LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu

2 trả lời
Hỏi chi tiết
1.424
0
0
Tô Hương Liên
01/08/2017 03:20:05
Đề bài: Phân tích bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu để nhận xét về cấu trúc triết lí độc đáo của tác phẩm.
Tham khảo bài làm của bạn Đỗ Minh Nhật lớp 10A1 trường THPT Marie Curie - Hà Nội
Mạch thơ « Hoàng Hạc Lâu » được triển khai theo đúng đường đi của mọi triết thuyết nói chung – cái đường đi xin tạm được đơn giản hóa như sau : thoạt đầu là sự ghi nhận về một hiện thực ; bước tiếp theo : triết lí về hiện thực đó, rút ra những vấn đề có ý nghĩa quy luật ; cuối cùng là việc đề nghị với nhân quần một thái độ ứng xử thích hợp.
Tính nhân dĩ thừa Hoàng Hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu
Bài thơ mở ra với những nét ghi nhận về cái tiêu vong. Như đối với mọi bài thơ Đường khác, cái gây ấn tượng mạnh ở đây không phải là những hình ảnh cụ thể cảm tính. Điều đáng chú ý là tác giả đã liên hệ đối sách hai thì của thời gian lịch sử. Ở thì hiện tại, quan cảnh không phải hoàn toàn hoang phế. Còn đó lầu Hoàng Hạc bên bờ sông,, vẫn thường đón du khách từ muôn phương đến viếng thăm. Nhưng thật lạ, cái còn này lại nói lên rất rõ cái mất. Thì ra Hoàng Hạc Lâu chỉ là một vế của phương trình đã được cân bằng thuở trước, vì thế, nửa còn lại chơi vơi này cứ khêu tâm trí người ta nghĩ đến một nửa nào đã chìm khuất trong thời gian chảy xiết vô địch.

Hoàng Hạc Lâu
Hai câu này được Tản Đà dịch :
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
Lời dịch thuật hay, nhưng so với nguyên tác, sắc thái biểu cảm có khác. Ở đây, tâm trạng hụt hẫng và bâng khuâng của nhà thơ có vẻ nổi lộ hơn qua câu thơ có màu sắc nghi vẫn (ai, đi đâu) và qua chữ « trơ » đầy ấn tượng, tách đứng cuối câu với sức nặng riêng của sự cô lập. Trong khi đó, lời thơ nguyên tác thể hiện một sự tiết chế những biểu hiện quá mạnh của cảm xúc, tỏ ra điềm tĩnh để cảm nhận cho thấu triệt ý nghĩa của tâm trạng. Đây chính là một vấn đề thuộc về thi pháp của thơ Đường. Hai câu sau bắt đầu đi vào triết lý trực tiếp qua việc nêu lên một sự đối lập mới :
Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
(Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay)
Đó là sự đối lập giữa một bên là cái tiêu trầm không thể vãn hồi (của những kiếp người hữu hạn của những triều đại thuộc về dĩ vãng chăng ?), với một bên là cái trường tồn của thiên nhiên, cái mạnh mẽ và vô tình của quy luật cuộc sống. Những thanh trắc dày đặc ở câu thứ ba đã dựng nên trập trùng những trở ngại để chẳng đường về của quá khứ. Âm điệu câu thơ gọi cảm giác ấm ức, không thanh thản. Thoắt đến câu thứ tư, mấy thanh bằng liên tiếp dẫn tâm tư người đọc theo áng mây trắng nghìn năm trôi nhẹ vào cái xa xăm của miền suy tưởng. Sự chuyển điệu của bài thơ cũng ngụ tính triết lí. Nhập vào nó, người đọc sẽ có cảm tưởng như vừa trải qua một tiến trình nhận thức có đột biến. Từ chỗ vật vã với những sự kiện thực tế, cõi lòng bỗng chốc đã tìm được sự thanh thản trong việc nhận thức ra quy luật, trong việc xác lập một chỗ đứng mới để thẩm định các giá trị ở đời :
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Song, ngẫm cho cùng, đây chỉ là một bức phon cảnh triết học, cũng như câu thơ thứ tư không chỉ có ý nghĩa ở phương diện gợi tả. Vấn đề là nhà thơ đã không triết lí bằng ngôn ngữ luận lí khô khan, mà bằng ngôn ngữ thiên nhiên, hay nói cách khác là đã bố trí cho thiên nhiên tự phát biểu triết lí của mình. Điều này làm tăng sức thuyết phục cho vấn đề có giá trị như sự khám phá quy luật đã được nói rõ ở các câu trước. Nó cũng làm cho điệu thơ trở nên mềm hoạt và gợi cảm hơn. Quả đây là một cách «luận » độc đáo và có hiệu quả, nếu đúng thuở xưa các nhà thơ ý định dành riêng hai câu năm, sáu để « luận ».
Khi dịch hai câu thơ này, nhất quán với phong cách thơ mình và phon cách thơ của thời đại mới, Tản Đà đã đưa thêm vào bức tranh những đặc tính cá biệt :
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non
Những từ « bày », « xa », « dày », « non » đã làm tăng tính chất tri giác cảm quan của câu thơ, trong khi theo thi pháp của thơ Đường, những « tình xuyên », « phương thảo », « lịch lịch », « thê thê » rất ít màu sắc cụ thể mà lại nặng tính chất khái quát.
Ba phần tư bài thơ nói chung quanh chuyện ngôi lầu. Đến câu thứ bảy, một câu hỏi xuất hiện, khá lạ là :
Nhật mộ hương quan hà xứ thị ?
Sao ở chỗ này lại có băn khoăn ấy ? (Chiều tối rồi, quê hương ở nơi đâu ?). Rõ ràng ở đây nhà thơ không phải đang lâm vào tình cảnh như của Đỗ Phủ khi ông ta viết « Cô chu nhất hệ cố viên tâm », cũng không phải có tâm trạng như tâm trạng của Lí Bạch khi vị « thi tiên » này « Đăng Kim Lăng Phương Hoàng đài » để ngóng vọng Trường An và than « Trường An bất kiến sử nhân sầu ».
Thực ra, như đã nói ở trên, hai câu cuối này chủ yếu xuất hiện theo logic của việc lập thuyết. Càng nhận thức được cái khắc nghiệt ngã của quy luật, cái khoảnh khắc phù du của đời người trên cái nền trường cửu của thiên nhiên, người ta càng có cảm giác ớn lạnh, cô đơn. Đây chính là lúc hình ảnh quê hương hiện lên, xoáy vào tâm trí một nỗi niềm da diết. Tất nhiên, quê hương ở đây không phải chỉ giới hạn trong ý nghĩa là nơi chôn rau cắt rốn, nơi có gia đình, có mồ mả tổ tiên… mà chính là một điểm tựa của cõi lòng, là nơi trú ẩn cuối cùng của những tâm hồn không tìm được sự bình an khi hướng ngoại và là đối cựu của những cái vạn biến trong cuộc đời. Ý nghĩa của vấn đề càng được khẳng định mãnh mẽ qua việc tác giả nêu lên một hoàn cảnh không thuận chiếu : hoàn hôn đã xuống mà hình bóng quê hương chẳng thấy. Trên sông, khói sóng nổi lên…
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
(Trên sông khói sóng cho vừa lòng ai)
Có thể xem hai câu cuối của bài thơ là lời đề nghị về một thái độ sống (ở cấp triết học). Sở dĩ thấm thía vì nó được nói ra như là sự bộc lộ một xúc cảm riêng tư trong một hoàn cảnh thật xác định và cá biệt.
Bài thơ nguyên tác thật tuyệt diệu. Bản dịch Việt văn của Tản Đà cũng thường được ca tụng mà một tuyệt tác dịch thuật. Tuy nhiên, không vì thế mà khi tìm hiểu « Hoàng Hạc lâu », là có thể bỏ rơi nguyên tác. Quả thực như người ta thường nói, bản dịch rất Tản Đà. Chính vì rất Tản Đà nên một sự đối chiếu thường xuyên giữa hai bài lại là một công việc có ý nghĩa, giúp ích cho việc tìm hiểu chẳng những nguyên tác của Thôi Hiệu mà còn cả cá tính thơ của Tản Đà cùng sự khác biệt trong phong cách thơ của hai thời đại. Một bên tính chất biểu cảm chỉ có thể được cảm nhận đầy đủ một khi ta đã nắm được toàn bộ triết lí của bài thơ.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
Tôi yêu Việt Nam
05/08/2017 19:00:21
Thôi Hiệu là nhà thơ sang tác không nhiều nhưng những tác phẩm của ông lại đánh dấu sự lớn mạnh của thơ Đường cũng như phong cách sang tác rất độc đáo.Trong đó bài thơ “Hoàng Hạc Lâu” là nổi tiếng hơn hết bởi tứ thơ súc tích, cách dẫn dắt rất khéo khiến người đọc có cảm giác như đang quay về thời cổ xưa. Bài thơ “Hoàng Hạc Lâu” gửi gắm tâm sự thầm kín về nhân tình thế thái, về chuyện được mất ở đời.
“Hoàng Hạc Lâu” là một bài thơ nhuốm màu buồn, là màu buồn của thơ hay của người. Trải dài từng câu từng chữ là nhịp thơ chậm rãi, êm êm, nhẹ nhàng như da diết cứa vào lòng người nhiều tình cảm chua xót lẫn tiếc nuối.

Hai câu đề như mở ra một viễn cảnh hoang tàn, cô độc:
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu
Mà nay Hoàng Hạc riêng lâu còn trơ
Tác giả đã mượn điển cổ “Hạc vàng” trong truyền thuyết hóa tiên của Phí Văn Vi. Hoàng Hạc Lâu là nơi lưu truyền nhiều truyền thuyết, đáng chú ý hơn hết vẫn là hình ảnh  hóa tiên của nhân vật trong lịch sử. Những năm tháng chói chan, hào hung của lịch sử ấy gợi nhắc chúng ta nhớ đến một thời vàng son mà nơi đây từng có. Ấy vậy mà đến câu thơ thứ hai, giọng thơ như chùng xuống, khiến người đọc cảm thấy trơ trọi và lạc long biết bao nhiêu. Một chữ ‘trơ” khiến cho cả câu thơ não nề và cô độc biết bao nhiêu. Ngày xưa đẹp bao nhiêu thì nay hoang tàn và đổ nát biết bao nhiêu. Biện phát tu từ đối lập được Thôi Hiệu sử dụng một cách triệt để để phát huy được vai trò của nó. Và cũng từ bức tranh cô độc, hoang tàn này của Hoàng Hạc lâu dẫn dụ người đọc đi đến những mạch cảm xúc khác
Hai câu thực lại một lần nữa khẳng định sự chua xót và nuối tiếc khôn nguôi:
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hoàng Hạc lâu gắn liền với hình ảnh thần tiên thơ mộng giờ chỉ còn là ảo ảnh hư vô. Tác giả nhớ về ngày xưa để nuối tiếc cho những gì đã qua, đã mất. Hiện tại thê lương, tiêu điều và vắng lặng đến nao lòng. Tác giả hỏi người khác nhưng thực ra đang hỏi bản thân mình rằng mây trắng ngày xưa nay có còn nữa hay không. Đây là sự hoài niệm tiếc nuối cho những chuyện đã qua, đã cũ, nghĩ lại chỉ thêm đau lòng.
Với chỉ vài nét vẽ nhưng dường như Thôi Hiệu đã rất khéo léo trong việc làm toát lên tâm tư, tình cảm đang chồng chất, nặng nề ở trong trái tim. Một tâm sự u uất thầm kín cho chuyện nhân tình thế thái.
Hai câu luận miêu tả thật tinh tế khung cảnh thiên nhiên đẹp nhưng buồn của lầu Hoàng Hạc hôm nay:
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.
Hán Dương và Anh vũ đều là những địa điểm của Lầu Hoàng Hạc. Với hai nét vẽ thiên nhiên gợi nên cảnh cỏ non xanh và sông phẳng lặng. Đến thiên nhiên cũng cô lieu và hoang vắng như thế này càng khiến cho con người ta buồn thêm buồn, sầu thêm sầu. Đó chính là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc, lấy xa để nói gần rất thi vị của Thôi Hiệu.
Có lẽ hai câu kết khiến cho người đọc thấy xót xa và nuối tiếc nhất, tình cảm trong lòng tác giả bỗng nhiên trỗi dậy mãnh liệtà:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói song cho buồn lòng ai
Màu sắc cổ điển của thơ Đường bao trùm lấy hai câu thơ này, tạo cho nó một vẻ đẹp cô lieu đến não lòng. Nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương đang trào lên trong lòng của tác giả. Không biết songs trên con sông Trường Giang hay song đang cuồn cuộn trong lòng của tác giả nữa. CHúng ta đã bắt gặp hình ảnh song lòng trong thơ của Thâm Tâm:
Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng song ở trong lòng.
NHịp thơ bỗng nhiên dãn ra, đều đều nhưng lại cứa vào lòng người đọc nỗi nhớ nhà,, nhớ quê hương da diết.
Có thể nói chỉ với bài thơ “HOàng Hạc lâu”, Thôi Hiệu đã khiến cho thơ Đường Trung Hoa có một bước tiến mới trong phong cách sang tác với những đột phá phi thường. Hoàng Hạc lâu là bài thơ khiến cho người đọc trăn trở về những cảm xúc rất thật của chính tác giả.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 10 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư