LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phát biểu cảm nghĩ về bài Qua đèo ngang

2 trả lời
Hỏi chi tiết
285
1
1
mỹ hoa
25/12/2018 20:51:47
Trong nền văn học trung đại Việt Nam, ngoài những nhà thơ nam tiêu biểu làm nên sự phong phú, giàu có của nền văn học Việt Nam thì còn có sự góp mặt của hai nữ thi sĩ, đó là bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương và Bà Huyện Thanh Quan. Hai nữ thi sĩ này là những cây bút xuất sắc, để lại rất nhiều tác phẩm hay và có giá trị. Nếu ở Hồ Xuân Hương ta luôn thấy được một cái tôi cá tính, sắc sảo khi đả kích, châm biếm trực diện đối với xã hội và những người của giai cấp thống trị thì Bà Huyện Thanh Quan lại mang một chuẩn mực, khuôn mẫu của một nữ sĩ tài hoa. Trong đó, bài thơ “Qua đèo ngang” là một tác phẩm điển hình cho sự nhẹ nhàng và mẫu mực trong thơ của bà.
“Qua đèo ngang” là bài thơ viết về tình yêu dành cho quê hương, đất nước cũng như sự dãi bày một cách chân thành, xúc động tâm trạng thương nhớ, u buồn của nhân vật trữ tình khi nhớ về quê hương của mình, mà ở đây chính là Bà Huyện Thanh Quan viết về mình. Theo dòng chảy xuôi của cảm xúc, Bà Huyện Thanh Quan đã đi từ khung cảnh thiên nhiên, đất trời – cái nhân tố tác động đến tâm trạng, ngọn nguồn khơi gợi nỗi nhớ trong con người xa quê. Qua khung cảnh đó, nhà thơ tiếp tục dãi bày tâm trạng thương nhớ cũng sự nỗi cô đơn, lạc lõng của mình giữa nơi đất khách, quê người.
“Bước tới đèo ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa”
Bà Huyện Thanh Quan viết bài thơ này khi đang trên đường vào Huế nhận chức “cung trung giáo tập” – tức là chức quan thực hiện nhiệm vụ dạy nghi lễ cho các phi tần và cung nữ. Đây là mệnh lệnh do nhà vua ban chiếu, vì vậy không thể từ chối mà chỉ có cách thực thi. Ta cũng có thể thấy nữ sĩ tài hoa này rất được trọng dụng, tin tưởng. Trở lại bài thơ, đây chính là khung cảnh, không gian trên đường Bà Huyện Thanh Quan đi nhận chức, “đèo ngang” là tên của một con đèo, cũng là nơi mà tác giả dừng chân nghỉ ngơi lấy sức, chuẩn bị cho cuộc hành trình tiếp theo. Ở đây, không gian của Đèo Ngang được nhà cảm nhận trong khung cảnh “chiều tà”, đây là thời khắc cuối cùng của một ngày, là ranh giới thời gian giữa ngày và đêm.
Nếu ban ngày nhịp sống hối hả, khẩn trương thì khi chiều tà thì cái nhịp sống ấy dường như ngưng đọng lại để nhường không gian cho sự nghỉ ngơi. Chiều tà cũng là thời khắc mà những con người trong gia đình đoàn tụ, xum vầy. Trong không gian rộng, vắng của chiều tà, trong thời khắc gợi nhắc về sự đoàn viên của gia đình ấy, con người xa quê như Bà Huyện Thanh Quan tất yếu cảm nhận được sự hoang vắng trong khung cảnh, cô đơn trong tâm trạng: “Cỏ cây chen đá lá xen hoa”. Nhà thơ đã hiệp vần các từ ngữ như: “đá”, “lá”, “hoa” để diễn tả sự um tùm, khăng khít của những cỏ cây hoa lá, từ đó cũng gợi ra sâu sắc cảm giác rợn ngợp, hoang sơ của không gian.
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”
Điểm nhìn của nữ thi sĩ không chỉ dừng lại ở cảnh vật, mênh không gian mênh mông, choáng ngợp nhưng lại vắng vẻ, đìu hiu ấy. Cái nhìn của nhà thơ còn hướng đến những con người trong nhịp điệu của công việc, của cuộc sống. Đó chính là hình dáng “lom khom” của những người tiều phu, lom khom diễn tả được cái tư thế cần mẫn, chăm chỉ của những người tiều phu với công việc của mình. Trái ngược với không gian rợn ngợp, hoang vắng nơi Đèo Ngang, cũng là nơi nhà thơ đứng, thì không gian mà nhà thơ hướng tầm mắt đến, đó chính là không gian nhỏ hẹp của những con người, của những mái nhà “lác đác”. Từ láy “lác đác” diễn tả được khoảng cách thưa thớt của những mái nhà bên sông. Tuy nhiên, nếu cái không gian rợn ngợp của thiên nhiên khiến cho con người cảm thấy nỗi trống vắng, cô đơn thì không gian nhỏ, hẹp của con người lại khơi dậy mạnh mẽ nỗi nhớ gia đình, quê hương của tác giả.
“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”
Đến câu thơ này, nỗi lòng của nhà thơ được trải ra đầy tha thiết, đối tượng của nỗi nhớ ấy cũng được xác định, đó là nỗi nhớ quê hương “quốc quốc”, và nỗi nhớ gia đình nhỏ của mình “gia gia”. Ở trong câu thơ: “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc”, Bà Huyện Thanh Quan đã mượn một điển tích của Trung Quốc, đó là vua Thục bị mất nước, khi chết hóa thành con cuốc và đêm ngày cất tiếng kêu não nề “cuốc cuốc”. Mượn điển tích cổ này để nói về tâm trạng của mình, nhà thơ đã lột tả được thành công nỗi nhớ thương da diết của mình, nỗi niềm hoài tưởng về quá khứ tươi đẹp của đất nước. Từ nỗi nhớ đất nước, quê hương, nhà thơ hướng nỗi nhớ của mình đến một đối tượng cụ thể hơn nữa, da diết hơn nữa, đó là nỗi nhớ nhà “Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”.
Ở đây, Bà Huyện Thanh Quan đã dùng cách chơi chữ, dùng những hình ảnh, từ ngữ ngỡ như không liên quan nhưng lại gợi nhắc được sâu sắc tâm trạng thực tế của chính nhà thơ. Không gian cô quạnh, lòng người rợn ngợp nỗi nhớ thương, nhưng trong hoàn cảnh hiện tại, nỗi nhớ ấy của nhà thơ không thể dãi bày cùng ai, chỉ biết ấp ôm cho chính mình:
“Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”
Trong cuộc hành trình dài, nhà thơ thể hiện sự lạc quan trong tinh thần, dù là nơi đất khách nhưng với tâm hồn nhạy cảm của một người thi sĩ tài năng, dù không gian có rợn ngợp, hoang vắng nơi Đèo Ngang thì nhà thơ vẫn cảm nhận được vẻ đẹp riêng của địa danh này, cũng như non sông gấm vóc của quê hương “Dừng chân đứng lại trời non nước”. Hòa mình vào thiên nhiên, cảm nhận được cái tươi đpẹ của non nước song nhà thơ vẫn chất chồng những tâm trạng riêng, tuy nhiên những nỗi niềm này nhà thơ chỉ giữ cho riêng mình: “Một mảnh tình riêng ta với ta”
Bằng tình cảm chân thực mà da diết, Bà Huyện Thanh Quan đã thể hiện một cách xúc động tình yêu quê hương, gia đình của mình, đồng thời cũng thể hiện một tâm hồn thơ chất chứa những nỗi buồn da diết, mà nỗi buồn ấy không được nhà thơ thể hiện một cách thái quá, khoa trương mà cứ nhẹ nhàng, da diết ấp ủ cho chính mình. Nhưng chính sự dung dị, nhẹ nhàng ấy lại gợi ra bao nỗi xúc động cho người đọc.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
Quỳnh Anh Đỗ
26/12/2018 07:12:47
Tác phẩm "Qua đèo Ngang" là bài thơ đánh dấu tên tuổi của Bà Huyện Thanh Quan . Bài thơ ra đời vào thời điểm bà trên đường vào Phú Xuân, đi qua đèo Ngang, một con đèo nổi tiếng tiếng với phong cảnh hữu tình. Bằng giọng thơ buồn man mác, hồn thơ tinh tế đi vào lòng người "Qua đèo Ngang" không còn là một bức tranh thiên niên đơn thuần mà còn bộc lộ tâm trạng cô đơn của nữ thi sĩ với sự tiếc nuối và buồn về thế sự đất nước lúc bấy giờ.
Sự sáng tạo nhưng vẫn có nét truyền thống, bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật với kết cấu đề thực luận kết. Mở đầu tứ thơ với hai câu đề:
Bước đến đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Hai câu thơ đầu tiên thi sĩ đã khai mở toàn bộ không gian, thời gian khi sáng tác bài thơ. Hai câu thơ đề với lối thơ rất tự nhiên, không bị gò ép trong khuôn khổ chung thời ấy. Trong cảnh hoàng hôn "bóng xế tà", nữ thi sĩ bước đến mang trong mình những cảm xúc khó tả, say đắm trong không gian rộng lớn sâu thẳm của đèo cao, thời gian mênh mông của trời chiều. Bao giờ cùng vậy, trong thi ca trung đại, "bóng xế tà" luôn gợi cho con người một nỗi buồn man mác không tên, mênh mang hơn đất trời, có chút gì đó lưu luyến thời gian của một ngày đã qua. Trong không gian chiều ấy, một nét chấm phá làm nổi bất thiên nhiên nơi đèo núi chập chùng: "Cỏ cây chen đá, lá chen hoa". Khi hoàng hôn buông dần phai, không gian ngày tàn mà tác giả còn bắt gặp được một sức sống tiềm tàng của thiên nhiên. Sử dụng phép nhân hóa, kết hợp động từ "chen" nữ thi sĩ như thổi vào thiên nhiên một linh hồn với sự sống mãnh liệt, đang vươn lên. Từ ngọn cỏ, từng nhành hoa nhỏ bé kia đang chen lên những tảng đá lớn, giữa một không gian ấy, cảnh vật mang một nét đẹp lạ lùng
Từ gần đến xa, tác giả đưa mắt ra phía dưới đèo, con người xuất hiện:
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Bức tranh chỉ thêm đẹp khi có sự xuất hiện của con người. Biện pháp đảo ngữ các từ láy gợi tả như "lom khom" , "lác đác" và các chỉ từ "vài" , "mấy" làm không gian chở nên hiu hắt, con người thì quá đỗi nhỏ bé so với thiên nhiên hùng vĩ chiều hôm. Dưới chân núi, vài chú tiều phu đốn củi, vài mái nhà thưa thớt quanh quanh. Không gian bao chùm lên toàn bộ cảnh vật là sự hưu quạnh và vắng vẻ.
Hai câu luận là nỗi buồn của thi sĩ trước cảnh giang sơn đất nước đang ngày một lụi tàn:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Tiếng kêu của con quốc hay chính là tiếng lòng tác giả. “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc” là câu thơ bắt nguồn từ điển tích xưa về vua Thục vì mất nước mà hóa thành con cuốc chỉ biết kêu những tiếng đau thường. Tiếng cuốc kêu khắc khoải càng làm bóng chiều trở nên diệu vợi. Còn tiếng “gia gia” là tiếng kêu tha thiết gợi nỗi “thương nhà”. Thương nhà ở đây có lẽ là nỗi nhớ thương đất nước trong quá khứ hào hùng hay cũng là thương cho sự đổi thay, sự lụi tàn của quê hương. Những xúc cảm của thi sĩ được bộc lộ một cách trực tiếp bằng hai câu luận. Nghệ thuật chơi chữ đồng âm độc đáo kết hợp với biện pháp nhân hóa " đau lòng" "mỏi miệng" cùng chuyển đổi cảm giác từ nỗi lòng thành tiếng thương tạo ấn tượng mạnh đã cho ta thấy bức tranh ấy không chỉ là cảnh vật mà còn là bức tranh tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan với tình yêu thương nước nhà.
Với kết cấu đầu cuối tương ứng, hai câu kết khép lại những tâm trạng của thi nhân:
Dừng chân đứng lại: trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Cảnh vật khiến dừng bước chân trên con đường đến Phú Xuân. Cái bao la của đất trời, cái hùng vĩ của núi non, cái mênh mông của sông nước như níu bước chân nữ thi sĩ. Nhưng đứng trước không gian bao la của đèo Ngang , tác giả chợt nhận ra nỗi cô đơn trong lòng mình dần lấp đầy tâm hồn, bao chùm lên mọi cảnh vật“một mảnh tình riêng ta với ta”. Khung cảnh thiên nhiên càng rộng lớn bao nhiêu thì nỗi cô đơn của người lữ khách càng vơi đầy. Một mảnh tình riêng, một tâm tư sâu kín, những tâm trong lòng mà chẳng tìm nổi một người để sẻ chia. Nỗi buồn cứ vậy lắng vào cảnh vật, tâm trạng kéo dài miên man. Chỉ có "ta" và "ta" giữa mênh mông trời đất.
Bài thơ khép lại, mở ra những suy tư cho người đọc. Khiến người ta nhớ về một thời đại lụi tàn, một nữ thi sĩ bơ vơ. Bức tranh cảnh vật và tâm trạng ấy để lại biết bao cảm xúc trong lòng người đọc.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Trắc nghiệm Ngữ văn Lớp 7 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư