đông Hải, ngoảnh sang phía tây nhìn Tây Kinh, bên nam trông sang Ngư Khê thì thấy Trung Am, Bích Động, cái kia cái nọ quanh dựa vào nhau; bên bắc cúi nhìn sông Tuyết Giang thì thấy chợ Hàn, bến Nguyệt bao bọc tả hữu, một con đường cái quan chạy dọc ở giữa, biết bao bánh xe, chân ngựa từ hàng ngàn dặm xa tấp nập đi qua chốn này".

   Ba câu tiếp theo nói về am Bạch Vân nơi đọc sách và dưỡng nhàn của ông sau khi đã thoát vòng danh lợi. Am ở bên nửa mẫu vườn, một nơi thanh tĩnh mà chủ nhân là một con người thanh bạch. Câu thơ "xe ngựa bụi không đến" mang tính hàm nghĩa sâu sắc.

   Tiếp theo nhà thơ nói đến hoa, cá, chim, chuyện uống rượu và pha trà. Vừa tả cảnh, vừa tả tình. Cảnh vật được nhân hóa. Cá, chim như bầu bạn tri kỉ. Một tâm hồn thanh cao, tự tại, dung hòa với thiên nhiên. Uống trà, uống rượu, ngâm thơ ... lòng càng thêm "tiêu dao, khoan khoái". Từng cặp câu song hành, đăng đối, ngôn ngữ hài hòa, giọng thơ khoan thai, đủng đỉnh. Trong nguyên tác và trong bản dịch đều thế:

 "Hoa, trúc tay tự giồng Gậy, dép bên mùi hoa Chén, cốc ánh sáng hồng Rửa nghiên, cá nuốt mực Pha trà, chim lánh lót Ngâm thơ thừa tiêu dao Uống rượu thêm khoan khoái" 

   Nguyễn Bỉnh Khiêm có không ít vần thơ dung dị nói lên niềm vui dạt dào của kẻ sĩ thanh cao sống giữa thiên nhiên. Một đời thanh bạch mà sang trọng, ở cõi đời này mấy ai dễ có được như Trạng Trình?

 "Ruộng hiềm đất áy, cày chưa chín Sách được câu thần dạ những ngoong".                         (Bài 111) "Trà sen, sáng đãi người đưa khát Rượu thánh hôm mời khách uống say".                         (Bài 140) "Vườn rau, sáng dạo, sương đầy dép Bến cá, đêm trăng, bóng lọt thuyền"                ("Ngụ ý" - thơ dịch) 

   Giọng thơ pha chút hóm hỉnh tự giễu mình khi ông nói về "vụng" và "xảo". Cấu trúc vần thơ liên hoàn. Thơ mang nội dung đạo lý với cách nói thâm trầm, thấm thía. Khuyên mình hay nhắc khẽ ai?

 "Người xảo thì ta vụng Ấy vụng thế mà hay! Ta vụng, người thì xảo Ấy xảo thế mà gay!" 

   Vụng là vụng về, chất phác. Xảo là xảo quyệt, tham lam, dối trá. Vụng và xảo nói về hai laoị người trong xã hội xưa nay. Có bài thơ ông nói về khôn và dại trong thiên hạ:

 "Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn, người đến chỗ lao xao..." 

   Nơi vắng vẻ là nơi sống với ruộng vườn, thoát vòng danh lợi. Chốn lao xao là chốn bon chen, giành dật. Cũng là hai cách sống đối lập của hai loại người trong xã hội, có người đánh trọng, có kẻ đáng khinh!

   Giữa thế kỉ XIX, quan đại thần , nhà thơ tài tử Nguyễn Công Trứ cũng có viết về chuyện danh lợi ở đời với tâm thế kẻ sĩ:

 "Chen chúc lợi danh đà chán ngắt Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao! Đám phồn hoa chót bước chân vào Sực nghĩ lại giật mình bao kể xiết"            ("Thoát vòng danh lợi") 

   Tám câu còn lại nói về nguyên lý đạo đức, một tiêu chí về triết lí nhân sinh. Ông sống giữa thời loạn lạc, vì thế điều ông nói là cả một sự chiêm nghiệm lịch sử và xã hội; là bài học về đạo lý, nhân sinh: "Đường đời rất gập ghềnh ...Lòng người rất hiểm ác". Ý tưởng không có gì mới lạ, trước đó mấy nghìn năm, trăm năm đã có người nói. Cái hay là ở hai câu cuối bài thơ:

 "Quân tử biết răn mình, Chí thiện làm mẫu mực". 

   "Chí thiện" là tiêu chuẩn tuyệt đối về cái sự lí ở sự đời. Biết sống đẹp và hương thiện cũng là chí thiện. Là quân tử, là kẻ sĩ thì phải là người chân chính. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống và ứng xử như vậy. Vì thế ông mới được ca ngợi là Ông thầy của cả một thời đại.

   Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm đến nay vẫn còn bức đại tự sơn son thiếp vàng với bốn chữ "Như nhật trung thiên" – như mặt trời giữa bầu trời. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy cán bộ đảng viên:"Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng", phải "cần, kiệm, liêm, chính, chí, công, vô, tư". Đó cũng là chí thiện vậy. bài học về "chí thiện" vẫn nhiều điều mới mẻ với chúng ta ngày nay. Chí thiện là sống đẹp, là gương sang muôn đời ngợi ca.

0
0
Nguyễn Thị Nhài
07/04/2018 11:15:01

Đề bài: Phân tích bài thơ "Ngụ hứng ở quán Trung Tân" của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Bài làm

   Nguyễn Bỉnh Khiêm(1491-1585) quê ở làng Trung Am, xã Lý Học, Vĩnh Bảo, Hải Phòng, học giỏi, đỗ Trạng Nguyên. Ông có câu thơ "Văn khôi tam thượng tiểu tài sơ" nghĩa là ba lần đỗ đầu vẫn cười mình tầm thường. Làm quan dười triều Mạc một thời rồi ông treo ấn từ quan, về quê dựng am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ, lập quán Trung Tân, xây Nghinh Phong kiều, mở trường học, có nhiều học trò thành tài nổi tiếng như Phùng Khắc Khoann (Trạng Bùng), Nguyễn Dữ, ...Ông đức trọng tài cao, được người đời kính ái gọi là Tuyết Giang phu tử. Lúc ông mất, nhà Mạc truy phong là Trình Quốc Công.

   Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà triết học vĩ đại để lại nhiều sấm kỳ linh diệu, là nhà thơ lỗi lạc của dân tộc trong thế kỉ XVI. Thơ ông hàm súc, ẩn chứa triết lý, giáo huấn, thương dân, lo đời, ghét chiến tranh. Những câu thơ viết thế thiên nhiên rất tươi tắn, thú vị. Hiện còn lại gần 200 bài thơ Nôm trong "Bạch Vân quốc ngữ thi tập" và trên 1000 bài thơ chữ Hán trong "Bạch Vân Am thi tập".

   Năm Nhân Dầm (1543) Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thoái quan về sống giữa xóm làng, quê hương. Mùa thu năm ấy, ông cùng các bô lão lập quán Trung Tân làm chỗ ngồi chơi hóng gió và để khách qua đường nghỉ chân. Trong bài "Bài bia ở quán Trung Tân", Nguyễn Bỉnh Khiêm nói rõ:

   "Có người hỏi ta rằng: "Quán ấy đặt tên Trung Tân có nghĩa là gì?" Ta trả lời rằng: "Trung có nghĩa là đứng giữa không chênh lệch, giữ vẹn được điều thiện là trung, không giữ được điều thiện thời không phải là trung vậy; Tân có nghĩa là cái bến, biết chỗ đáng đậu là bến chính, không biết chỗ đậu là bến mê vậy" ...

   Trạng Trình có chùm thơ nhiều bài lấy nhan đề "Trung Tân ngu hứng". Bài thơ thứ nhất này gồm hai tư câu thơ theo thể ngụ ngôn trường thiên, lấy vần trắc (bắc-trắc-thực-sắc..) làm âm vận chủ đạo. Bài thơ dịch của Ngô Lập Chi rất hay, vừa giữ được nguyên điệu thanh thoát, vừa sát nguyên tác, nhất là phép đối.

   Hai câu thơ đầu nói lên vị trí của quán Trung Tân:

 "Sông ngòi vòng tây bắc Làng xóm bọc tây nam" 

   Quán ở giữa xóm làng đông vui, có sông ngòi uốn quanh, rất hữu tình. Trong "Bài bia ở quán Trung Tân" , tác giả cho biết rất cụ thể:"bến Trung Tân, trông sang phía đông nhìn Đông Hải, ngoảnh sang phía tây nhìn Tây Kinh, bên nam trông sang Ngư Khê thì thấy Trung Am, Bích Động, cái kia cái nọ quanh dựa vào nhau; bên bắc cúi nhìn sông Tuyết Giang thì thấy chợ Hàn, bến Nguyệt bao bọc tả hữu, một con đường cái quan chạy dọc ở giữa, biết bao bánh xe, chân ngựa từ hàng ngàn dặm xa tấp nập đi qua chốn này".

   Ba câu tiếp theo nói về am Bạch Vân nơi đọc sách và dưỡng nhàn của ông sau khi đã thoát vòng danh lợi. Am ở bên nửa mẫu vườn, một nơi thanh tĩnh mà chủ nhân là một con người thanh bạch. Câu thơ "xe ngựa bụi không đến" mang tính hàm nghĩa sâu sắc.

   Tiếp theo nhà thơ nói đến hoa, cá, chim, chuyện uống rượu và pha trà. Vừa tả cảnh, vừa tả tình. Cảnh vật được nhân hóa. Cá, chim như bầu bạn tri kỉ. Một tâm hồn thanh cao, tự tại, dung hòa với thiên nhiên. Uống trà, uống rượu, ngâm thơ ... lòng càng thêm "tiêu dao, khoan khoái". Từng cặp câu song hành, đăng đối, ngôn ngữ hài hòa, giọng thơ khoan thai, đủng đỉnh. Trong nguyên tác và trong bản dịch đều thế:

 "Hoa, trúc tay tự giồng Gậy, dép bên mùi hoa Chén, cốc ánh sáng hồng Rửa nghiên, cá nuốt mực Pha trà, chim lánh lót Ngâm thơ thừa tiêu dao Uống rượu thêm khoan khoái" 

   Nguyễn Bỉnh Khiêm có không ít vần thơ dung dị nói lên niềm vui dạt dào của kẻ sĩ thanh cao sống giữa thiên nhiên. Một đời thanh bạch mà sang trọng, ở cõi đời này mấy ai dễ có được như Trạng Trình?

 "Ruộng hiềm đất áy, cày chưa chín Sách được câu thần dạ những ngoong".                         (Bài 111) "Trà sen, sáng đãi người đưa khát Rượu thánh hôm mời khách uống say".                         (Bài 140) "Vườn rau, sáng dạo, sương đầy dép Bến cá, đêm trăng, bóng lọt thuyền"                ("Ngụ ý" - thơ dịch) 

   Giọng thơ pha chút hóm hỉnh tự giễu mình khi ông nói về "vụng" và "xảo". Cấu trúc vần thơ liên hoàn. Thơ mang nội dung đạo lý với cách nói thâm trầm, thấm thía. Khuyên mình hay nhắc khẽ ai?

 "Người xảo thì ta vụng Ấy vụng thế mà hay! Ta vụng, người thì xảo Ấy xảo thế mà gay!" 

   Vụng là vụng về, chất phác. Xảo là xảo quyệt, tham lam, dối trá. Vụng và xảo nói về hai laoị người trong xã hội xưa nay. Có bài thơ ông nói về khôn và dại trong thiên hạ:

 "Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn, người đến chỗ lao xao..." 

   Nơi vắng vẻ là nơi sống với ruộng vườn, thoát vòng danh lợi. Chốn lao xao là chốn bon chen, giành dật. Cũng là hai cách sống đối lập của hai loại người trong xã hội, có người đánh trọng, có kẻ đáng khinh!

   Giữa thế kỉ XIX, quan đại thần , nhà thơ tài tử Nguyễn Công Trứ cũng có viết về chuyện danh lợi ở đời với tâm thế kẻ sĩ:

 "Chen chúc lợi danh đà chán ngắt Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao! Đám phồn hoa chót bước chân vào Sực nghĩ lại giật mình bao kể xiết"            ("Thoát vòng danh lợi") 

   Tám câu còn lại nói về nguyên lý đạo đức, một tiêu chí về triết lí nhân sinh. Ông sống giữa thời loạn lạc, vì thế điều ông nói là cả một sự chiêm nghiệm lịch sử và xã hội; là bài học về đạo lý, nhân sinh: "Đường đời rất gập ghềnh ...Lòng người rất hiểm ác". Ý tưởng không có gì mới lạ, trước đó mấy nghìn năm, trăm năm đã có người nói. Cái hay là ở hai câu cuối bài thơ:

 "Quân tử biết răn mình, Chí thiện làm mẫu mực". 

   "Chí thiện" là tiêu chuẩn tuyệt đối về cái sự lí ở sự đời. Biết sống đẹp và hương thiện cũng là chí thiện. Là quân tử, là kẻ sĩ thì phải là người chân chính. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống và ứng xử như vậy. Vì thế ông mới được ca ngợi là Ông thầy của cả một thời đại.

   Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm đến nay vẫn còn bức đại tự sơn son thiếp vàng với bốn chữ "Như nhật trung thiên" – như mặt trời giữa bầu trời. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy cán bộ đảng viên:"Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng", phải "cần, kiệm, liêm, chính, chí, công, vô, tư". Đó cũng là chí thiện vậy. bài học về "chí thiện" vẫn nhiều điều mới mẻ với chúng ta ngày nay. Chí thiện là sống đẹp, là gương sang muôn đời ngợi ca.

0
0
Trần Đan Phương
07/04/2018 11:15:01

Đề bài: Phân tích bài thơ "Ngụ hứng ở quán Trung Tân" của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Bài làm

   Nguyễn Bỉnh Khiêm(1491-1585) quê ở làng Trung Am, xã Lý Học, Vĩnh Bảo, Hải Phòng, học giỏi, đỗ Trạng Nguyên. Ông có câu thơ "Văn khôi tam thượng tiểu tài sơ" nghĩa là ba lần đỗ đầu vẫn cười mình tầm thường. Làm quan dười triều Mạc một thời rồi ông treo ấn từ quan, về quê dựng am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ, lập quán Trung Tân, xây Nghinh Phong kiều, mở trường học, có nhiều học trò thành tài nổi tiếng như Phùng Khắc Khoann (Trạng Bùng), Nguyễn Dữ, ...Ông đức trọng tài cao, được người đời kính ái gọi là Tuyết Giang phu tử. Lúc ông mất, nhà Mạc truy phong là Trình Quốc Công.

   Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà triết học vĩ đại để lại nhiều sấm kỳ linh diệu, là nhà thơ lỗi lạc của dân tộc trong thế kỉ XVI. Thơ ông hàm súc, ẩn chứa triết lý, giáo huấn, thương dân, lo đời, ghét chiến tranh. Những câu thơ viết thế thiên nhiên rất tươi tắn, thú vị. Hiện còn lại gần 200 bài thơ Nôm trong "Bạch Vân quốc ngữ thi tập" và trên 1000 bài thơ chữ Hán trong "Bạch Vân Am thi tập".

   Năm Nhân Dầm (1543) Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thoái quan về sống giữa xóm làng, quê hương. Mùa thu năm ấy, ông cùng các bô lão lập quán Trung Tân làm chỗ ngồi chơi hóng gió và để khách qua đường nghỉ chân. Trong bài "Bài bia ở quán Trung Tân", Nguyễn Bỉnh Khiêm nói rõ:

   "Có người hỏi ta rằng: "Quán ấy đặt tên Trung Tân có nghĩa là gì?" Ta trả lời rằng: "Trung có nghĩa là đứng giữa không chênh lệch, giữ vẹn được điều thiện là trung, không giữ được điều thiện thời không phải là trung vậy; Tân có nghĩa là cái bến, biết chỗ đáng đậu là bến chính, không biết chỗ đậu là bến mê vậy" ...

   Trạng Trình có chùm thơ nhiều bài lấy nhan đề "Trung Tân ngu hứng". Bài thơ thứ nhất này gồm hai tư câu thơ theo thể ngụ ngôn trường thiên, lấy vần trắc (bắc-trắc-thực-sắc..) làm âm vận chủ đạo. Bài thơ dịch của Ngô Lập Chi rất hay, vừa giữ được nguyên điệu thanh thoát, vừa sát nguyên tác, nhất là phép đối.

   Hai câu thơ đầu nói lên vị trí của quán Trung Tân:

 "Sông ngòi vòng tây bắc Làng xóm bọc tây nam" 

   Quán ở giữa xóm làng đông vui, có sông ngòi uốn quanh, rất hữu tình. Trong "Bài bia ở quán Trung Tân" , tác giả cho biết rất cụ thể:"bến Trung Tân, trông sang phía đông nhìn Đông Hải, ngoảnh sang phía tây nhìn Tây Kinh, bên nam trông sang Ngư Khê thì thấy Trung Am, Bích Động, cái kia cái nọ quanh dựa vào nhau; bên bắc cúi nhìn sông Tuyết Giang thì thấy chợ Hàn, bến Nguyệt bao bọc tả hữu, một con đường cái quan chạy dọc ở giữa, biết bao bánh xe, chân ngựa từ hàng ngàn dặm xa tấp nập đi qua chốn này".

   Ba câu tiếp theo nói về am Bạch Vân nơi đọc sách và dưỡng nhàn của ông sau khi đã thoát vòng danh lợi. Am ở bên nửa mẫu vườn, một nơi thanh tĩnh mà chủ nhân là một con người thanh bạch. Câu thơ "xe ngựa bụi không đến" mang tính hàm nghĩa sâu sắc.

   Tiếp theo nhà thơ nói đến hoa, cá, chim, chuyện uống rượu và pha trà. Vừa tả cảnh, vừa tả tình. Cảnh vật được nhân hóa. Cá, chim như bầu bạn tri kỉ. Một tâm hồn thanh cao, tự tại, dung hòa với thiên nhiên. Uống trà, uống rượu, ngâm thơ ... lòng càng thêm "tiêu dao, khoan khoái". Từng cặp câu song hành, đăng đối, ngôn ngữ hài hòa, giọng thơ khoan thai, đủng đỉnh. Trong nguyên tác và trong bản dịch đều thế:

 "Hoa, trúc tay tự giồng Gậy, dép bên mùi hoa Chén, cốc ánh sáng hồng Rửa nghiên, cá nuốt mực Pha trà, chim lánh lót Ngâm thơ thừa tiêu dao Uống rượu thêm khoan khoái" 

   Nguyễn Bỉnh Khiêm có không ít vần thơ dung dị nói lên niềm vui dạt dào của kẻ sĩ thanh cao sống giữa thiên nhiên. Một đời thanh bạch mà sang trọng, ở cõi đời này mấy ai dễ có được như Trạng Trình?

 "Ruộng hiềm đất áy, cày chưa chín Sách được câu thần dạ những ngoong".                         (Bài 111) "Trà sen, sáng đãi người đưa khát Rượu thánh hôm mời khách uống say".                         (Bài 140) "Vườn rau, sáng dạo, sương đầy dép Bến cá, đêm trăng, bóng lọt thuyền"                ("Ngụ ý" - thơ dịch) 

   Giọng thơ pha chút hóm hỉnh tự giễu mình khi ông nói về "vụng" và "xảo". Cấu trúc vần thơ liên hoàn. Thơ mang nội dung đạo lý với cách nói thâm trầm, thấm thía. Khuyên mình hay nhắc khẽ ai?

 "Người xảo thì ta vụng Ấy vụng thế mà hay! Ta vụng, người thì xảo Ấy xảo thế mà gay!" 

   Vụng là vụng về, chất phác. Xảo là xảo quyệt, tham lam, dối trá. Vụng và xảo nói về hai laoị người trong xã hội xưa nay. Có bài thơ ông nói về khôn và dại trong thiên hạ:

 "Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn, người đến chỗ lao xao..." 

   Nơi vắng vẻ là nơi sống với ruộng vườn, thoát vòng danh lợi. Chốn lao xao là chốn bon chen, giành dật. Cũng là hai cách sống đối lập của hai loại người trong xã hội, có người đánh trọng, có kẻ đáng khinh!

   Giữa thế kỉ XIX, quan đại thần , nhà thơ tài tử Nguyễn Công Trứ cũng có viết về chuyện danh lợi ở đời với tâm thế kẻ sĩ:

 "Chen chúc lợi danh đà chán ngắt Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao! Đám phồn hoa chót bước chân vào Sực nghĩ lại giật mình bao kể xiết"            ("Thoát vòng danh lợi") 

   Tám câu còn lại nói về nguyên lý đạo đức, một tiêu chí về triết lí nhân sinh. Ông sống giữa thời loạn lạc, vì thế điều ông nói là cả một sự chiêm nghiệm lịch sử và xã hội; là bài học về đạo lý, nhân sinh: "Đường đời rất gập ghềnh ...Lòng người rất hiểm ác". Ý tưởng không có gì mới lạ, trước đó mấy nghìn năm, trăm năm đã có người nói. Cái hay là ở hai câu cuối bài thơ:

 "Quân tử biết răn mình, Chí thiện làm mẫu mực". 

   "Chí thiện" là tiêu chuẩn tuyệt đối về cái sự lí ở sự đời. Biết sống đẹp và hương thiện cũng là chí thiện. Là quân tử, là kẻ sĩ thì phải là người chân chính. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống và ứng xử như vậy. Vì thế ông mới được ca ngợi là Ông thầy của cả một thời đại.

   Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm đến nay vẫn còn bức đại tự sơn son thiếp vàng với bốn chữ "Như nhật trung thiên" – như mặt trời giữa bầu trời. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy cán bộ đảng viên:"Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng", phải "cần, kiệm, liêm, chính, chí, công, vô, tư". Đó cũng là chí thiện vậy. bài học về "chí thiện" vẫn nhiều điều mới mẻ với chúng ta ngày nay. Chí thiện là sống đẹp, là gương sang muôn đời ngợi ca.

0
0
Tô Hương Liên
07/04/2018 11:15:02

Đề bài: Phân tích bài thơ "Ngụ hứng ở quán Trung Tân" của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Bài làm

   Nguyễn Bỉnh Khiêm(1491-1585) quê ở làng Trung Am, xã Lý Học, Vĩnh Bảo, Hải Phòng, học giỏi, đỗ Trạng Nguyên. Ông có câu thơ "Văn khôi tam thượng tiểu tài sơ" nghĩa là ba lần đỗ đầu vẫn cười mình tầm thường. Làm quan dười triều Mạc một thời rồi ông treo ấn từ quan, về quê dựng am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ, lập quán Trung Tân, xây Nghinh Phong kiều, mở trường học, có nhiều học trò thành tài nổi tiếng như Phùng Khắc Khoann (Trạng Bùng), Nguyễn Dữ, ...Ông đức trọng tài cao, được người đời kính ái gọi là Tuyết Giang phu tử. Lúc ông mất, nhà Mạc truy phong là Trình Quốc Công.

   Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà triết học vĩ đại để lại nhiều sấm kỳ linh diệu, là nhà thơ lỗi lạc của dân tộc trong thế kỉ XVI. Thơ ông hàm súc, ẩn chứa triết lý, giáo huấn, thương dân, lo đời, ghét chiến tranh. Những câu thơ viết thế thiên nhiên rất tươi tắn, thú vị. Hiện còn lại gần 200 bài thơ Nôm trong "Bạch Vân quốc ngữ thi tập" và trên 1000 bài thơ chữ Hán trong "Bạch Vân Am thi tập".

   Năm Nhân Dầm (1543) Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thoái quan về sống giữa xóm làng, quê hương. Mùa thu năm ấy, ông cùng các bô lão lập quán Trung Tân làm chỗ ngồi chơi hóng gió và để khách qua đường nghỉ chân. Trong bài "Bài bia ở quán Trung Tân", Nguyễn Bỉnh Khiêm nói rõ:

   "Có người hỏi ta rằng: "Quán ấy đặt tên Trung Tân có nghĩa là gì?" Ta trả lời rằng: "Trung có nghĩa là đứng giữa không chênh lệch, giữ vẹn được điều thiện là trung, không giữ được điều thiện thời không phải là trung vậy; Tân có nghĩa là cái bến, biết chỗ đáng đậu là bến chính, không biết chỗ đậu là bến mê vậy" ...

   Trạng Trình có chùm thơ nhiều bài lấy nhan đề "Trung Tân ngu hứng". Bài thơ thứ nhất này gồm hai tư câu thơ theo thể ngụ ngôn trường thiên, lấy vần trắc (bắc-trắc-thực-sắc..) làm âm vận chủ đạo. Bài thơ dịch của Ngô Lập Chi rất hay, vừa giữ được nguyên điệu thanh thoát, vừa sát nguyên tác, nhất là phép đối.

   Hai câu thơ đầu nói lên vị trí của quán Trung Tân:

 "Sông ngòi vòng tây bắc Làng xóm bọc tây nam" 

   Quán ở giữa xóm làng đông vui, có sông ngòi uốn quanh, rất hữu tình. Trong "Bài bia ở quán Trung Tân" , tác giả cho biết rất cụ thể:"bến Trung Tân, trông sang phía đông nhìn Đông Hải, ngoảnh sang phía tây nhìn Tây Kinh, bên nam trông sang Ngư Khê thì thấy Trung Am, Bích Động, cái kia cái nọ quanh dựa vào nhau; bên bắc cúi nhìn sông Tuyết Giang thì thấy chợ Hàn, bến Nguyệt bao bọc tả hữu, một con đường cái quan chạy dọc ở giữa, biết bao bánh xe, chân ngựa từ hàng ngàn dặm xa tấp nập đi qua chốn này".

   Ba câu tiếp theo nói về am Bạch Vân nơi đọc sách và dưỡng nhàn của ông sau khi đã thoát vòng danh lợi. Am ở bên nửa mẫu vườn, một nơi thanh tĩnh mà chủ nhân là một con người thanh bạch. Câu thơ "xe ngựa bụi không đến" mang tính hàm nghĩa sâu sắc.

   Tiếp theo nhà thơ nói đến hoa, cá, chim, chuyện uống rượu và pha trà. Vừa tả cảnh, vừa tả tình. Cảnh vật được nhân hóa. Cá, chim như bầu bạn tri kỉ. Một tâm hồn thanh cao, tự tại, dung hòa với thiên nhiên. Uống trà, uống rượu, ngâm thơ ... lòng càng thêm "tiêu dao, khoan khoái". Từng cặp câu song hành, đăng đối, ngôn ngữ hài hòa, giọng thơ khoan thai, đủng đỉnh. Trong nguyên tác và trong bản dịch đều thế:

 "Hoa, trúc tay tự giồng Gậy, dép bên mùi hoa Chén, cốc ánh sáng hồng Rửa nghiên, cá nuốt mực Pha trà, chim lánh lót Ngâm thơ thừa tiêu dao Uống rượu thêm khoan khoái" 

   Nguyễn Bỉnh Khiêm có không ít vần thơ dung dị nói lên niềm vui dạt dào của kẻ sĩ thanh cao sống giữa thiên nhiên. Một đời thanh bạch mà sang trọng, ở cõi đời này mấy ai dễ có được như Trạng Trình?

 "Ruộng hiềm đất áy, cày chưa chín Sách được câu thần dạ những ngoong".                         (Bài 111) "Trà sen, sáng đãi người đưa khát Rượu thánh hôm mời khách uống say".                         (Bài 140) "Vườn rau, sáng dạo, sương đầy dép Bến cá, đêm trăng, bóng lọt thuyền"                ("Ngụ ý" - thơ dịch) 

   Giọng thơ pha chút hóm hỉnh tự giễu mình khi ông nói về "vụng" và "xảo". Cấu trúc vần thơ liên hoàn. Thơ mang nội dung đạo lý với cách nói thâm trầm, thấm thía. Khuyên mình hay nhắc khẽ ai?

 "Người xảo thì ta vụng Ấy vụng thế mà hay! Ta vụng, người thì xảo Ấy xảo thế mà gay!" 

   Vụng là vụng về, chất phác. Xảo là xảo quyệt, tham lam, dối trá. Vụng và xảo nói về hai laoị người trong xã hội xưa nay. Có bài thơ ông nói về khôn và dại trong thiên hạ:

 "Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn, người đến chỗ lao xao..." 

   Nơi vắng vẻ là nơi sống với ruộng vườn, thoát vòng danh lợi. Chốn lao xao là chốn bon chen, giành dật. Cũng là hai cách sống đối lập của hai loại người trong xã hội, có người đánh trọng, có kẻ đáng khinh!

   Giữa thế kỉ XIX, quan đại thần , nhà thơ tài tử Nguyễn Công Trứ cũng có viết về chuyện danh lợi ở đời với tâm thế kẻ sĩ:

 "Chen chúc lợi danh đà chán ngắt Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao! Đám phồn hoa chót bước chân vào Sực nghĩ lại giật mình bao kể xiết"            ("Thoát vòng danh lợi") 

   Tám câu còn lại nói về nguyên lý đạo đức, một tiêu chí về triết lí nhân sinh. Ông sống giữa thời loạn lạc, vì thế điều ông nói là cả một sự chiêm nghiệm lịch sử và xã hội; là bài học về đạo lý, nhân sinh: "Đường đời rất gập ghềnh ...Lòng người rất hiểm ác". Ý tưởng không có gì mới lạ, trước đó mấy nghìn năm, trăm năm đã có người nói. Cái hay là ở hai câu cuối bài thơ:

 "Quân tử biết răn mình, Chí thiện làm mẫu mực". 

   "Chí thiện" là tiêu chuẩn tuyệt đối về cái sự lí ở sự đời. Biết sống đẹp và hương thiện cũng là chí thiện. Là quân tử, là kẻ sĩ thì phải là người chân chính. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống và ứng xử như vậy. Vì thế ông mới được ca ngợi là Ông thầy của cả một thời đại.

   Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm đến nay vẫn còn bức đại tự sơn son thiếp vàng với bốn chữ "Như nhật trung thiên" – như mặt trời giữa bầu trời. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy cán bộ đảng viên:"Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng", phải "cần, kiệm, liêm, chính, chí, công, vô, tư". Đó cũng là chí thiện vậy. bài học về "chí thiện" vẫn nhiều điều mới mẻ với chúng ta ngày nay. Chí thiện là sống đẹp, là gương sang muôn đời ngợi ca.

0
0
CenaZero♡
07/04/2018 11:15:02

Đề bài: Phân tích bài thơ "Ngụ hứng ở quán Trung Tân" của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Bài làm

   Nguyễn Bỉnh Khiêm(1491-1585) quê ở làng Trung Am, xã Lý Học, Vĩnh Bảo, Hải Phòng, học giỏi, đỗ Trạng Nguyên. Ông có câu thơ "Văn khôi tam thượng tiểu tài sơ" nghĩa là ba lần đỗ đầu vẫn cười mình tầm thường. Làm quan dười triều Mạc một thời rồi ông treo ấn từ quan, về quê dựng am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ, lập quán Trung Tân, xây Nghinh Phong kiều, mở trường học, có nhiều học trò thành tài nổi tiếng như Phùng Khắc Khoann (Trạng Bùng), Nguyễn Dữ, ...Ông đức trọng tài cao, được người đời kính ái gọi là Tuyết Giang phu tử. Lúc ông mất, nhà Mạc truy phong là Trình Quốc Công.

   Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà triết học vĩ đại để lại nhiều sấm kỳ linh diệu, là nhà thơ lỗi lạc của dân tộc trong thế kỉ XVI. Thơ ông hàm súc, ẩn chứa triết lý, giáo huấn, thương dân, lo đời, ghét chiến tranh. Những câu thơ viết thế thiên nhiên rất tươi tắn, thú vị. Hiện còn lại gần 200 bài thơ Nôm trong "Bạch Vân quốc ngữ thi tập" và trên 1000 bài thơ chữ Hán trong "Bạch Vân Am thi tập".

   Năm Nhân Dầm (1543) Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thoái quan về sống giữa xóm làng, quê hương. Mùa thu năm ấy, ông cùng các bô lão lập quán Trung Tân làm chỗ ngồi chơi hóng gió và để khách qua đường nghỉ chân. Trong bài "Bài bia ở quán Trung Tân", Nguyễn Bỉnh Khiêm nói rõ:

   "Có người hỏi ta rằng: "Quán ấy đặt tên Trung Tân có nghĩa là gì?" Ta trả lời rằng: "Trung có nghĩa là đứng giữa không chênh lệch, giữ vẹn được điều thiện là trung, không giữ được điều thiện thời không phải là trung vậy; Tân có nghĩa là cái bến, biết chỗ đáng đậu là bến chính, không biết chỗ đậu là bến mê vậy" ...

   Trạng Trình có chùm thơ nhiều bài lấy nhan đề "Trung Tân ngu hứng". Bài thơ thứ nhất này gồm hai tư câu thơ theo thể ngụ ngôn trường thiên, lấy vần trắc (bắc-trắc-thực-sắc..) làm âm vận chủ đạo. Bài thơ dịch của Ngô Lập Chi rất hay, vừa giữ được nguyên điệu thanh thoát, vừa sát nguyên tác, nhất là phép đối.

   Hai câu thơ đầu nói lên vị trí của quán Trung Tân:

 "Sông ngòi vòng tây bắc Làng xóm bọc tây nam" 

   Quán ở giữa xóm làng đông vui, có sông ngòi uốn quanh, rất hữu tình. Trong "Bài bia ở quán Trung Tân" , tác giả cho biết rất cụ thể:"bến Trung Tân, trông sang phía đông nhìn Đông Hải, ngoảnh sang phía tây nhìn Tây Kinh, bên nam trông sang Ngư Khê thì thấy Trung Am, Bích Động, cái kia cái nọ quanh dựa vào nhau; bên bắc cúi nhìn sông Tuyết Giang thì thấy chợ Hàn, bến Nguyệt bao bọc tả hữu, một con đường cái quan chạy dọc ở giữa, biết bao bánh xe, chân ngựa từ hàng ngàn dặm xa tấp nập đi qua chốn này".

   Ba câu tiếp theo nói về am Bạch Vân nơi đọc sách và dưỡng nhàn của ông sau khi đã thoát vòng danh lợi. Am ở bên nửa mẫu vườn, một nơi thanh tĩnh mà chủ nhân là một con người thanh bạch. Câu thơ "xe ngựa bụi không đến" mang tính hàm nghĩa sâu sắc.

   Tiếp theo nhà thơ nói đến hoa, cá, chim, chuyện uống rượu và pha trà. Vừa tả cảnh, vừa tả tình. Cảnh vật được nhân hóa. Cá, chim như bầu bạn tri kỉ. Một tâm hồn thanh cao, tự tại, dung hòa với thiên nhiên. Uống trà, uống rượu, ngâm thơ ... lòng càng thêm "tiêu dao, khoan khoái". Từng cặp câu song hành, đăng đối, ngôn ngữ hài hòa, giọng thơ khoan thai, đủng đỉnh. Trong nguyên tác và trong bản dịch đều thế:

 "Hoa, trúc tay tự giồng Gậy, dép bên mùi hoa Chén, cốc ánh sáng hồng Rửa nghiên, cá nuốt mực Pha trà, chim lánh lót Ngâm thơ thừa tiêu dao Uống rượu thêm khoan khoái" 

   Nguyễn Bỉnh Khiêm có không ít vần thơ dung dị nói lên niềm vui dạt dào của kẻ sĩ thanh cao sống giữa thiên nhiên. Một đời thanh bạch mà sang trọng, ở cõi đời này mấy ai dễ có được như Trạng Trình?

 "Ruộng hiềm đất áy, cày chưa chín Sách được câu thần dạ những ngoong".                         (Bài 111) "Trà sen, sáng đãi người đưa khát Rượu thánh hôm mời khách uống say".                         (Bài 140) "Vườn rau, sáng dạo, sương đầy dép Bến cá, đêm trăng, bóng lọt thuyền"                ("Ngụ ý" - thơ dịch) 

   Giọng thơ pha chút hóm hỉnh tự giễu mình khi ông nói về "vụng" và "xảo". Cấu trúc vần thơ liên hoàn. Thơ mang nội dung đạo lý với cách nói thâm trầm, thấm thía. Khuyên mình hay nhắc khẽ ai?

 "Người xảo thì ta vụng Ấy vụng thế mà hay! Ta vụng, người thì xảo Ấy xảo thế mà gay!" 

   Vụng là vụng về, chất phác. Xảo là xảo quyệt, tham lam, dối trá. Vụng và xảo nói về hai laoị người trong xã hội xưa nay. Có bài thơ ông nói về khôn và dại trong thiên hạ:

 "Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn, người đến chỗ lao xao..." 

   Nơi vắng vẻ là nơi sống với ruộng vườn, thoát vòng danh lợi. Chốn lao xao là chốn bon chen, giành dật. Cũng là hai cách sống đối lập của hai loại người trong xã hội, có người đánh trọng, có kẻ đáng khinh!

   Giữa thế kỉ XIX, quan đại thần , nhà thơ tài tử Nguyễn Công Trứ cũng có viết về chuyện danh lợi ở đời với tâm thế kẻ sĩ:

 "Chen chúc lợi danh đà chán ngắt Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao! Đám phồn hoa chót bước chân vào Sực nghĩ lại giật mình bao kể xiết"            ("Thoát vòng danh lợi") 

   Tám câu còn lại nói về nguyên lý đạo đức, một tiêu chí về triết lí nhân sinh. Ông sống giữa thời loạn lạc, vì thế điều ông nói là cả một sự chiêm nghiệm lịch sử và xã hội; là bài học về đạo lý, nhân sinh: "Đường đời rất gập ghềnh ...Lòng người rất hiểm ác". Ý tưởng không có gì mới lạ, trước đó mấy nghìn năm, trăm năm đã có người nói. Cái hay là ở hai câu cuối bài thơ:

 "Quân tử biết răn mình, Chí thiện làm mẫu mực". 

   "Chí thiện" là tiêu chuẩn tuyệt đối về cái sự lí ở sự đời. Biết sống đẹp và hương thiện cũng là chí thiện. Là quân tử, là kẻ sĩ thì phải là người chân chính. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống và ứng xử như vậy. Vì thế ông mới được ca ngợi là Ông thầy của cả một thời đại.

   Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm đến nay vẫn còn bức đại tự sơn son thiếp vàng với bốn chữ "Như nhật trung thiên" – như mặt trời giữa bầu trời. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy cán bộ đảng viên:"Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng", phải "cần, kiệm, liêm, chính, chí, công, vô, tư". Đó cũng là chí thiện vậy. bài học về "chí thiện" vẫn nhiều điều mới mẻ với chúng ta ngày nay. Chí thiện là sống đẹp, là gương sang muôn đời ngợi ca.

0
0
Trần Bảo Ngọc
07/04/2018 11:15:02

Đề bài: Phân tích bài thơ "Ngụ hứng ở quán Trung Tân" của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Bài làm

   Nguyễn Bỉnh Khiêm(1491-1585) quê ở làng Trung Am, xã Lý Học, Vĩnh Bảo, Hải Phòng, học giỏi, đỗ Trạng Nguyên. Ông có câu thơ "Văn khôi tam thượng tiểu tài sơ" nghĩa là ba lần đỗ đầu vẫn cười mình tầm thường. Làm quan dười triều Mạc một thời rồi ông treo ấn từ quan, về quê dựng am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ, lập quán Trung Tân, xây Nghinh Phong kiều, mở trường học, có nhiều học trò thành tài nổi tiếng như Phùng Khắc Khoann (Trạng Bùng), Nguyễn Dữ, ...Ông đức trọng tài cao, được người đời kính ái gọi là Tuyết Giang phu tử. Lúc ông mất, nhà Mạc truy phong là Trình Quốc Công.

   Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà triết học vĩ đại để lại nhiều sấm kỳ linh diệu, là nhà thơ lỗi lạc của dân tộc trong thế kỉ XVI. Thơ ông hàm súc, ẩn chứa triết lý, giáo huấn, thương dân, lo đời, ghét chiến tranh. Những câu thơ viết thế thiên nhiên rất tươi tắn, thú vị. Hiện còn lại gần 200 bài thơ Nôm trong "Bạch Vân quốc ngữ thi tập" và trên 1000 bài thơ chữ Hán trong "Bạch Vân Am thi tập".

   Năm Nhân Dầm (1543) Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thoái quan về sống giữa xóm làng, quê hương. Mùa thu năm ấy, ông cùng các bô lão lập quán Trung Tân làm chỗ ngồi chơi hóng gió và để khách qua đường nghỉ chân. Trong bài "Bài bia ở quán Trung Tân", Nguyễn Bỉnh Khiêm nói rõ:

   "Có người hỏi ta rằng: "Quán ấy đặt tên Trung Tân có nghĩa là gì?" Ta trả lời rằng: "Trung có nghĩa là đứng giữa không chênh lệch, giữ vẹn được điều thiện là trung, không giữ được điều thiện thời không phải là trung vậy; Tân có nghĩa là cái bến, biết chỗ đáng đậu là bến chính, không biết chỗ đậu là bến mê vậy" ...

   Trạng Trình có chùm thơ nhiều bài lấy nhan đề "Trung Tân ngu hứng". Bài thơ thứ nhất này gồm hai tư câu thơ theo thể ngụ ngôn trường thiên, lấy vần trắc (bắc-trắc-thực-sắc..) làm âm vận chủ đạo. Bài thơ dịch của Ngô Lập Chi rất hay, vừa giữ được nguyên điệu thanh thoát, vừa sát nguyên tác, nhất là phép đối.

   Hai câu thơ đầu nói lên vị trí của quán Trung Tân:

 "Sông ngòi vòng tây bắc Làng xóm bọc tây nam" 

   Quán ở giữa xóm làng đông vui, có sông ngòi uốn quanh, rất hữu tình. Trong "Bài bia ở quán Trung Tân" , tác giả cho biết rất cụ thể:"bến Trung Tân, trông sang phía đông nhìn Đông Hải, ngoảnh sang phía tây nhìn Tây Kinh, bên nam trông sang Ngư Khê thì thấy Trung Am, Bích Động, cái kia cái nọ quanh dựa vào nhau; bên bắc cúi nhìn sông Tuyết Giang thì thấy chợ Hàn, bến Nguyệt bao bọc tả hữu, một con đường cái quan chạy dọc ở giữa, biết bao bánh xe, chân ngựa từ hàng ngàn dặm xa tấp nập đi qua chốn này".

   Ba câu tiếp theo nói về am Bạch Vân nơi đọc sách và dưỡng nhàn của ông sau khi đã thoát vòng danh lợi. Am ở bên nửa mẫu vườn, một nơi thanh tĩnh mà chủ nhân là một con người thanh bạch. Câu thơ "xe ngựa bụi không đến" mang tính hàm nghĩa sâu sắc.

   Tiếp theo nhà thơ nói đến hoa, cá, chim, chuyện uống rượu và pha trà. Vừa tả cảnh, vừa tả tình. Cảnh vật được nhân hóa. Cá, chim như bầu bạn tri kỉ. Một tâm hồn thanh cao, tự tại, dung hòa với thiên nhiên. Uống trà, uống rượu, ngâm thơ ... lòng càng thêm "tiêu dao, khoan khoái". Từng cặp câu song hành, đăng đối, ngôn ngữ hài hòa, giọng thơ khoan thai, đủng đỉnh. Trong nguyên tác và trong bản dịch đều thế:

 "Hoa, trúc tay tự giồng Gậy, dép bên mùi hoa Chén, cốc ánh sáng hồng Rửa nghiên, cá nuốt mực Pha trà, chim lánh lót Ngâm thơ thừa tiêu dao Uống rượu thêm khoan khoái" 

   Nguyễn Bỉnh Khiêm có không ít vần thơ dung dị nói lên niềm vui dạt dào của kẻ sĩ thanh cao sống giữa thiên nhiên. Một đời thanh bạch mà sang trọng, ở cõi đời này mấy ai dễ có được như Trạng Trình?

 "Ruộng hiềm đất áy, cày chưa chín Sách được câu thần dạ những ngoong".                         (Bài 111) "Trà sen, sáng đãi người đưa khát Rượu thánh hôm mời khách uống say".                         (Bài 140) "Vườn rau, sáng dạo, sương đầy dép Bến cá, đêm trăng, bóng lọt thuyền"                ("Ngụ ý" - thơ dịch) 

   Giọng thơ pha chút hóm hỉnh tự giễu mình khi ông nói về "vụng" và "xảo". Cấu trúc vần thơ liên hoàn. Thơ mang nội dung đạo lý với cách nói thâm trầm, thấm thía. Khuyên mình hay nhắc khẽ ai?

 "Người xảo thì ta vụng Ấy vụng thế mà hay! Ta vụng, người thì xảo Ấy xảo thế mà gay!" 

   Vụng là vụng về, chất phác. Xảo là xảo quyệt, tham lam, dối trá. Vụng và xảo nói về hai laoị người trong xã hội xưa nay. Có bài thơ ông nói về khôn và dại trong thiên hạ:

 "Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn, người đến chỗ lao xao..." 

   Nơi vắng vẻ là nơi sống với ruộng vườn, thoát vòng danh lợi. Chốn lao xao là chốn bon chen, giành dật. Cũng là hai cách sống đối lập của hai loại người trong xã hội, có người đánh trọng, có kẻ đáng khinh!

   Giữa thế kỉ XIX, quan đại thần , nhà thơ tài tử Nguyễn Công Trứ cũng có viết về chuyện danh lợi ở đời với tâm thế kẻ sĩ:

 "Chen chúc lợi danh đà chán ngắt Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao! Đám phồn hoa chót bước chân vào Sực nghĩ lại giật mình bao kể xiết"            ("Thoát vòng danh lợi") 

   Tám câu còn lại nói về nguyên lý đạo đức, một tiêu chí về triết lí nhân sinh. Ông sống giữa thời loạn lạc, vì thế điều ông nói là cả một sự chiêm nghiệm lịch sử và xã hội; là bài học về đạo lý, nhân sinh: "Đường đời rất gập ghềnh ...Lòng người rất hiểm ác". Ý tưởng không có gì mới lạ, trước đó mấy nghìn năm, trăm năm đã có người nói. Cái hay là ở hai câu cuối bài thơ:

 "Quân tử biết răn mình, Chí thiện làm mẫu mực". 

   "Chí thiện" là tiêu chuẩn tuyệt đối về cái sự lí ở sự đời. Biết sống đẹp và hương thiện cũng là chí thiện. Là quân tử, là kẻ sĩ thì phải là người chân chính. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống và ứng xử như vậy. Vì thế ông mới được ca ngợi là Ông thầy của cả một thời đại.

   Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm đến nay vẫn còn bức đại tự sơn son thiếp vàng với bốn chữ "Như nhật trung thiên" – như mặt trời giữa bầu trời. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy cán bộ đảng viên:"Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng", phải "cần, kiệm, liêm, chính, chí, công, vô, tư". Đó cũng là chí thiện vậy. bài học về "chí thiện" vẫn nhiều điều mới mẻ với chúng ta ngày nay. Chí thiện là sống đẹp, là gương sang muôn đời ngợi ca.

0
0
Đặng Bảo Trâm
07/04/2018 11:15:02

Đề bài: Phân tích bài thơ "Ngụ hứng ở quán Trung Tân" của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Bài làm

   Nguyễn Bỉnh Khiêm(1491-1585) quê ở làng Trung Am, xã Lý Học, Vĩnh Bảo, Hải Phòng, học giỏi, đỗ Trạng Nguyên. Ông có câu thơ "Văn khôi tam thượng tiểu tài sơ" nghĩa là ba lần đỗ đầu vẫn cười mình tầm thường. Làm quan dười triều Mạc một thời rồi ông treo ấn từ quan, về quê dựng am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ, lập quán Trung Tân, xây Nghinh Phong kiều, mở trường học, có nhiều học trò thành tài nổi tiếng như Phùng Khắc Khoann (Trạng Bùng), Nguyễn Dữ, ...Ông đức trọng tài cao, được người đời kính ái gọi là Tuyết Giang phu tử. Lúc ông mất, nhà Mạc truy phong là Trình Quốc Công.

   Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà triết học vĩ đại để lại nhiều sấm kỳ linh diệu, là nhà thơ lỗi lạc của dân tộc trong thế kỉ XVI. Thơ ông hàm súc, ẩn chứa triết lý, giáo huấn, thương dân, lo đời, ghét chiến tranh. Những câu thơ viết thế thiên nhiên rất tươi tắn, thú vị. Hiện còn lại gần 200 bài thơ Nôm trong "Bạch Vân quốc ngữ thi tập" và trên 1000 bài thơ chữ Hán trong "Bạch Vân Am thi tập".

   Năm Nhân Dầm (1543) Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thoái quan về sống giữa xóm làng, quê hương. Mùa thu năm ấy, ông cùng các bô lão lập quán Trung Tân làm chỗ ngồi chơi hóng gió và để khách qua đường nghỉ chân. Trong bài "Bài bia ở quán Trung Tân", Nguyễn Bỉnh Khiêm nói rõ:

   "Có người hỏi ta rằng: "Quán ấy đặt tên Trung Tân có nghĩa là gì?" Ta trả lời rằng: "Trung có nghĩa là đứng giữa không chênh lệch, giữ vẹn được điều thiện là trung, không giữ được điều thiện thời không phải là trung vậy; Tân có nghĩa là cái bến, biết chỗ đáng đậu là bến chính, không biết chỗ đậu là bến mê vậy" ...

   Trạng Trình có chùm thơ nhiều bài lấy nhan đề "Trung Tân ngu hứng". Bài thơ thứ nhất này gồm hai tư câu thơ theo thể ngụ ngôn trường thiên, lấy vần trắc (bắc-trắc-thực-sắc..) làm âm vận chủ đạo. Bài thơ dịch của Ngô Lập Chi rất hay, vừa giữ được nguyên điệu thanh thoát, vừa sát nguyên tác, nhất là phép đối.

   Hai câu thơ đầu nói lên vị trí của quán Trung Tân:

 "Sông ngòi vòng tây bắc Làng xóm bọc tây nam" 

   Quán ở giữa xóm làng đông vui, có sông ngòi uốn quanh, rất hữu tình. Trong "Bài bia ở quán Trung Tân" , tác giả cho biết rất cụ thể:"bến Trung Tân, trông sang phía đông nhìn Đông Hải, ngoảnh sang phía tây nhìn Tây Kinh, bên nam trông sang Ngư Khê thì thấy Trung Am, Bích Động, cái kia cái nọ quanh dựa vào nhau; bên bắc cúi nhìn sông Tuyết Giang thì thấy chợ Hàn, bến Nguyệt bao bọc tả hữu, một con đường cái quan chạy dọc ở giữa, biết bao bánh xe, chân ngựa từ hàng ngàn dặm xa tấp nập đi qua chốn này".

   Ba câu tiếp theo nói về am Bạch Vân nơi đọc sách và dưỡng nhàn của ông sau khi đã thoát vòng danh lợi. Am ở bên nửa mẫu vườn, một nơi thanh tĩnh mà chủ nhân là một con người thanh bạch. Câu thơ "xe ngựa bụi không đến" mang tính hàm nghĩa sâu sắc.

   Tiếp theo nhà thơ nói đến hoa, cá, chim, chuyện uống rượu và pha trà. Vừa tả cảnh, vừa tả tình. Cảnh vật được nhân hóa. Cá, chim như bầu bạn tri kỉ. Một tâm hồn thanh cao, tự tại, dung hòa với thiên nhiên. Uống trà, uống rượu, ngâm thơ ... lòng càng thêm "tiêu dao, khoan khoái". Từng cặp câu song hành, đăng đối, ngôn ngữ hài hòa, giọng thơ khoan thai, đủng đỉnh. Trong nguyên tác và trong bản dịch đều thế:

 "Hoa, trúc tay tự giồng Gậy, dép bên mùi hoa Chén, cốc ánh sáng hồng Rửa nghiên, cá nuốt mực Pha trà, chim lánh lót Ngâm thơ thừa tiêu dao Uống rượu thêm khoan khoái" 

   Nguyễn Bỉnh Khiêm có không ít vần thơ dung dị nói lên niềm vui dạt dào của kẻ sĩ thanh cao sống giữa thiên nhiên. Một đời thanh bạch mà sang trọng, ở cõi đời này mấy ai dễ có được như Trạng Trình?

 "Ruộng hiềm đất áy, cày chưa chín Sách được câu thần dạ những ngoong".                         (Bài 111) "Trà sen, sáng đãi người đưa khát Rượu thánh hôm mời khách uống say".                         (Bài 140) "Vườn rau, sáng dạo, sương đầy dép Bến cá, đêm trăng, bóng lọt thuyền"                ("Ngụ ý" - thơ dịch) 

   Giọng thơ pha chút hóm hỉnh tự giễu mình khi ông nói về "vụng" và "xảo". Cấu trúc vần thơ liên hoàn. Thơ mang nội dung đạo lý với cách nói thâm trầm, thấm thía. Khuyên mình hay nhắc khẽ ai?

 "Người xảo thì ta vụng Ấy vụng thế mà hay! Ta vụng, người thì xảo Ấy xảo thế mà gay!" 

   Vụng là vụng về, chất phác. Xảo là xảo quyệt, tham lam, dối trá. Vụng và xảo nói về hai laoị người trong xã hội xưa nay. Có bài thơ ông nói về khôn và dại trong thiên hạ:

 "Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn, người đến chỗ lao xao..." 

   Nơi vắng vẻ là nơi sống với ruộng vườn, thoát vòng danh lợi. Chốn lao xao là chốn bon chen, giành dật. Cũng là hai cách sống đối lập của hai loại người trong xã hội, có người đánh trọng, có kẻ đáng khinh!

   Giữa thế kỉ XIX, quan đại thần , nhà thơ tài tử Nguyễn Công Trứ cũng có viết về chuyện danh lợi ở đời với tâm thế kẻ sĩ:

 "Chen chúc lợi danh đà chán ngắt Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao! Đám phồn hoa chót bước chân vào Sực nghĩ lại giật mình bao kể xiết"            ("Thoát vòng danh lợi") 

   Tám câu còn lại nói về nguyên lý đạo đức, một tiêu chí về triết lí nhân sinh. Ông sống giữa thời loạn lạc, vì thế điều ông nói là cả một sự chiêm nghiệm lịch sử và xã hội; là bài học về đạo lý, nhân sinh: "Đường đời rất gập ghềnh ...Lòng người rất hiểm ác". Ý tưởng không có gì mới lạ, trước đó mấy nghìn năm, trăm năm đã có người nói. Cái hay là ở hai câu cuối bài thơ:

 "Quân tử biết răn mình, Chí thiện làm mẫu mực". 

   "Chí thiện" là tiêu chuẩn tuyệt đối về cái sự lí ở sự đời. Biết sống đẹp và hương thiện cũng là chí thiện. Là quân tử, là kẻ sĩ thì phải là người chân chính. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống và ứng xử như vậy. Vì thế ông mới được ca ngợi là Ông thầy của cả một thời đại.

   Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm đến nay vẫn còn bức đại tự sơn son thiếp vàng với bốn chữ "Như nhật trung thiên" – như mặt trời giữa bầu trời. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy cán bộ đảng viên:"Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng", phải "cần, kiệm, liêm, chính, chí, công, vô, tư". Đó cũng là chí thiện vậy. bài học về "chí thiện" vẫn nhiều điều mới mẻ với chúng ta ngày nay. Chí thiện là sống đẹp, là gương sang muôn đời ngợi ca.

0
0
Đặng Bảo Trâm
07/04/2018 11:15:02

Đề bài: Phân tích bài thơ "Ngụ hứng ở quán Trung Tân" của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Bài làm

   Nguyễn Bỉnh Khiêm(1491-1585) quê ở làng Trung Am, xã Lý Học, Vĩnh Bảo, Hải Phòng, học giỏi, đỗ Trạng Nguyên. Ông có câu thơ "Văn khôi tam thượng tiểu tài sơ" nghĩa là ba lần đỗ đầu vẫn cười mình tầm thường. Làm quan dười triều Mạc một thời rồi ông treo ấn từ quan, về quê dựng am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ, lập quán Trung Tân, xây Nghinh Phong kiều, mở trường học, có nhiều học trò thành tài nổi tiếng như Phùng Khắc Khoann (Trạng Bùng), Nguyễn Dữ, ...Ông đức trọng tài cao, được người đời kính ái gọi là Tuyết Giang phu tử. Lúc ông mất, nhà Mạc truy phong là Trình Quốc Công.

   Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà triết học vĩ đại để lại nhiều sấm kỳ linh diệu, là nhà thơ lỗi lạc của dân tộc trong thế kỉ XVI. Thơ ông hàm súc, ẩn chứa triết lý, giáo huấn, thương dân, lo đời, ghét chiến tranh. Những câu thơ viết thế thiên nhiên rất tươi tắn, thú vị. Hiện còn lại gần 200 bài thơ Nôm trong "Bạch Vân quốc ngữ thi tập" và trên 1000 bài thơ chữ Hán trong "Bạch Vân Am thi tập".

   Năm Nhân Dầm (1543) Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thoái quan về sống giữa xóm làng, quê hương. Mùa thu năm ấy, ông cùng các bô lão lập quán Trung Tân làm chỗ ngồi chơi hóng gió và để khách qua đường nghỉ chân. Trong bài "Bài bia ở quán Trung Tân", Nguyễn Bỉnh Khiêm nói rõ:

   "Có người hỏi ta rằng: "Quán ấy đặt tên Trung Tân có nghĩa là gì?" Ta trả lời rằng: "Trung có nghĩa là đứng giữa không chênh lệch, giữ vẹn được điều thiện là trung, không giữ được điều thiện thời không phải là trung vậy; Tân có nghĩa là cái bến, biết chỗ đáng đậu là bến chính, không biết chỗ đậu là bến mê vậy" ...

   Trạng Trình có chùm thơ nhiều bài lấy nhan đề "Trung Tân ngu hứng". Bài thơ thứ nhất này gồm hai tư câu thơ theo thể ngụ ngôn trường thiên, lấy vần trắc (bắc-trắc-thực-sắc..) làm âm vận chủ đạo. Bài thơ dịch của Ngô Lập Chi rất hay, vừa giữ được nguyên điệu thanh thoát, vừa sát nguyên tác, nhất là phép đối.

   Hai câu thơ đầu nói lên vị trí của quán Trung Tân:

 "Sông ngòi vòng tây bắc Làng xóm bọc tây nam" 

   Quán ở giữa xóm làng đông vui, có sông ngòi uốn quanh, rất hữu tình. Trong "Bài bia ở quán Trung Tân" , tác giả cho biết rất cụ thể:"bến Trung Tân, trông sang phía đông nhìn Đông Hải, ngoảnh sang phía tây nhìn Tây Kinh, bên nam trông sang Ngư Khê thì thấy Trung Am, Bích Động, cái kia cái nọ quanh dựa vào nhau; bên bắc cúi nhìn sông Tuyết Giang thì thấy chợ Hàn, bến Nguyệt bao bọc tả hữu, một con đường cái quan chạy dọc ở giữa, biết bao bánh xe, chân ngựa từ hàng ngàn dặm xa tấp nập đi qua chốn này".

   Ba câu tiếp theo nói về am Bạch Vân nơi đọc sách và dưỡng nhàn của ông sau khi đã thoát vòng danh lợi. Am ở bên nửa mẫu vườn, một nơi thanh tĩnh mà chủ nhân là một con người thanh bạch. Câu thơ "xe ngựa bụi không đến" mang tính hàm nghĩa sâu sắc.

   Tiếp theo nhà thơ nói đến hoa, cá, chim, chuyện uống rượu và pha trà. Vừa tả cảnh, vừa tả tình. Cảnh vật được nhân hóa. Cá, chim như bầu bạn tri kỉ. Một tâm hồn thanh cao, tự tại, dung hòa với thiên nhiên. Uống trà, uống rượu, ngâm thơ ... lòng càng thêm "tiêu dao, khoan khoái". Từng cặp câu song hành, đăng đối, ngôn ngữ hài hòa, giọng thơ khoan thai, đủng đỉnh. Trong nguyên tác và trong bản dịch đều thế:

 "Hoa, trúc tay tự giồng Gậy, dép bên mùi hoa Chén, cốc ánh sáng hồng Rửa nghiên, cá nuốt mực Pha trà, chim lánh lót Ngâm thơ thừa tiêu dao Uống rượu thêm khoan khoái" 

   Nguyễn Bỉnh Khiêm có không ít vần thơ dung dị nói lên niềm vui dạt dào của kẻ sĩ thanh cao sống giữa thiên nhiên. Một đời thanh bạch mà sang trọng, ở cõi đời này mấy ai dễ có được như Trạng Trình?

 "Ruộng hiềm đất áy, cày chưa chín Sách được câu thần dạ những ngoong".                         (Bài 111) "Trà sen, sáng đãi người đưa khát Rượu thánh hôm mời khách uống say".                         (Bài 140) "Vườn rau, sáng dạo, sương đầy dép Bến cá, đêm trăng, bóng lọt thuyền"                ("Ngụ ý" - thơ dịch) 

   Giọng thơ pha chút hóm hỉnh tự giễu mình khi ông nói về "vụng" và "xảo". Cấu trúc vần thơ liên hoàn. Thơ mang nội dung đạo lý với cách nói thâm trầm, thấm thía. Khuyên mình hay nhắc khẽ ai?

 "Người xảo thì ta vụng Ấy vụng thế mà hay! Ta vụng, người thì xảo Ấy xảo thế mà gay!" 

   Vụng là vụng về, chất phác. Xảo là xảo quyệt, tham lam, dối trá. Vụng và xảo nói về hai laoị người trong xã hội xưa nay. Có bài thơ ông nói về khôn và dại trong thiên hạ:

 "Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn, người đến chỗ lao xao..." 

   Nơi vắng vẻ là nơi sống với ruộng vườn, thoát vòng danh lợi. Chốn lao xao là chốn bon chen, giành dật. Cũng là hai cách sống đối lập của hai loại người trong xã hội, có người đánh trọng, có kẻ đáng khinh!

   Giữa thế kỉ XIX, quan đại thần , nhà thơ tài tử Nguyễn Công Trứ cũng có viết về chuyện danh lợi ở đời với tâm thế kẻ sĩ:

 "Chen chúc lợi danh đà chán ngắt Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao! Đám phồn hoa chót bước chân vào Sực nghĩ lại giật mình bao kể xiết"            ("Thoát vòng danh lợi") 

   Tám câu còn lại nói về nguyên lý đạo đức, một tiêu chí về triết lí nhân sinh. Ông sống giữa thời loạn lạc, vì thế điều ông nói là cả một sự chiêm nghiệm lịch sử và xã hội; là bài học về đạo lý, nhân sinh: "Đường đời rất gập ghềnh ...Lòng người rất hiểm ác". Ý tưởng không có gì mới lạ, trước đó mấy nghìn năm, trăm năm đã có người nói. Cái hay là ở hai câu cuối bài thơ:

 "Quân tử biết răn mình, Chí thiện làm mẫu mực". 

   "Chí thiện" là tiêu chuẩn tuyệt đối về cái sự lí ở sự đời. Biết sống đẹp và hương thiện cũng là chí thiện. Là quân tử, là kẻ sĩ thì phải là người chân chính. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống và ứng xử như vậy. Vì thế ông mới được ca ngợi là Ông thầy của cả một thời đại.

   Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm đến nay vẫn còn bức đại tự sơn son thiếp vàng với bốn chữ "Như nhật trung thiên" – như mặt trời giữa bầu trời. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy cán bộ đảng viên:"Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng", phải "cần, kiệm, liêm, chính, chí, công, vô, tư". Đó cũng là chí thiện vậy. bài học về "chí thiện" vẫn nhiều điều mới mẻ với chúng ta ngày nay. Chí thiện là sống đẹp, là gương sang muôn đời ngợi ca.

0
0
Phạm Minh Trí
07/04/2018 11:15:02

Đề bài: Phân tích bài thơ "Ngụ hứng ở quán Trung Tân" của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Bài làm

   Nguyễn Bỉnh Khiêm(1491-1585) quê ở làng Trung Am, xã Lý Học, Vĩnh Bảo, Hải Phòng, học giỏi, đỗ Trạng Nguyên. Ông có câu thơ "Văn khôi tam thượng tiểu tài sơ" nghĩa là ba lần đỗ đầu vẫn cười mình tầm thường. Làm quan dười triều Mạc một thời rồi ông treo ấn từ quan, về quê dựng am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ, lập quán Trung Tân, xây Nghinh Phong kiều, mở trường học, có nhiều học trò thành tài nổi tiếng như Phùng Khắc Khoann (Trạng Bùng), Nguyễn Dữ, ...Ông đức trọng tài cao, được người đời kính ái gọi là Tuyết Giang phu tử. Lúc ông mất, nhà Mạc truy phong là Trình Quốc Công.

   Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà triết học vĩ đại để lại nhiều sấm kỳ linh diệu, là nhà thơ lỗi lạc của dân tộc trong thế kỉ XVI. Thơ ông hàm súc, ẩn chứa triết lý, giáo huấn, thương dân, lo đời, ghét chiến tranh. Những câu thơ viết thế thiên nhiên rất tươi tắn, thú vị. Hiện còn lại gần 200 bài thơ Nôm trong "Bạch Vân quốc ngữ thi tập" và trên 1000 bài thơ chữ Hán trong "Bạch Vân Am thi tập".

   Năm Nhân Dầm (1543) Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thoái quan về sống giữa xóm làng, quê hương. Mùa thu năm ấy, ông cùng các bô lão lập quán Trung Tân làm chỗ ngồi chơi hóng gió và để khách qua đường nghỉ chân. Trong bài "Bài bia ở quán Trung Tân", Nguyễn Bỉnh Khiêm nói rõ:

   "Có người hỏi ta rằng: "Quán ấy đặt tên Trung Tân có nghĩa là gì?" Ta trả lời rằng: "Trung có nghĩa là đứng giữa không chênh lệch, giữ vẹn được điều thiện là trung, không giữ được điều thiện thời không phải là trung vậy; Tân có nghĩa là cái bến, biết chỗ đáng đậu là bến chính, không biết chỗ đậu là bến mê vậy" ...

   Trạng Trình có chùm thơ nhiều bài lấy nhan đề "Trung Tân ngu hứng". Bài thơ thứ nhất này gồm hai tư câu thơ theo thể ngụ ngôn trường thiên, lấy vần trắc (bắc-trắc-thực-sắc..) làm âm vận chủ đạo. Bài thơ dịch của Ngô Lập Chi rất hay, vừa giữ được nguyên điệu thanh thoát, vừa sát nguyên tác, nhất là phép đối.

   Hai câu thơ đầu nói lên vị trí của quán Trung Tân:

 "Sông ngòi vòng tây bắc Làng xóm bọc tây nam" 

   Quán ở giữa xóm làng đông vui, có sông ngòi uốn quanh, rất hữu tình. Trong "Bài bia ở quán Trung Tân" , tác giả cho biết rất cụ thể:"bến Trung Tân, trông sang phía đông nhìn Đông Hải, ngoảnh sang phía tây nhìn Tây Kinh, bên nam trông sang Ngư Khê thì thấy Trung Am, Bích Động, cái kia cái nọ quanh dựa vào nhau; bên bắc cúi nhìn sông Tuyết Giang thì thấy chợ Hàn, bến Nguyệt bao bọc tả hữu, một con đường cái quan chạy dọc ở giữa, biết bao bánh xe, chân ngựa từ hàng ngàn dặm xa tấp nập đi qua chốn này".

   Ba câu tiếp theo nói về am Bạch Vân nơi đọc sách và dưỡng nhàn của ông sau khi đã thoát vòng danh lợi. Am ở bên nửa mẫu vườn, một nơi thanh tĩnh mà chủ nhân là một con người thanh bạch. Câu thơ "xe ngựa bụi không đến" mang tính hàm nghĩa sâu sắc.

   Tiếp theo nhà thơ nói đến hoa, cá, chim, chuyện uống rượu và pha trà. Vừa tả cảnh, vừa tả tình. Cảnh vật được nhân hóa. Cá, chim như bầu bạn tri kỉ. Một tâm hồn thanh cao, tự tại, dung hòa với thiên nhiên. Uống trà, uống rượu, ngâm thơ ... lòng càng thêm "tiêu dao, khoan khoái". Từng cặp câu song hành, đăng đối, ngôn ngữ hài hòa, giọng thơ khoan thai, đủng đỉnh. Trong nguyên tác và trong bản dịch đều thế:

 "Hoa, trúc tay tự giồng Gậy, dép bên mùi hoa Chén, cốc ánh sáng hồng Rửa nghiên, cá nuốt mực Pha trà, chim lánh lót Ngâm thơ thừa tiêu dao Uống rượu thêm khoan khoái" 

   Nguyễn Bỉnh Khiêm có không ít vần thơ dung dị nói lên niềm vui dạt dào của kẻ sĩ thanh cao sống giữa thiên nhiên. Một đời thanh bạch mà sang trọng, ở cõi đời này mấy ai dễ có được như Trạng Trình?

 "Ruộng hiềm đất áy, cày chưa chín Sách được câu thần dạ những ngoong".                         (Bài 111) "Trà sen, sáng đãi người đưa khát Rượu thánh hôm mời khách uống say".                         (Bài 140) "Vườn rau, sáng dạo, sương đầy dép Bến cá, đêm trăng, bóng lọt thuyền"                ("Ngụ ý" - thơ dịch) 

   Giọng thơ pha chút hóm hỉnh tự giễu mình khi ông nói về "vụng" và "xảo". Cấu trúc vần thơ liên hoàn. Thơ mang nội dung đạo lý với cách nói thâm trầm, thấm thía. Khuyên mình hay nhắc khẽ ai?

 "Người xảo thì ta vụng Ấy vụng thế mà hay! Ta vụng, người thì xảo Ấy xảo thế mà gay!" 

   Vụng là vụng về, chất phác. Xảo là xảo quyệt, tham lam, dối trá. Vụng và xảo nói về hai laoị người trong xã hội xưa nay. Có bài thơ ông nói về khôn và dại trong thiên hạ:

 "Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn, người đến chỗ lao xao..." 

   Nơi vắng vẻ là nơi sống với ruộng vườn, thoát vòng danh lợi. Chốn lao xao là chốn bon chen, giành dật. Cũng là hai cách sống đối lập của hai loại người trong xã hội, có người đánh trọng, có kẻ đáng khinh!

   Giữa thế kỉ XIX, quan đại thần , nhà thơ tài tử Nguyễn Công Trứ cũng có viết về chuyện danh lợi ở đời với tâm thế kẻ sĩ:

 "Chen chúc lợi danh đà chán ngắt Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao! Đám phồn hoa chót bước chân vào Sực nghĩ lại giật mình bao kể xiết"            ("Thoát vòng danh lợi") 

   Tám câu còn lại nói về nguyên lý đạo đức, một tiêu chí về triết lí nhân sinh. Ông sống giữa thời loạn lạc, vì thế điều ông nói là cả một sự chiêm nghiệm lịch sử và xã hội; là bài học về đạo lý, nhân sinh: "Đường đời rất gập ghềnh ...Lòng người rất hiểm ác". Ý tưởng không có gì mới lạ, trước đó mấy nghìn năm, trăm năm đã có người nói. Cái hay là ở hai câu cuối bài thơ:

 "Quân tử biết răn mình, Chí thiện làm mẫu mực". 

   "Chí thiện" là tiêu chuẩn tuyệt đối về cái sự lí ở sự đời. Biết sống đẹp và hương thiện cũng là chí thiện. Là quân tử, là kẻ sĩ thì phải là người chân chính. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống và ứng xử như vậy. Vì thế ông mới được ca ngợi là Ông thầy của cả một thời đại.

   Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm đến nay vẫn còn bức đại tự sơn son thiếp vàng với bốn chữ "Như nhật trung thiên" – như mặt trời giữa bầu trời. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy cán bộ đảng viên:"Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng", phải "cần, kiệm, liêm, chính, chí, công, vô, tư". Đó cũng là chí thiện vậy. bài học về "chí thiện" vẫn nhiều điều mới mẻ với chúng ta ngày nay. Chí thiện là sống đẹp, là gương sang muôn đời ngợi ca.

0
0
Phạm Văn Phú
07/04/2018 11:15:02

Đề bài: Phân tích bài thơ "Ngụ hứng ở quán Trung Tân" của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Bài làm

   Nguyễn Bỉnh Khiêm(1491-1585) quê ở làng Trung Am, xã Lý Học, Vĩnh Bảo, Hải Phòng, học giỏi, đỗ Trạng Nguyên. Ông có câu thơ "Văn khôi tam thượng tiểu tài sơ" nghĩa là ba lần đỗ đầu vẫn cười mình tầm thường. Làm quan dười triều Mạc một thời rồi ông treo ấn từ quan, về quê dựng am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ, lập quán Trung Tân, xây Nghinh Phong kiều, mở trường học, có nhiều học trò thành tài nổi tiếng như Phùng Khắc Khoann (Trạng Bùng), Nguyễn Dữ, ...Ông đức trọng tài cao, được người đời kính ái gọi là Tuyết Giang phu tử. Lúc ông mất, nhà Mạc truy phong là Trình Quốc Công.

   Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà triết học vĩ đại để lại nhiều sấm kỳ linh diệu, là nhà thơ lỗi lạc của dân tộc trong thế kỉ XVI. Thơ ông hàm súc, ẩn chứa triết lý, giáo huấn, thương dân, lo đời, ghét chiến tranh. Những câu thơ viết thế thiên nhiên rất tươi tắn, thú vị. Hiện còn lại gần 200 bài thơ Nôm trong "Bạch Vân quốc ngữ thi tập" và trên 1000 bài thơ chữ Hán trong "Bạch Vân Am thi tập".

   Năm Nhân Dầm (1543) Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thoái quan về sống giữa xóm làng, quê hương. Mùa thu năm ấy, ông cùng các bô lão lập quán Trung Tân làm chỗ ngồi chơi hóng gió và để khách qua đường nghỉ chân. Trong bài "Bài bia ở quán Trung Tân", Nguyễn Bỉnh Khiêm nói rõ:

   "Có người hỏi ta rằng: "Quán ấy đặt tên Trung Tân có nghĩa là gì?" Ta trả lời rằng: "Trung có nghĩa là đứng giữa không chênh lệch, giữ vẹn được điều thiện là trung, không giữ được điều thiện thời không phải là trung vậy; Tân có nghĩa là cái bến, biết chỗ đáng đậu là bến chính, không biết chỗ đậu là bến mê vậy" ...

   Trạng Trình có chùm thơ nhiều bài lấy nhan đề "Trung Tân ngu hứng". Bài thơ thứ nhất này gồm hai tư câu thơ theo thể ngụ ngôn trường thiên, lấy vần trắc (bắc-trắc-thực-sắc..) làm âm vận chủ đạo. Bài thơ dịch của Ngô Lập Chi rất hay, vừa giữ được nguyên điệu thanh thoát, vừa sát nguyên tác, nhất là phép đối.

   Hai câu thơ đầu nói lên vị trí của quán Trung Tân:

 "Sông ngòi vòng tây bắc Làng xóm bọc tây nam" 

   Quán ở giữa xóm làng đông vui, có sông ngòi uốn quanh, rất hữu tình. Trong "Bài bia ở quán Trung Tân" , tác giả cho biết rất cụ thể:"bến Trung Tân, trông sang phía đông nhìn Đông Hải, ngoảnh sang phía tây nhìn Tây Kinh, bên nam trông sang Ngư Khê thì thấy Trung Am, Bích Động, cái kia cái nọ quanh dựa vào nhau; bên bắc cúi nhìn sông Tuyết Giang thì thấy chợ Hàn, bến Nguyệt bao bọc tả hữu, một con đường cái quan chạy dọc ở giữa, biết bao bánh xe, chân ngựa từ hàng ngàn dặm xa tấp nập đi qua chốn này".

   Ba câu tiếp theo nói về am Bạch Vân nơi đọc sách và dưỡng nhàn của ông sau khi đã thoát vòng danh lợi. Am ở bên nửa mẫu vườn, một nơi thanh tĩnh mà chủ nhân là một con người thanh bạch. Câu thơ "xe ngựa bụi không đến" mang tính hàm nghĩa sâu sắc.

   Tiếp theo nhà thơ nói đến hoa, cá, chim, chuyện uống rượu và pha trà. Vừa tả cảnh, vừa tả tình. Cảnh vật được nhân hóa. Cá, chim như bầu bạn tri kỉ. Một tâm hồn thanh cao, tự tại, dung hòa với thiên nhiên. Uống trà, uống rượu, ngâm thơ ... lòng càng thêm "tiêu dao, khoan khoái". Từng cặp câu song hành, đăng đối, ngôn ngữ hài hòa, giọng thơ khoan thai, đủng đỉnh. Trong nguyên tác và trong bản dịch đều thế:

 "Hoa, trúc tay tự giồng Gậy, dép bên mùi hoa Chén, cốc ánh sáng hồng Rửa nghiên, cá nuốt mực Pha trà, chim lánh lót Ngâm thơ thừa tiêu dao Uống rượu thêm khoan khoái" 

   Nguyễn Bỉnh Khiêm có không ít vần thơ dung dị nói lên niềm vui dạt dào của kẻ sĩ thanh cao sống giữa thiên nhiên. Một đời thanh bạch mà sang trọng, ở cõi đời này mấy ai dễ có được như Trạng Trình?

 "Ruộng hiềm đất áy, cày chưa chín Sách được câu thần dạ những ngoong".                         (Bài 111) "Trà sen, sáng đãi người đưa khát Rượu thánh hôm mời khách uống say".                         (Bài 140) "Vườn rau, sáng dạo, sương đầy dép Bến cá, đêm trăng, bóng lọt thuyền"                ("Ngụ ý" - thơ dịch) 

   Giọng thơ pha chút hóm hỉnh tự giễu mình khi ông nói về "vụng" và "xảo". Cấu trúc vần thơ liên hoàn. Thơ mang nội dung đạo lý với cách nói thâm trầm, thấm thía. Khuyên mình hay nhắc khẽ ai?

 "Người xảo thì ta vụng Ấy vụng thế mà hay! Ta vụng, người thì xảo Ấy xảo thế mà gay!" 

   Vụng là vụng về, chất phác. Xảo là xảo quyệt, tham lam, dối trá. Vụng và xảo nói về hai laoị người trong xã hội xưa nay. Có bài thơ ông nói về khôn và dại trong thiên hạ:

 "Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn, người đến chỗ lao xao..." 

   Nơi vắng vẻ là nơi sống với ruộng vườn, thoát vòng danh lợi. Chốn lao xao là chốn bon chen, giành dật. Cũng là hai cách sống đối lập của hai loại người trong xã hội, có người đánh trọng, có kẻ đáng khinh!

   Giữa thế kỉ XIX, quan đại thần , nhà thơ tài tử Nguyễn Công Trứ cũng có viết về chuyện danh lợi ở đời với tâm thế kẻ sĩ:

 "Chen chúc lợi danh đà chán ngắt Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao! Đám phồn hoa chót bước chân vào Sực nghĩ lại giật mình bao kể xiết"            ("Thoát vòng danh lợi") 

   Tám câu còn lại nói về nguyên lý đạo đức, một tiêu chí về triết lí nhân sinh. Ông sống giữa thời loạn lạc, vì thế điều ông nói là cả một sự chiêm nghiệm lịch sử và xã hội; là bài học về đạo lý, nhân sinh: "Đường đời rất gập ghềnh ...Lòng người rất hiểm ác". Ý tưởng không có gì mới lạ, trước đó mấy nghìn năm, trăm năm đã có người nói. Cái hay là ở hai câu cuối bài thơ:

 "Quân tử biết răn mình, Chí thiện làm mẫu mực". 

   "Chí thiện" là tiêu chuẩn tuyệt đối về cái sự lí ở sự đời. Biết sống đẹp và hương thiện cũng là chí thiện. Là quân tử, là kẻ sĩ thì phải là người chân chính. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống và ứng xử như vậy. Vì thế ông mới được ca ngợi là Ông thầy của cả một thời đại.

   Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm đến nay vẫn còn bức đại tự sơn son thiếp vàng với bốn chữ "Như nhật trung thiên" – như mặt trời giữa bầu trời. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy cán bộ đảng viên:"Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng", phải "cần, kiệm, liêm, chính, chí, công, vô, tư". Đó cũng là chí thiện vậy. bài học về "chí thiện" vẫn nhiều điều mới mẻ với chúng ta ngày nay. Chí thiện là sống đẹp, là gương sang muôn đời ngợi ca.

0
0
Nguyễn Thu Hiền
07/04/2018 11:15:02

Đề bài: Phân tích bài thơ "Ngụ hứng ở quán Trung Tân" của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Bài làm

   Nguyễn Bỉnh Khiêm(1491-1585) quê ở làng Trung Am, xã Lý Học, Vĩnh Bảo, Hải Phòng, học giỏi, đỗ Trạng Nguyên. Ông có câu thơ "Văn khôi tam thượng tiểu tài sơ" nghĩa là ba lần đỗ đầu vẫn cười mình tầm thường. Làm quan dười triều Mạc một thời rồi ông treo ấn từ quan, về quê dựng am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ, lập quán Trung Tân, xây Nghinh Phong kiều, mở trường học, có nhiều học trò thành tài nổi tiếng như Phùng Khắc Khoann (Trạng Bùng), Nguyễn Dữ, ...Ông đức trọng tài cao, được người đời kính ái gọi là Tuyết Giang phu tử. Lúc ông mất, nhà Mạc truy phong là Trình Quốc Công.

   Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà triết học vĩ đại để lại nhiều sấm kỳ linh diệu, là nhà thơ lỗi lạc của dân tộc trong thế kỉ XVI. Thơ ông hàm súc, ẩn chứa triết lý, giáo huấn, thương dân, lo đời, ghét chiến tranh. Những câu thơ viết thế thiên nhiên rất tươi tắn, thú vị. Hiện còn lại gần 200 bài thơ Nôm trong "Bạch Vân quốc ngữ thi tập" và trên 1000 bài thơ chữ Hán trong "Bạch Vân Am thi tập".

   Năm Nhân Dầm (1543) Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thoái quan về sống giữa xóm làng, quê hương. Mùa thu năm ấy, ông cùng các bô lão lập quán Trung Tân làm chỗ ngồi chơi hóng gió và để khách qua đường nghỉ chân. Trong bài "Bài bia ở quán Trung Tân", Nguyễn Bỉnh Khiêm nói rõ:

   "Có người hỏi ta rằng: "Quán ấy đặt tên Trung Tân có nghĩa là gì?" Ta trả lời rằng: "Trung có nghĩa là đứng giữa không chênh lệch, giữ vẹn được điều thiện là trung, không giữ được điều thiện thời không phải là trung vậy; Tân có nghĩa là cái bến, biết chỗ đáng đậu là bến chính, không biết chỗ đậu là bến mê vậy" ...

   Trạng Trình có chùm thơ nhiều bài lấy nhan đề "Trung Tân ngu hứng". Bài thơ thứ nhất này gồm hai tư câu thơ theo thể ngụ ngôn trường thiên, lấy vần trắc (bắc-trắc-thực-sắc..) làm âm vận chủ đạo. Bài thơ dịch của Ngô Lập Chi rất hay, vừa giữ được nguyên điệu thanh thoát, vừa sát nguyên tác, nhất là phép đối.

   Hai câu thơ đầu nói lên vị trí của quán Trung Tân:

 "Sông ngòi vòng tây bắc Làng xóm bọc tây nam" 

   Quán ở giữa xóm làng đông vui, có sông ngòi uốn quanh, rất hữu tình. Trong "Bài bia ở quán Trung Tân" , tác giả cho biết rất cụ thể:"bến Trung Tân, trông sang phía đông nhìn Đông Hải, ngoảnh sang phía tây nhìn Tây Kinh, bên nam trông sang Ngư Khê thì thấy Trung Am, Bích Động, cái kia cái nọ quanh dựa vào nhau; bên bắc cúi nhìn sông Tuyết Giang thì thấy chợ Hàn, bến Nguyệt bao bọc tả hữu, một con đường cái quan chạy dọc ở giữa, biết bao bánh xe, chân ngựa từ hàng ngàn dặm xa tấp nập đi qua chốn này".

   Ba câu tiếp theo nói về am Bạch Vân nơi đọc sách và dưỡng nhàn của ông sau khi đã thoát vòng danh lợi. Am ở bên nửa mẫu vườn, một nơi thanh tĩnh mà chủ nhân là một con người thanh bạch. Câu thơ "xe ngựa bụi không đến" mang tính hàm nghĩa sâu sắc.

   Tiếp theo nhà thơ nói đến hoa, cá, chim, chuyện uống rượu và pha trà. Vừa tả cảnh, vừa tả tình. Cảnh vật được nhân hóa. Cá, chim như bầu bạn tri kỉ. Một tâm hồn thanh cao, tự tại, dung hòa với thiên nhiên. Uống trà, uống rượu, ngâm thơ ... lòng càng thêm "tiêu dao, khoan khoái". Từng cặp câu song hành, đăng đối, ngôn ngữ hài hòa, giọng thơ khoan thai, đủng đỉnh. Trong nguyên tác và trong bản dịch đều thế:

 "Hoa, trúc tay tự giồng Gậy, dép bên mùi hoa Chén, cốc ánh sáng hồng Rửa nghiên, cá nuốt mực Pha trà, chim lánh lót Ngâm thơ thừa tiêu dao Uống rượu thêm khoan khoái" 

   Nguyễn Bỉnh Khiêm có không ít vần thơ dung dị nói lên niềm vui dạt dào của kẻ sĩ thanh cao sống giữa thiên nhiên. Một đời thanh bạch mà sang trọng, ở cõi đời này mấy ai dễ có được như Trạng Trình?

 "Ruộng hiềm đất áy, cày chưa chín Sách được câu thần dạ những ngoong".                         (Bài 111) "Trà sen, sáng đãi người đưa khát Rượu thánh hôm mời khách uống say".                         (Bài 140) "Vườn rau, sáng dạo, sương đầy dép Bến cá, đêm trăng, bóng lọt thuyền"                ("Ngụ ý" - thơ dịch) 

   Giọng thơ pha chút hóm hỉnh tự giễu mình khi ông nói về "vụng" và "xảo". Cấu trúc vần thơ liên hoàn. Thơ mang nội dung đạo lý với cách nói thâm trầm, thấm thía. Khuyên mình hay nhắc khẽ ai?

 "Người xảo thì ta vụng Ấy vụng thế mà hay! Ta vụng, người thì xảo Ấy xảo thế mà gay!" 

   Vụng là vụng về, chất phác. Xảo là xảo quyệt, tham lam, dối trá. Vụng và xảo nói về hai laoị người trong xã hội xưa nay. Có bài thơ ông nói về khôn và dại trong thiên hạ:

 "Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn, người đến chỗ lao xao..." 

   Nơi vắng vẻ là nơi sống với ruộng vườn, thoát vòng danh lợi. Chốn lao xao là chốn bon chen, giành dật. Cũng là hai cách sống đối lập của hai loại người trong xã hội, có người đánh trọng, có kẻ đáng khinh!

   Giữa thế kỉ XIX, quan đại thần , nhà thơ tài tử Nguyễn Công Trứ cũng có viết về chuyện danh lợi ở đời với tâm thế kẻ sĩ:

 "Chen chúc lợi danh đà chán ngắt Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao! Đám phồn hoa chót bước chân vào Sực nghĩ lại giật mình bao kể xiết"            ("Thoát vòng danh lợi") 

   Tám câu còn lại nói về nguyên lý đạo đức, một tiêu chí về triết lí nhân sinh. Ông sống giữa thời loạn lạc, vì thế điều ông nói là cả một sự chiêm nghiệm lịch sử và xã hội; là bài học về đạo lý, nhân sinh: "Đường đời rất gập ghềnh ...Lòng người rất hiểm ác". Ý tưởng không có gì mới lạ, trước đó mấy nghìn năm, trăm năm đã có người nói. Cái hay là ở hai câu cuối bài thơ:

 "Quân tử biết răn mình, Chí thiện làm mẫu mực". 

   "Chí thiện" là tiêu chuẩn tuyệt đối về cái sự lí ở sự đời. Biết sống đẹp và hương thiện cũng là chí thiện. Là quân tử, là kẻ sĩ thì phải là người chân chính. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống và ứng xử như vậy. Vì thế ông mới được ca ngợi là Ông thầy của cả một thời đại.

   Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm đến nay vẫn còn bức đại tự sơn son thiếp vàng với bốn chữ "Như nhật trung thiên" – như mặt trời giữa bầu trời. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy cán bộ đảng viên:"Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng", phải "cần, kiệm, liêm, chính, chí, công, vô, tư". Đó cũng là chí thiện vậy. bài học về "chí thiện" vẫn nhiều điều mới mẻ với chúng ta ngày nay. Chí thiện là sống đẹp, là gương sang muôn đời ngợi ca.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư