LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích đoạn trích Cảnh ngày xuân của Nguyễn Du

2 trả lời
Hỏi chi tiết
1.666
0
2
CenaZero♡
01/08/2017 01:34:02
Đề bài: Phân tích - Bình luận đoạn trích Cảnh ngày xuân trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
Bài làm
Đây là một đoạn tả cảnh trong khuôn viên một tác phẩm tự sự lớn bằng thơ. Tả cảnh trong điều kiện ấy thường phải gắn với nhân vật, đấy là chưa nói tả cảnh ngụ tình là nguyên tắc của thơ xưa. Trong những trường hợp phổ biến ấy, cảnh được nhìn từ tâm trạng, thông qua tâm trạng, ỡ đó có sự khúc xạ-buồn vui theo kieu "Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu - Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Trích đoạn có tiêu đề Cảnh ngày xuân một mặt không nằm ngoài đường biên quy phạm ấy, nhưng một mặt có sự bứt phá để tự nó tạo hình một bức tranh riêng. Sự phan cảnh vì thế khá rõ rệt: cảnh mùa xuân, rồi cảnh lễ hội, cảnh ra về khi lẻ hội đã tan. Cảnh trong thơ như thế là bám vào mạch thời gian, một cách nhìn theo chiều dọc, theo diễn biến tự nhiên, nhưng nếu cắt theo chiều ngang thì mỗi bước đi của thời gian ấy có một cái gì trọng đại, thậm chí là dấu ấn đầu dời của ai đó ớ cái tuổi cài trâm (cập kê) một đi không trở lại.

Hãy đi vào cánh thứ nhất : cảnh mùa xuân. Cảnh mùa xuân hiện ra bằng bốn câu thơ nhưng hoàn toàn không cùng nằm trên một mặt bằng cảm nghĩ. Hai câu dặc tả cảnh thiên nhiên là ở cặp câu lục bát thứ hai "Cỏ non...", còn cặp câu trước đó chỉ là chuyển cảnh. Nếu từ cặp câu "Cỏ non..." ta nhận ra một cái nhìn không gian thì trước đó là cái nhìn thời gian về "Ngày xuân con én...". Một khi đã xác định sự khác nhau, ở cấp độ trường nhìn thì sẽ không nhầm lẫn nữa. Chẳng hạn không nên hiểu "con én đưa thoi" là những cánh chim én có thật vẫn rộn ràng bay lượn giữa bầu trời trong sáng. "Con én" chỉ nên hiểu là con thoi. Thời gian đi rất nhanh, với mùa xuân, với cái nhìn của tuổi trỏ, nó càng nhanh vì tuổi trẻ và mùa xuân là cơ hội một lần. Cái nhìn của nhà thơ thấm đẫm tàm lí của người trong cuộc. Bới thế mới thấy nhanh (chủ quan hoá khách quan - ngày mùa xuân cũng 24 giờ như ngày mùa hạ...) và thấy tiếc : "Thiều quang chín chục dã ngoài sáu mươi". Sau này, khi "cái tôi" của nhà thơ nói chung không còn bị ràng buộc nữa (ví dụ như vào đạo lí, vào kỉ cương), Xuân Diệu cũng một tâm trạng ấy, tuy cách nói có "mới" hơn : "Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân". Nhớ mùa xuân ngay trong mùa xuân tướng là một điều nghịch lí nhưng nó có thật trong tâm trạng con người tuổi trẻ mọi thời.
Sáu mươi" trên "chín chục", hơn thế "đã ngoài" trái ngon ngọt mùa xuân đã đi hết hai phần, sốt ruột biết bao! Do sự tiết chế ngôn từ, cũng là do tư cách của người kể chuyện, Nguyễn Du không thể kêu lên "Nhanh với chứ, vội vàng lên với chứ" như Xuân Diệu sau ông. Ngay trong Truyện Kiêu, thời gian nói chung là đi rất nhanh nhưng mỗi lần một khác, không lần nào giống lần nào. "Sen tàn cúc lại nở hoa - Sầu dài ngày ngắn, đông đã sang xuân" thì đâu phải là chậm. Nhưng đó là cái khắc khoải đợi trông cái gì chưa đến. Còn ở đây mùa xuân dang hiện diện :
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Hai câu thơ tả cảnh mùa xuân này thật là tuyệt bút, nếu đặt nó trong vườn thơ trung đại "Thì treo giải nhất chi nhường cho ai". Có hai cách nhìn vé bức tranh ấy. Cái nhìn thứ nhất của người khách qua dường, của con mắt "thế nhân" : Thảm cỏ xanh quá, nó làm nển cho bức tranh xuân. Trên cái nền kia, điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng. Màu sắc tuyệt diệu hài hoà. Cách nhìn thứ hai của người tri kỉ : chỉ cẩn một nét vẽ đó thôi, câu thơ đã có gì ngơ ngác trước một màu xanh, đúng ra là một biển xanh, mênh mông độ rộng. Từ hiện thực Nguyễn Du đã gia công, đã tái tạo hiện thực, đã thổi vào đó ngọn gió vô hình của tâm linh để tạo ra sự sống. Hàn Mặc Tử sau Nguyễn Du có nói đến "sóng cỏ" chính là một cái nhìn đồng tâm trạng với Nguyễn Du ("Sóng cỏ xanh tươi gọn tới trời"). Đó là cái hay toàn khối được tách ra từ cội, từ cành, khi chúng ta cầm trên tay một chiếc lá đơn sơ mà thẫn thờ nhìn ngắm. Sau đó mới đến cái hay của sự hội nhập với "cành lê trắng điếm...". Cái tài cũng là cái tình của Nguyễn Du ở dây là đảo ngược một cách dùng từ thông dụng : biến "điểm trắng" thành "trắng điểm". Chỉ thay đổi một chút đó thôi, công việc đơn giản mà ngoài Nguyễn Du, không ai làm được. Trong sáng tạo thơ ca, người ta có thể "chết" vì một từ mà "sống" cũng vì một từ là thế. Nếu viết "điểm trắng" thì không sai, ý thơ, âm điệu thơ không hể thay đổi. Nhưng đó là cách viết "non tay", cách vẽ tranh của nghệ nhân bắt chước mà chưa có cái "thần". Viết "trắng điểm" tạo nên yếu tố bất ngờ, cành lê như đem vào màu trắng, màu sắc của sự tinh khôi bằng bàn tay vô hình của tạo hoá. Nó đang chăm chút tô điểm, không cầu kì trau chuốt mà rất ý nhị, tinh vi. "Điểm" ở đây là điểm xuyết, nghĩa là thêm vào, chí một chút thôi mà gương mặt của cành lê tưởng không còn là chính nó. "Trắng điểm" và "điểm trắng" chỉ hơn nhau một sự lung linh nho nhỏ mà đã là hai thế giới rất xa nhau. Đọc hai câu tuyệt bút của Nguyễn Du, tuy không tả mặt biển mà ta cứ như dập dờn say giữa những con sóng đung dưa cỏ xanh hoa trắng.
Mùa xuân đối với một năm giống như bông hoa phong nhuỵ mơ màng, ấp ủ biết bao, hi vọng biết bao, nó là một nụ cười chúm chím, một thứ "hương thầm”.
Tám câu thơ tiếp nối là khung cảnh lẻ hội "Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh". Cặp câu lục bát mở đầu (giống như cấu tứ toàn đoạn), đó là lời dẫn. Hai câu này không có dụng công như hai câu "Ngày xuân..." đã được phân tích ở trên. Một ngọn gió lướt đi và đây là những cái gì đã đến :
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Đọc qua, tưởng như hai câu thơ kể việc, vì yếu tố này không phải không có : hành trang, phương tiện đi đường, có chị có em. Nhưng không phải. Việc chuẩn bị tất nhiên không thể không làm, nhưng đó là những chất liệu sinh hoạt đời thường chứ không phải chất liệu của thơ. Điều đáng kể nhất là niềm vui tíu tít, rộn ràng, một hạnh phúc lớn lao chưa từng có của những chị, những em đi dạ hội lần đầu giữa một mùa xuân kép : xuân của thiên nhiên, xuân của lòng người. Được hoà vào cái không khí đặc trưng "nô nức yến anh", việc "sắm sửa" của mấy chị em cũng là ngày hội. Tết vốn là vui (vui như tết), nhưng còn vui hơn là ở những người được "sắm sửa" để có câu đối đỏ, bánh chưng xanh... trong những ngày giáp tết. Chưa đến hội, hai chị em như đã mở hội trong lòng, vội vã ngất ngây như lâng lâng bay bổng. Tưởng như không có âm thanh nào ngoài công việc, nhưng tâm hồn họ thì quả thực đang cất tiếng, hát ca. Đó là tính cá thể. Tính cá thể ấy đã không còn khi họ mất hút đi trong "Dập dìu tài tử giai nhân". Đến đây xuất hiện một thứ nghệ thuật khác : nghệ thuật miêu tả đám đông. Tính quần thể của cộng đồng là một thứ chân dung tinh thần : chân dung lễ hội. Không rõ một gương mặt ai, nhưng ai cũng thấy mình trong đó, trong cái phấn khích mà không một ngày nào trong nãm có được. "Lễ" thực ra chỉ là cái cớ, còn "hội" mới là mục đích cuối cùng. "Tro tiền giấy bay" hoặc "Thoi vàng vó rắc" chẳng qua là nghi thức bên ngoài của những kẻ hành hương. Còn tất cả dồn cho sự náo nhiệt của giai nhân, tài tử, ngựa xe, là lượt :
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm.
Lễ hội ấy thực ra năm nào chẳng thế. Nhưng với những con người tuổi trẻ, nó chỉ háo hức đến cuồng nhiệt một lần. Thời gian như dòng chảy trôi xuôi nhưng những ấn tượng mặn mòi làm sao quên được. Những từ láy, lổng trong phép đối hoà nhập hài hoà tạo được những ấn tượng khôn nguôi. Phép đối xứng cũng biến hoá, khi dồn lại giữa tài tử với giai nhân, khi tách giãn ngựa xe với quần áo, nhưng lúc nào cũng hình thành cái thế bè đôi, khi ẩn khi hiện từ sức hút của một ma lực mơ hồ. "Dập dìu" là một từ láy. "Dập dìu" theo nghĩa của từ điển là cùng nhau vui chơi, chỉ đông người tấp nập. Nhưng trong văn cảnh này nó như khúc hát dìu dặt, mau thưa, nghĩa là sự xuống lên theo quy trình của những con sóng nước, nó buông thả một cách hồn nhiên như chịu tác động của một sức hút vô hình sai khiến. Ấy là một cơn say như những người mộng du say trầu, say thuốc, còn ở đây đó là say tình giữa nam và nữ. Họ có được nhau và cùng nhau tận hưởng một niềm khoái lạc tinh thần vừa quý phái vừa rất dỗi hồn nhiên. Đằng sau xiêm áo, ngựa xe là những sự rung động dầu đời cất cánh.
Phải thế chăng, mà sáu câu tả cảnh chị em Thuý Kiều ra về là cái bần thần tiếc nuối "Ngày vui ngắn chẳng tày gang". Hai chữ "thơ thẩn" ở đây có sức gợi rất hay.
Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
"Dan tay" tưởng là vui, nhưng thực ra là sự đồng cảm sẻ chia cái buồn không biết nói. Nó hợp với khung cảnh ánh sáng nhạt nhoà "Mặt trời gác núi chiêng đà thu không". Lặng dần xuống, tan dần đi cái háo hức mê say của một ngày, của một thời không hoàn toàn là trẻ dại nữa. Nó bâng khuâng, man mác xiết bao. Bốn câu tiếp theo là sự khơi gợi tâm tình với những trái tim đa cảm :
Bước dần theo ngọn tiều khê,
Lần xem phong cảnh có bê thanh thanh.
Phút dịu êm của cảnh vật tạm lấp dần khoảng trống rất khó nguôi vơi của nỗi buồn tiếc nuối. Vừa khép lại vừa mờ ra từ dòng nước, nhịp cầu một tâm trạng chênh vênh. "Nao nao dòng nước uốn quanh". Dòng nước tâm tình chia sẻ ấy, nhịp cầu nên thơ như giấc mộng hiện lên ấy ru vỗ lòng người làm dịu lại cái xôn xao từ ngày hội bước ra. "Nao nao" diễn tả sự xúc động đến rưng rưng "Thiệt lòng mình cũng nao nao lòng người" (Truyện Kiều). Đó vừa là dư âm của cái đã qua, vừa là sự lấy đà chuyên sang một tâm trạng mới : gặp nấm mộ Đạm Tiên. Tả cảnh, tả tình như thế là khéo, chuyến ý như thế là rất tinh tế, tự nhiên. Người đọc luôn luôn có cảm giác đi trên một dòng sông, nhưng mỗi khúc, mỗi chặng đường một khác. Chuyện thơ vừa khắc sâu, vừa nuôi dưỡng hứng thú người đọc như thế là không dễ xưa nay, nhất là với tác phẩm Truyện Kiều cách chúng ta hai trăm năm có lẻ.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
1
NoName.104803
08/11/2017 16:53:35
Trong thơ xưa, thiên nhiên không chỉ là trung tâm của cái đẹp mà còn là nơi gửi gắm tâm tình của con người. Và trong “Truyện Kiều” bất hủ đại thi hào Nguyễn Du đã dành tới 222 câu thơ miêu tả cảnh thiên nhiên. Trong đó  đoạn trích ” cảnh ngày xuân” có thể coi là một bức tranh đẹp vào loại bậc nhất của “Truyên Kiều”. Chỉ với 18 câu thơ hàm súc, Nguyễn Du đã gieo vào lòng người đọc sức sống tràn trề của mùa xuân. Đồng thời, giúp ta nhận được sự tinh tế trong bút pháp miêu tả giàu chất tạo hình của Nguyễn Du.

Đoạn thơ đã mở ra trước mắt ta một khung cảnh mùa xuân trong tiết thanh minh, qua bốn câu thơ đầu:

” Ngày xuân con én đưa thoi

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi

Cỏ non xanh tận chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

Nguyễn Du vẽ lên bức tranh xuân thật đẹp, đặc biệt nhà thơ đã lựa chọn chi tiết tiêu biểu mang nét đặc trưng của ngày xuân để khắc họa bức tranh ấy. Đọc hai câu thơ đầu, ta cảm nhận được cách tính thời gian khá độc đáo, nghệ thuật miêu tả ước lệ bộc lộ rõ đã tái hiện hình ảnh báo hiệu mùa xuân ” chim én”, ” thiều quang”  gợi sự ấm áp, dịu dàng, khẳng định mùa xuân đang ở độ đẹp nhất, chín nhất, sung mãn nhất. Qua đó câu thơ thứ hai đã chỉ rõ ngày xuân trôi qua nhanh như con thoi dệt cửa, đã qua tháng giêng, tháng hai, bây giờ là tháng ba, tiết trời trong xanh, những con én rộn ràng chao liệng như nhịp thoi đưa trên bầu trời, gợi ra một không gian, thoáng đãng cao rộng gợi lên nhịp trôi chảy của thời gian và nhịp điệu sôi động của mùa xuân, đồng thời còn tỏ ý tiếc nuối thời gian trôi quá nhanh của Nguyễn Du, để rồi, thiên nhiên đẹp hơn bởi sắc “xanh” của cỏ non, sắc ” trắng” của ” một vài bông hoa” lác đác.

” Cỏ non  xanh tận chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”

Đây mới thực sự là bức tranh tuyệt mĩ. Tác giả sử dụng biện pháp chấm phá tái hiện bức tranh xuân tươi tắn, sống động gợi liên tưởng về sự sinh sôi nảy mở. Màu xanh của cỏ non gợi sức sống mạnh mẽ, bất diệt, không gian mênh mông, thoáng đạt, trong trẻo. Trên nền xanh ấy có điểm xuyến một vài bông hoa lê trắng. Văn cổ thi Trung Quốc được Nguyễn Du học tập một cách sáng tạo ” Phương thảo niên bích/ Lê chi sổ điểm hoa”. Nếu hai câu thơ Trung Quốc dùng hình ảnh ” phương thảo” ( cỏ thơm) thiên về mùi vị thì Nguyễn Du thay bằng ” cỏ non” thiên về màu sắc: màu xanh nhạt pha với màu vàng chanh tươi thắm hợp với màu xanh lam của nền trời làm thành gam nền cho bức tranh. Trên đó điểm xuyến sắc trắng thanh khiết, tinh khôi của hoa lê tạo thành bức tranh đẹp hài hòa, tươi mát, mới mẻ. Chữ ” trắng” được Nguyễn Du thêm vào và đảo lên trước càng gây ấn tượng mạnh, Chữ  ” điểm” làm cho cảnh vật trở nên có hồn, sinh động chứ không tĩnh lại hay gợi lên bàn tay họa sĩ – thi sĩ vẽ lên thơ lên họa như bàn tay tạo hóa điểm tô cảnh xuân tươi khiến cho bức tranh càng trở nên sinh động. Ngòi bút của Nguyễn Du tài hoa, nghệ thuật phối sắc tài tình, giàu chất tạo hình ngôn ngữ biểu cảm, gợi tả thể hiện tâm hồn người tươi vui, phấn chấn qua cái nhìn thiên nhiên trong trẻo hồn nhiên, nhạy cảm tha thiết với vẻ đẹp thiên nhiên. Bốn câu thơ lục bát nhẹ nhàng – một không gian thoáng đãng mà ấm áp của mùa xuân, một màu sắc tinh khôi mãi để lại dấu ấn trong lòng độc giả.

Mùa xuân là mùa khởi đầu trong một năm là mùa cây cối đâm chồi nảy lộc, tâm hồn con người phơi phới, mùa xuân cũng là mùa có nhiều lễ hội diễn ra nhiều nhất, trong thơ của Nguyễn Du, đó là khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh, tám câu thơ tiếp theo tả cảnh trảy hội tưng bừng, náo nhiệt:

” Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh”

Tác giả đã đưa ta về với lễ nghi phong tục tập quán của người phương Đông, lễ tảo mộ là hướng về cội nguồn, tổ tiên, truyền thống văn hóa tâm linh tri ân với quá khứ. Đi tảo mộ là đi sửa sang, thắp hương để tưởng nhớ người đã khuất, Còn ” hội đạp thanh” là cuộc du xuân là cuộc vui chơi trên đồng cỏ xanh của những trai tài, gái sắc, nam thanh nữ tú, hội đạp thanh còn là cuộc sống hiện tại và có thể tìm đến những sợi tơ hồng cho mai sau. Ở bốn câu thơ tiếp theo, tác giả đã gợi tả không khí lễ hội bằng một loạt các từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm như từ láy ” nô nức”, ” dập dìu”  ” sắm sửa” và từ ghép, từ Hán Việt: “tài tử”, ” giai nhân”, “bộ hành”, “ngựa xe” ” gần xa”, ” yến anh” kết hợp với các biện pháp nghệ thuật như ẩn dụ, so sánh đã khắc họa thật sinh động cảnh đông vui, tưng bừng, náo nhiệt đang diễn ra ở khắp nơi nơi mọi miền đất nước.

” Dập dìu tài tử giai nhân”

Ngựa xe như nước áo quần như nêm”

Lễ thanh minh – lễ hội điển hình vào tháng ba, từng đôi lứa ” tài tử giai nhân” ” dập dìu” du xuân, gặp gỡ hò hẹn. Trong dòng người “nô nức” đó có ba chị em Thúy Kiều cũng sắm sửa hòa nhập vào cái đẹp, cái tưng bừng của tuổi trẻ. Hình ảnh so sánh thật giản dị ” ngựa xe như nước, áo quần như nêm”, gợi tả không khí náo nức của lễ hội, từng đoàn người nhộn nhịp đi chơi xuân trong bộ áo quần đẹp đẽ, tươi thắm màu sắc, họ như từng đàn chim én, chim hoàng anh ríu rít bay về hội tụ trong lễ hội. Tác giả còn miêu tả  một nét đẹp của nền văn hóa lâu đời của Việt nam chúng ta trong ngày Tết thanh minh. Đó là sắc thoi vàng, đốt giấy tiền để tưởng nhớ người thân đã khuất:

” Ngổn ngang gò đống kéo lên

Thoi vàng vó sắc tro tiền giấy bay”

Nhịp điệu thơ 2/4 và 4/4 thoáng ra một nét buồn. Phải chăng đó là trái tim đầy tình thương sẻ chia của đại thi hào Nguyễn Du đối với những người đã khuất. Cái tâm thánh thiện, niềm tin phác thực dân gian, đầy ắp nghĩa tình. Dưới ngòi bút miêu tả tinh tế của nhà thơ, lễ và hội trong tiết thanh minh là một sư giao hòa độc đáo, chứng tỏ nhà thơ rất trân trọng vẻ đẹp và giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc.

Nếu như những dòng thơ trên phác họa khung cảnh nhộn nhịp, đông vui của lễ hội thì sáu câu thơ cuối tạo nên một nhịp điệu trữ tình man mác buồn theo từng bước chân của chị em Thúy Kiều:

“Tà tà bóng ngả về tây,

Chị em thơ thẩn dạng tay ra về

Bước dần theo ngọn tiểu khê

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh

Nao nao dòng nước uốc quanh

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”

Hội tan sao chẳng buồn? có thể nói sáu câu trên đã diễn tả sâu sắc cảnh chị em Thúy Kiều trên đường trở về với một khung cảnh yên ả, dường như đối lập với cảnh lễ hội lúc trước. Cảnh mang nét thanh thanh, dìu dịu của buổi chiều xuân với nắng nhạt, khe nước nhỏ, nhịp cầu bắc ngang như nhuộm màu tâm trạng. Bóng dương đã chênh chếch xế tà, ” tà tà” bóng ngả về tây” nhưng đây không phải là hoàng hôn của cảnh vật mà dường như con người cũng chìm vào cảm giác bâng khuâng, khó tả. Buổi chiều tà thường gợi lên một cảm giác buồn khó tả. Ở đây, cuộc vui đã tàn, lễ hội tưng bừng náo nhiệt đã hết, tâm hồn con người cũng ” chuyển điệu” cùng cảnh vật, Dưới cái tài miêu tả của Nguyễn Du, không khí lễ hội lúc tan không ảm đạm, buồn bã mà có phần thanh ịu, lặng lẽ mơ mộng, không gian thu hẹp lại, thời gian trôi chậm hơn, cảnh vật như nhạt dần, nhạt dần, lặng lẽ theo bước chân thơ thẩn trên dặm đường về, phảng phất nỗi tiếc nuối, lưu luyến của lòng người. Mọi chuyển động nhẹ nhàng đều đều thể hiện qua tâm trạng giai nhân đa sầu, đa cảm bằng hàng loạt các từ láy ” tà tà”, ” thanh thanh”, ” nao nao” ” nho nhỏ” vừa gợi tả cảnh, vừa gợi tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến từ dư âm ngày vui xuân vừa như đã dự báo, linh cảm về điều sắp xảy ra trong tâm hồn nhạy cảm của Thúy Kiều. Và đúng như vậy, Thúy Kiều  đã gặp nấm mồ bất hạnh ” Đạm Tiên”  – một ca nhi tài sắc mà mệnh yểu  và cả sự ngẫu nhiên gặp chàng nho sinh ” phong tư tài mạo tót vời”- Kim Trọng, để rồi ” tình trong như đã mặt ngoài còn e” như một định mệnh tiền duyên, rõ ràng cảnh đã nhuốm màu tâm trạng của nhân vật. Như vậy sáu câu thơ cuối của đoạn trích với việc sử dụng từ láy đặc biệt là bút pháp tả cảnh ngụ tình- cảnh gắn với tình – cảnh tình tương hợp đã làm cho lòng người hòa vào cảnh vật như đang lắng lại cùng cảnh vật. Từ đó, ta thấy được tâm trạng nhạy cảm cùng niềm vui cuộc sống của tác giả.

Tóm lại, bằng cách sử dụng hệ thống từ ghép, từ láy giàu chất tạo hình, giàu sức gợi tả, đoạn trích ” cảnh ngày xuân” xứng đáng là bức tranh đẹp vào loại bậc nhất, tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm ” Truyện Kiều”. Đồng thời, với cây bút miêu tả thiên nhiên tài tình của Nguyễn Du, cảnh vật hiện lên tươi đẹp, trong sáng và còn nhuộm màu tâm trạng, đây là yếu tố tạo nên thành công của đoạn trích và đưa tên tuổi của đại thi hào Nguyễn Du đến gần với bạn đọc khắp năm châu ở mọi thếkỷ.

Từ khóa tìm kiếm:

cảnh ngày xuân truyện kiều, cảnh ngày xuân và kiều ở lầu ngưng bích, bài cảnh ngày xuân, bài cảnh ngày xuân ngữ văn 9, bài cảnh ngày xuân lớp 9, bài cảnh ngày xuân của nguyễn du, cảm nhận bài cảnh ngày xuân, bài thơ cảnh ngày xuân của nguyễn du, đoạn trích cảnh ngày xuân của nguyễn du, bài thơ cảnh ngày xuân nguyễn du, đoạn trích cảnh ngày xuân trong truyện kiều, cảnh ngày xuân học văn lớp 9, miêu tả cảnh ngày xuân trong truyện kiều.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư