Lần đầu tiên gặp Lê Lợi ở Lỗi Giang, Nguyễn Trãi đã trao cho Lê Lợi bản Bình Ngô sách. Đó là một kế hoạch diệt giặc cứu nước đã được Nguyễn Trãi nghiên cứu tường tận và ôm ấp từ lâu, nay mới gặp được minh chủ để hiến dâng. Theo bài tựa của Ngô Thì Vinh trong Ức Trai di tập thì, Nguyễn Trãi "không nói đến việc đánh thành" mà chỉ chú trọng "việc đánh vào lòng người". Đánh vào lòng người có nghĩa là phải dựa vào lòng dân, là phát động sức mạnh tiềm tàng vô địch của nhân dân.
Đó là nội dung tư tưởng cơ bản của Bình Ngô sách và cũng là phương châm chính trị cơ bản của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. "Đánh vào lòng người" là dùng chính trị để tranh thủ lòng dân, thi hành các chính sách nhằm giác ngộ, thức tỉnh nhân dân, làm cho họ hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn, hành động của kẻ thù, đứng lên cầm vũ khí đánh đuổi chúng, giành lại độc lập cho đất nước. Công việc này vào những năm thứ mười, hai mươi của thế kỷ XV là công việc tương đối khó khăn vì lúc đó, quân Minh đã dựng ra trên toàn bộ lãnh thổ Đại Việt một nền đô hộ tương đối ổn định. Nhưng Nguyễn Trãi tin rằng, đó là việc có thể làm được.
Thực tế lịch sử đã chứng minh, Lê Lợi và Nguyễn Trãi thành công rực rỡ trong việc thực hiện chiến lược đánh vào lòng người.
Từ tháng 9 năm Giáp Thìn (1424), sau trận tập kích thành Đa Căng trên đường tiến vào Nghệ An, nghĩa quân Lam Sơn càng đánh càng thắng lợi. Đại bại ở Đa Căng, quân Minh phải rút về Tây Đô. Trong trận đó, nghĩa quân Lam Sơn bắt được nhiều vợ con quân địch, nhưng đều tha cho về nhà làm ăn, khiến danh tiếng của nghĩa quân lại càng vang dậy.
Được nhân dân tích cực ủng hộ, nghĩa quân Lam Sơn tiếp tục giải phóng châu Trà Long (sau là phủ Trà Lân) thuộc Nghệ An. Viên quan giữ Trà Long là Cầm Bành phải mang quân bản bộ ra hàng. Lê Lợi hạ lệnh cho quân sĩ: "Đầu sỏ của giặc đã ra hàng, mảy may không được xâm phạm. Không kể tội lớn nhỏ, đều tha hết".
Ngày 25 tháng Giêng năm Ất Tỵ (1425), khi nghĩa quân tiến vào Nghệ An, Lê Lợi ra lệnh cho tướng sĩ: "Dân ta khốn khổ vì giặc đã lâu, phàm đến châu huyện nào mảy may không được xâm phạm". Lam Sơn thực lục cho biết, sau khi lệnh trên được thi hành, "nhân dân chẳng ai là không vui mừng, tranh nhau đem trâu, rượu ra đón khao dùng vào quân dụng".
Khi nghĩa quân Lam Sơn cho một bộ phận đột nhiên quay trở lại đánh úp Tây Đô, là nơi sơ hở nhất của giặc lúc bấy giờ, thì nhân dân Thanh Hóa đều thi nhau đến cửa quân, xin hăng hái ra sức để mưu báo đền (Lam Sơn thực lục).
Đến năm Bính Ngọ (1426), Lê Lợi đem quân tiến ra Bắc và sau đó giành được những chiến thắng vang dội, làm nức lòng người. Ở Bắc lúc này, quân Minh ít nhất cũng có mười vạn, ở Đông Đô còn đến vài ba vạn. Trong khi đó, các danh tướng của Lê Lợi là Lê Triện, Lê Nhân Chú, Lê Lễ đem quân vào sâu căn cứ địch để đánh địch chỉ có khoảng năm, sáu nghìn quân. Để chiến thắng địch, nghĩa quân phải dựa vào dân. Ở nhiều nơi, nhân dân đã chủ động kết hợp với các mũi tiến quân của nghĩa quân để đánh giặc.
Trận Tốt Động và Ninh Kiều xảy ra vào cuối năm 1426 là một minh chứng cho sự kết hợp chiến đấu tài tình giữa nghĩa quân và các tầng lớp nhân dân. Lực lượng của quân Minh rất đông, gấp 15, 16 lần lực lượng của nghĩa quân Lam Sơn. Nhưng khi trận phục kích quy mô ở Tốt Động và Ninh Kiều xảy ra, nghĩa quân lại chém được bọn Trần Hiệp, Lý Lượng và năm vạn đầu giặc, bọn Vương Thông, Mã Anh, Sơn Thọ hoảng sợ phải chạy vào thành Đông Đô. Thừa thắng, các tướng Lê Triện, Lê Bí, Lê Khả đem quân đuổi theo Vương Thông và tiến sát đến thành Đông Đô để bao vây.
Lam Sơn thực lục cho biết, khi tiến ra Bắc, nghĩa quân Lam Sơn được nhân dân các lộ Đông Kinh cùng phiên trấn các xứ hân hoan, tranh nhau đem bò, dê, lương thực đến để khao tướng sĩ.
Cuối năm 1426, khi Lê Lợi tiến ra vây thành Đông Đô thì phong trào nhân dân ngày càng lớn mạnh: "Vua đến Đông Đô, trong ba ngày đầu, nhân dân kinh lộ và các phủ châu huyện cùng các tù trưởng ở biên trấn đều tấp nập đến cửa quân, xin ra sức liều chết để đánh thành giặc các nơi". Đánh giặc cứu nước lúc này không chỉ là công việc riêng của quân chủ lực, mà còn là công việc chung, của đông đảo nhân dân.
Chiến lược quân sự "đánh vào lòng người" của Lê Lợi và Nguyễn Trãi không chỉ đối với người dân Đại Việt, động viên nhân dân nhất tề đứng lên kháng chiến chống giặc, mà còn kéo cả quân Minh ngả theo nghĩa quân Lam Sơn, chống lại vua quan nhà Minh.
Nguyễn Trãi đã đem tình hình bên trong nước Đại Minh và những khó khăn mà triều Minh đang vấp phải, nói cho tướng sĩ họ biết. Trong thư gửi cho Đô đốc Thái Phúc, trấn thủ thành Nghệ An, Nguyễn Trãi viết: "Hiện ở quý quốc, bên trong có cái vạ tiêu tường, bên ngoài còn lo Bắc khấu, nắng lụt tiếp nhau, yêu nghiệt đến mãi, đại thần lấn át, cả nước chia lìa, trời làm táng vong chẳng sớm thì muộn. Kẻ sĩ minh triết nên sớm biết cơ màu... Nay kế hay của ông chẳng gì bằng thuận theo cảnh mình gặp, nghe theo mệnh trời, nhân thời cơ này dựng nên công nghiệp, khiến cho ta may được thoát khỏi lầm than mà công nghiệp lớn lao của ông được rạng rỡ trong sử xanh, há chẳng hay ư?".
Lời lẽ của Nguyễn Trãi đã thuyết phục được Thái Phúc. Tháng 2 năm 1247, Thái Phúc đã mở thành Nghệ An đem toàn bộ quân Minh có đến mấy vạn người ra hàng nghĩa quân Lam Sơn.
Thái Phúc đầu hàng nghĩa quân Lam Sơn không phải vì ông hèn nhát, tham sống sợ chết, mà chính vì những lời lẽ hợp tình, hợp lý của Nguyễn Trãi. Đầu năm 1428, khi Vương Thông kéo quân về nước, Lê Lợi và Nguyễn Trãi có mời họ Thái ở lại Đại Việt làm quan nhà Lê, nhưng Thái Phúc đã từ chối, cương quyết theo Vương Thông về nước. Đến kinh đô, Thái Phúc đã bị vua Minh hạ ngục và bị giết chết. Vua Lê Lợi và nhân dân Đại Việt rất thương tiếc lập ngay đền (đền Tuyên Nghĩa) thờ Thái Phúc ở Rú Thành, Nghệ An, nơi ông đã quyết định đứng về phía nhân dân Đại Việt.
Bản thân Nguyễn Trãi đã năm lần vào thành địch để dụ địch đầu hàng. Trong bài "Biểu tạ ân của Giám nghị đại phu tri tam quán sự", chính Nguyễn Trãi cho biết, ông đã đích thân vào thành Đông Quan khuyên Vương Thông sớm đầu hàng: "Miệng hổ lăn mình, quyết nghị hòa mà hai nước can qua đều nghỉ".
Chiến lược đánh vào lòng người còn có thể gọi là đường lối địch vận của Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã đem lại kết quả to lớn chưa từng thấy trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Các thành như Nghệ An, Điêu Diêu, Thị Cầu, Diễn Châu, Tây Đô, Chí Linh, Tam Giang, Tân Bình, Thuận Hóa, Đông Quan... đều được giải phóng bằng đường lối địch vận do các lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn vạch ra. Nghĩa quân chỉ phải mang lực lượng công thành trước sau có hai lần: Lần thứ nhất đánh thành Khâu Ôn, lần thứ hai đánh thành Xương Giang.
Cuối năm 1427, nghĩa quân Lam Sơn đã ở vào thế hoàn toàn có thể áp đảo được bảy, tám vạn quân Minh ở Đông Quan. Các tướng sĩ muốn đánh Đông Quan để giết hết quân xâm lược cho hả giận. Nhưng lúc ấy "có hành khiển Nguyễn Trãi ở nơi màn trướng biết rõ chỗ mạnh yếu của giặc, nên mới chuyên chú về mặt nghị hòa" (Đại Việt sử ký toàn thư).
Nguyễn Trãi tâu với Lê Lợi: Nếu đánh thành để trả thù vào lúc này thì đó không phải là việc khó khăn, nhưng như vậy nhà Minh tất phải trả thù, "chi bằng nên thừa lúc kẻ thù lâm vào thế cùng mà cùng họ hòa hiếu để tạo phúc cho sinh linh cả hai nước". Lê Lợi cho là phải.
Ông giải thích cho các tướng sĩ: "Phục thù báo oán là thường tình của mọi người, nhưng không muốn giết người là hảo tâm của bậc nhân đức. Vả lại, người ta đã hàng mà mình giết đi thì chẳng còn gì ghê gớm hơn việc làm không lành ấy. Nếu vì hả giận trong chốc lát mà để muôn đời mang tiếng giết kẻ đã hàng, thì chi bằng cho muôn vạn người được toàn tính mạng để dập tắt mối chiến tranh về sau, sử xanh ghi chép nghìn thuở còn thơm, há chẳng tốt đẹp sao?".
Lê Lợi lại nói thêm với các tướng sĩ: "Cho bọn Vương Thông trở về nói với vua Minh trả lại đất cho ta, không xâm phạm bờ cõi của ta, đó là điều ta cần. Hà tất phải giết bọn chúng để gây oán với nước lớn làm gì?" (Đại Việt thông sử - Lê Quý Đôn).
Chiến tranh giữa nhà Minh và Đại Việt chấm dứt, nhân dân hai nước "thoát được cái khổ can qua". Để có được thắng lợi đó, một trong những tác nhân chủ yếu là chiến lược quân sự đặc sắc "Đánh vào lòng người" của Lê Lợi và Nguyễn Trãi.