Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Soạn bài hạnh phúc của một tang gia

5 trả lời
Hỏi chi tiết
1.111
1
0
Phạm Minh Trí
01/08/2017 02:49:56
Soạn bài hạnh phúc của một tang gia của Vũ Trọng Phụng
(Trích Số đỏ)
I. Tác giả và tác phẩm
1. Tác giả
Vũ Trọng Phụng (1912 – 1939) sinh tại Hà Nội, trong một gia đình nghèo. Cuộc đời của Vũ Trọng Phụng rất lận đận và nhiều gian truân, cuối đời ông mắc bệnh lao nhưng không có điều kiện chạy chữa. Ông mất khi sự nghiệp văn học đang còn ở giai đoạn phát triển cao nhất.
Vũ Trọng Phụng bắt đầu có truyện đăng báo từ năm 1930. Trong vòng chưa đầy mười năm từ ngày cầm bút, Vũ Trọng Phụng đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ, tiêu biểu là các phóng sự: Cạm bẫy người (1933), Kĩ nghệ lấy Tây (1934), Cơm thầy cơm cô (1936); các tiểu thuyết: Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê (1936), Lấy nhau vì tình (1937), Trúng số độc đắc (1938). Sáng tác của Vũ Trọng Phụng toát lên niềm căm phẫn mãnh liệt cái xã hội đen tối, thối nát đương thời. Vũ Trọng Phụng có những đóng góp đáng kể cho sự nghiệp phát triển của văn xuôi Việt Nam hiện đại.
2. Tác phẩm
Đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia được trích trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng. Tiểu thuyết này được đăng ở Hà Nội báo vào cuối năm 1936 và in thành sách vào năm 1938. Nhân vật chính trong Số đỏ là Xuân, thường gọi là Xuân Tóc Đỏ. Đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia thuộc chương XV của tiểu thuyết Số đỏ.
II. Tìm hiểu đoạn trích
Câu 1. Ý nghĩa của cách đặt nhan đề cho đoạn trích
- Cách đặt tên nhan đề rất lạ, gây cảm giác tò mò, chú ý cho người đọc và cũng thể hiện một nghịch ló nực cười: trong tang gia mà lại có hạnh phúc.
- Mâu thuẫn trào phúng cơ bản nằm ngay trong nhan đề. Mỗi thành viên trong gia đình đều cảm thấy sung sướng, thỏa mãn và thấy đây là một dịp hiếm có để mọi người thực hiện một ý đồ riêng. Bọn con cháu đều muốn cho cụ tổ chết để được sớm chia gia tài và làm những việc mình thích. Thật đúng là hạnh phúc của một gia đình vô phúc, niềm vui của những đứa con cháu bất hiếu nhưng lúc nào cũng tỏ ra đạo đức, văn minh.
- Trong đoạn trích này, tác giả cũng dựng nên bối cảnh của một tang gia bối rối; chẳng những bối rối mà còn rất lo lắng và bận rộn. Nhưng nghịch lí lại tiếp tục được bộc lộ khi lo lắng, bận rộn không phải cho một đám ma mà là lo tổ chức cho chu đáo, linh đình một ngày vui, một đám hội. Như vậy, cách đặt tiêu đề vừa gây chú ý cho người đọc, vừa phản ánh đúng một sự thật mỉa mai, hào hước và tàn nhẫn.
Câu 2. Niềm hạnh phúc của mọi người trong gia đình từ cái chết của cụ tổ.
- Niềm vui chung nhất của mọi người là tờ di chúc của cụ tổ đã trở thành hiện thực, con cháu được chia gia tài.Mọi người vừa vui vì có những khoản tiền kếch xù, vừa có dịp để phô trương cái “hiếu nghĩa” giả tạo của mình.
- Tất cả con cháu từ cụ cố Hồng cho đến vợ chồng Văn Minh, cô Tuyết, cậu Tân… và cả những người bạn tham gia đưa tang đều cảm thấy rất hãnh diện và hạnh phúc. Đây là dịp để họ phô trương những bộ trang phục hợp mốt thời thượng, để thiên hạ trầm trồ thán phục và để ra oai lẫn nhau.
+ Cụ cố Hồng mơ màng nghĩ đến cảnh mình mặc đồ xô gai chống gậy ho lụ khụ để thiên hạ bình phẩm ngợi khen.
+ Ông Văn Minh thì có dịp để khoe một mốt váy áo đại tang mới trong cái đám ma to nhất Hà Thành.
+ Cô Tuyết sẽ có dịp khoe thân thể nõn nà của mình, mặc một bộ áo thơ ngây để chứng tỏ mình còn trong trắng.
Câu 3. Cảnh đám ma gương mẫu qua ngòi bút châm biếm của tác giả
- Bằng nghệ thuật châm biếm sắc sảo, qua những chi tiết chọn lọc, hình ảnh đám tang lộ rõ sự đua đòi của lối sống văn minh rởm đời. Đám ma được dựng lên hết sức to tát, long trọng có thể nói ở Hà Thành trước đây chưa từng có. Một đám ma được tiến hành theo cả lối Tả, lối Tàu, lối Tây.. có đầy đủ những lớp người thượng lưu ăn mặc đẹp đẽ, sang trọng.
- Thực chất nút sau sự to tát, danh giá, long trọng ấy là những sự phô trương giả dối, sự rởm đời lố lăng, thể hiện tâm lí háo danh, háo thắng… của một lớp người trong xã hội thượng lưu lúc bấy giờ. Điều này được thể hiện qua những chi tiết đưa tang thật hổ lốn đến buồn cười; khiến tác giả phải đưa ra một câu văn nhận xét thể hiện sự trào lộng, mỉa mai đến cực độ: thật là một đám ma to tát có thể làm cho người nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu…!
- Ngoài các yếu tố gây mâu thuẫn để thể hiện chất trào phúng, tác giả còn sử dụng biện pháp phóng đại. Nhân vật được phóng đại với những hình dáng thật lố bịch, dị hợm. Chân dung của bọn người mang dang thượng lưu, văn minh được khắc họa mỗi người một nét, tất cả đều thể hiện hình thật sống động, nhốn nháo: những ông bạn của cụ cố Hồng – đại diện cho những vị tai to mặt lớn của xã hội thượng lưu dự tang để được khoe huân chương, khoe râu… và thật lố bịch, vô liêm sỉ biết bao khi cứ nhìn chằm chằm vào làn da trắng thập thò sau làn áo voan mỏng trên cánh tay và ngực của cô Tuyết; hàng trăm nam thanh nữ tú ăn mặc mô đen, hợp thời đang vừa cố ý tỏ ra buồn rầu nhưng chỉ ít phút sau lại nghe thấy họ cười tình với nhau, hẹn hò, nói chuyện ghen tuông, bình luận về những câu chuyện nhảm nhí… Tất cả đều biểu lộ mọi góc cạnh của cái tình vô văn hóa, vô đạo đức của bọn người cặn bã trong xã hội tư sản thành thị lúc bấy giờ.
Câu 4. Nghệ thuật trào phúng đặc sắc được thể hiện trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia.
- Từ một tình huống trào phúng cơ bản – Hạnh phúc của một tang gia được tác giả triển khai mâu thuẫn theo nhiều tình huống khác nhau, tạo nên một màn hài kịch lớn, phong phú và biến hóa khôn lường gây nhiều thú vị cho người đọc. Một trong những thủ pháp quen thuộc được tác giả sử dụng là phát hiện những chi tiết đối lập gay gắt nhưng cùng tồn tại trong một sự vật, một con người để từ đó làm bật lên tiếng cười châm biếm.
- Ngoài ra, tác giả còn sử dụng nhiều thủ pháp cường điệu: nói ngược, nói mỉa mai… sử dụng đan xen linh hoạt trong đoạn trích và đều mang lại hiệu quả nhất định. Chẳng hạn, cái chết của cụ tổ khiến mọi người trong cái đại gia đình bất hiếu không ai giống ai. Đặc biệt, đám rước đưa ma được tổ chức nhố nhăng, lố bịch và nó trở thành cơ hội tốt để mọi người gặp gỡ, giao lưu, phô trương thanh thế và cười cợt, nói xấu, nói mỉa nhau...
- Tác giả còn có con mắt tinh đời để nhìn thấy và miêu tả đúng cái nét riêng của từng nhân vật xuất hiện trong đoạn trích. Ngòi bút miêu tả của Vũ Trọng Phụng linh hoạt, biến hóa, giàu yếu tố hài hước gây cười và sắc sảo tinh tế đến từng chi tiết nhỏ. Vũ Trọng Phụng xứng đáng là một bậc thầy – một nhà văn hiện thực xuất sắc trong việc sử dụng nghệ thuật trào phúng.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
Phạm Văn Phú
05/08/2017 00:41:06
HẠNH PHÚC CỦA MỘT TANG GIA
(Trích Số đỏ)
Vũ Trọng Phụng
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
Vũ Trọng Phụng (1912 - 1939) quê ở làng Hảo (Bần Yên Nhân), huyện Mỹ Hào, tỉnh Hư­ng Yên, nh­ưng ông sinh ra, lớn lên và mất ở Hà Nội. Ông viết văn sớm, có truyện đăng báo từ 1930. Vũ Trọng Phụng viết nhiều thể loại như­ng nổi tiếng với hai thể tiểu thuyết và phóng sự. Tác phẩm của Vũ Trọng Phụng tập trung vạch trần những ung nhọt thối tha trong xã hội Việt nam những năm ba m­ươi. Những lố lăng, kệch cỡm của lối sống Âu hoá nửa vời, những sản phẩm nhục nhã của văn hoá nô dịch đã đ­ược ghi nhận bằng một ngòi bút sắc sảo, cay nghiệt và đanh đá. Phóng sự, tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng thể hiện thái độ gay gắt của ông với xã hội đương thời. Vì lao động quá sức, nhà văn đã mắc bệnh lao và mất khi còn rất trẻ, lúc mới 27 tuổi.
Số đỏ là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng. Tác phẩm là một vở đại hài kịch nhiều màn phản ánh chi tiết một Tấn trò đời. Mỗi ch­ương là một tiếng cư­ời sâu cay của tác giả ném vào mặt xã hội đương thời.
Đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia thuộc ch­ương XV của tác phẩm. Qua miêu tả một đám tang, nhà văn đã vạch trần thói đạo đức giả của một đại gia đình bất hiếu, từ đó phản ánh sự xuống cấp của đạo đức xã hội. Tính chất trào phúng của đoạn trích thể hiện :
+ Tình huống đầy mâu thuẫn: tang gia hạnh phúc. Cái chết của cụ tổ làm cho đám con cháu sung s­ướng. Niềm hạnh phúc lớn nhất, lâu bền nhất và chung nhất mà cái chết cụ Tổ mang lại cho mọi thành viên trong gia đình là được thừa hưởng tài sản. Thản nhiên khi miêu tả đám tang, nhà văn đã ném vào cái "xã hội chó đểu" những lời chửi cay nghiệt nhất.
+ Đám tang rất to, đầy đủ như­ng xô bồ, láo nháo, con cháu và ng­ười đi đưa đều chẳng chú ý gì đến ng­ười chết.
Qua đám tang nhà văn đã khái quát bộ mặt của xã hội Việt Nam trong một giai đoạn vô cùng phức tạp, giai đoạn có sự chuyển đổi mạnh mẽ về nhiều mặt do có sự giao lưu với văn hoá phương Tây. Vũ Trọng Phụng đã ghi lại một cách chi tiết và chân thực hiện thực xã hội qua đó thể hiện thái độ phản ứng gay gắt của nhà văn đối với những biểu hiện tiêu cực của xã hội đương thời.
II. RÈN KĨ NĂNG
1. Tóm tắt nội dung đoạn trích:
Đoạn 1: Cái chết của cụ già và những người có công lớn nhất gây ra cái chết ấy là Xuân tóc đỏ. Tác giả tái hiện lại quá trình chạy chữa để giải thích nguyên nhân cái chết của ông cụ. Nhữ ng bài thuốc khủng khiếp của các ông lang và sự bối rối của cụ cố Hồng khi cha chết cũng được nhà văn chu ý miêu tả trong đoạn này.
Đoạn 2: Đám con cháu vô cùng hạnh phúc trước cái chết của cụ Tổ vì họ đã phải chờ đợi quá lâu. Họ vô cùng sốt ruột vì việc chuẩn bị nghi lễ được tién hành quá chậm chạp. Mỗi người một tính toán, một niềm hạnh phúc riêng nên họ háo hức chờ đợi đám tang.
Đoạn 3: Tác giả tập trung miêu tả cảnh đám tang. Đặc biệt chú ý đến những người được hưởng hạnh phúc từ đám tang này, từ người được thuê trông coi, khách dự đám đến cô Tuyết và đám con cháu. Nổi bật nhất trong đám tang là cô Tuyết với phục tang mang tên Ngây thơ. Đám tang được tổ chức linh đình. Xuân xuất hiện vào giờ chót khiến cụ bà và Tuyết rất cảm động.
Đoạn 4: Cảnh đưa tang. Đám tang được giễu qua các phố, đi đến đâu làm nhốn nháo đến đó. Những người tham gia đám tang đều rất thời trang, họ thì thầm những câu chuyện đang là mốt của thời thượng, họ tántỉnh, chim chute nhau.
Đoạn 5: Cảnh hạ huyệt. Cậu Tú Tân say sưa chụp ảnh. Cụ cố Hồng cố tỏ vẻ đau khổ, ông Phán vừa khóc than thảm thiết vừa lén trả tiền công cho Xuân vì Xuân đã gây ra cái chết của ông cụ.
2. Mâu thuẫn trào phúng cơ bản của đoạn trích là: tang gia >< hạnh phúc. Cụ Tổ chết đi, đám con cháu không hề buồn đau xót thương mà lại vô cùng hành phúc.
Niềm hạnh phúc chung mà cái chết cụ Tổ mang lại cho mọi thành viên trong gia đình là được thừa hưởng tài sản. Họ được chia tài sản và ai cũng được phần. Ngoài ra, cả người trong gia đình và những người ngoài gia đình đều được hưởng một niềm hạnh phúc riêng.
Trong gia đình:
Cụ cố Hồng, con trai của người chết thì hạnh phúc vì được mặc áo xô gai, chống gậy lụ khụ, để mọi người nhìn vào cụ mà trầm trồ. Đợi phát phục, cụ "nhắm nghiền mắt lại để mơ màng cái lúc cụ mặc đồ xô gai…".
Đám con cháu thì được thể hiện tài hoặc được diện những bộ đồ tang thời trang nhất mà họ vừa sáng tạo ra để khai hoá văn minh. Đứng đầu là Văn Minh, cháu đích tôn của người chết.
Đám cháu gái, cháu dâu thì hạnh phúc vì được mặc những bộ đồ xô gai thời trang, được khoe mình còn "một nửa chữ trinh" với những người đến đưa tang.
Cậu Tú Tân, cháu nội người chết, thì sung sướng vì được trổ tài chụp ảnh.
Nhà văn nhận xét: "… một bầy con cháu chí hiếu chỉ nóng ruột đem chôn cho chóng cái xác chết của cụ Tổ". Chúng đúng là "một bầy" thú chứ không phải con người. Chắc phải chứng kiến những điều ngang tai trái mắt lắm nhà văn mới có cái nhìn và thái độ cay nghiệt như vậy.
Ngoài gia đình:
Trước hết là nhà chức trách - hai viên cảnh sát thuộc bộ thứ 18 là Min Đơ và Min Toa, "Giữa lúc không có ai đáng phạt mà phạt, đương buồn rầu như nhà buôn sắp vỡ nợ, mấy ông cảnh binh này được có đám thuê thì sung sướng cực điểm…". Những ông bạn của cụ cố Hồng, ngực đầy huân chương đến dự đám tang thì "ai nấy đều cảm động hơn những khi nghe tiếng kèn xuân nữ ai oán não nùng" khi "trông thấy làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết". Bộ mặt của xã hội được đại diện bởi những gia đình như thế, những người cầm quyền như thế. Những kẻ đi đưa đám thì tranh thủ chim chuột nhau, bình phẩm nhau. Cả một đám ma to, danh giá, không có lấy một người đau đớn hay buồn bã khi nghĩ đến người chết. Xuân Tóc Đỏ được hưởng nhiều hạnh phúc nhất: được thưởng tiền, được gia đình cụ cố Hồng biết ơn và nhất là được danh giá, nổi tiếng hơn.
3. Khi miêu tả đám tang, tác giả đã kết hợp đầy dụng ý giữa tả cận cảnh và toàn cảnh.
Toàn cảnh đám tang khiến cho người đọc hình dung được sự nhốn nháo, pha tạp Tây Tàu của đám tang. Nó làm lộ rõ vẻ học đòi vô học và rởm đời của tang chủ. Khi miêu tả cận cảnh, tác giả chú ý đến những hành động, những lời bàn tán thầm thì của những người đi đưa đám. Những câu chuyện chẳng liên quan gì đến người chết.
Nhà văn đã lặp lại điệp húc "Đám cứ đi…". Điệp khúc này có ý nghĩa châm biếm, hài hước. Một đám ma hỗn độn và hài hước, pha tạp đủ thứ, học đòi đủ kiểu để khoe khoang. Xe chở người chết cứ đi, người đưa cứ chim chuột nhau, con cháu cứ hưởng thụ niềm hạnh phúc sung sướng của mình. Mỗi người một tâm lí, một mục đích khác nhau, hội tụ lại để thực hiện “nghĩa tử là nghĩa tận” với người chết. Điểm nổi bật nhất và chung nhất của đám người này là sự giả dối, thói đạo đức giả.
4. Lời văn trong đoạn trích đậm tính chất trào phúng, từ cách miêu tả đến cách đặt tên đồ vật, lối so sánh ví von, cách tạo giọng văn... Ví dụ: cảnh sát thất nghiệp “buồn như nhà buôn vỡ nợ”, Hai ông lang “từ chối chạy chữa cũng như cá vị danh y biết tự trọng”, thuốc chữa bệnh thì “công hiệu đến nỗi họ mất mạng”, “Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm”, “Thật là một đám ma to tát mà có thể làm cho...”
Cách đặt tên gọi nhân vật, đồ vật cũng rất hài hước: ông TYPN, Minđơ, Mintoa, lợn quay đi lọng, lốc bốc xoảng...
Tác giả đặc biệt chú ý miêu tả các chi tiết hài hước, dùng những câu văn miêu tả đầy tính châm biếm để đả kích, bóc trần bộ mặt đạo đức gia dối của đám con cháu đại bất hiếu và những kẻ đi đưa vô tình. Ví dụ: Những ông bạn thân của cụ cố Hồng... đều cảm động hơn khi nghe tiếng kèn xuân nữ ai oán, não nùng; Sư cụ Tăng Phú thì sung sướng và vênh váo... là cuộc đắc thắng đầu tiên của báo Gõ mõ vậy...

5. Qua đoạn trích, tác giả đã tập trung phê phán thói đạo đức giả của một lopws người trong xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX. Đó là thói hám danh, hám lợi, thói hợm hĩnh... Cảnh đám tang là một màn bi hài kịch. Nó gợi noĩi chua xót, cay đắng cho sự xuống cấp trầm trọng về đạo đức, nhất là đạo đức gia đình. Từ đầu đến cuối tác phẩm là tiếng cười châm biếm, chế giễu, một kiểu chế giễu rất cay độc của nhà văn đối với những kẻ học đòi một cách vô học. III. TƯ LIỆU THAM KHẢO
1. Về tác giả
… “Sáng tác và thế giới quan Vũ Trọng Phụng khác phức tạp và có nhiều mâu thuẫn. Cuộc sống nghèo khổ bị hắt hủi, có thời kỳ ít nhiều chịu ảnh hưởng cách mạng, khiến Vũ Trọng Phụng rất căm ghét cái xã hội thực dân phong kiến đầy bất công, thối nát đương thời, do đó ông đã dựng lên nhiều bức tranh xã hội sinh động bằng ngoài bút đả kích sắc sảo. Nhưng sống trong cái môi trường chật hẹp, toàn những cái xấu xa đồi bại ở thành thị, xa cách nhân dân lao động, Vũ Trọng Phụng thiếu một căn bản nhân đạo vững vàng, dễ tiếp thu ảnh hưởng của những tư tưởng tiêu cực. Vì vậy, bên cạnh những giá trị hiện thực có sức mạnh tố cáo hiển nhiên, tác phẩm Vũ Trọng Phụng có nhiều hạn chế, nhiều chênh lệch nặng nề. Chính mặt yếu này là cơ sở cho những yếu tố tự nhiên chủ nghĩa đậm nét trong nhiều sáng tác của Vũ Trọng Phụng, nhất là những tác phẩm đề cập đến cái “dâm” (Làm đĩ, Lục xì). ở đó Vũ Trọng Phụng đã xa rời chủ nghĩa hiện thực và rơi vào thứ văn học tự nhiên chủ nghĩa”.
Nguyễn Hoành Khung
(Từ điển văn học, tập 2, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 1984)
… “Trong văn chương, tôi không bao giờ tin rằng có một cái tài nào đó chỉ nhờ biết đặt câu, dùng từ cho khéo, biến quan sát và mô tả sự vật cho tinh mà có thể tạo nên được những tác phẩm có giá trị thật sự. Văn học là tâm huyết, là thứ tư tưởng- nhiệt tình tự nó hiện hình thành những nhân vật đầy sức sống, tự nó đẻ ra những chữ có góc có cạnh, có hình, có khối, có hơi thở phập phồng trên trang giấy.
Ở Vũ Trọng Phụng, cái tư tưởng- nhiệt tình ấy là gì?
Ấy là cái niềm căm thù mãnh liệt đối với xã hội độc ác, bất công, vô lý và “chó đểu” thời thuộc Pháp và khát vọng muốn đập phá tan tành nó đi để xây dựng một xã hội công bằng hơn, có nghĩa lý hơn.
Muốn đánh giá được niềm căm thù này cần tìm hiểu tình hình tâm lý xã hội của tầng lớn thanh niên trí thức tiểu tư sản những năm 30 và số phận bế tắc đến bi thảm của Vũ Trọng Phụng, đồng thời đặt nhà văn vào cái môi trường sống cụ thể của ông, một trong những trung tâm buôn bán và ăn chơi trụy lạc của Hà Nội cũ (phố Hàng Bạc kề bên Sầm Công, Mã Mây, Hàng Buồm…). Người thanh niên ấy, đúng vào lúc ý thức được giá trị và vai trò của cá nhân mình trong cuộc đời nhờ ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, thì đồng thời cũng nhận ra rằng mọi ngả đường sự nghiệp, công danh đều bị chặn lại một cách tàn nhẫn. Sức mạnh thô bỉ của thằng thực dân và cũng đồng tiền làm chủ tất cả.
Nếu không thể lao vào bão táp cách mạng thì mọi con đường của người thanh niên muốn tìm đến vinh quang bằng đạo đức, tài năng và lao động đều không được chấp nhận. Một xã hội như vậy đẻ ra vô vàn những kẻ thờ bạo lực và đồng tiền, chúng biến xã hội thành một thứ sân khấu đại hài kịch để đóng những vai thật là nhố nhăng, bỉ ổi mà Vũ Trọng Phụng gọi là “chó đểu”, hay “vô nghĩa lý”...
... Vâng, có thể nói như thế: niềm căm thù mãnh liệt đối với xã hội thực dân, tư sản tàn ác, lố bịch, đểu giả, thối nát, đó là tất cả tài năng của Vũ Trọng Phụng…”.
Nguyễn Đăng Mạnh
(Vũ Trọng Phụng và niềm căm uất không nguôi.
Con đường đi vào thế giới nghệ thuật
của nhà văn, Sđd, tr.105-107)
2. Về tác phẩm
... "Muốn đánh giá đúng một tác phẩm nghệ thuật, phải nắm được đặc điểm thể loại và khuynh hướng, cảm hứng của nó. Số đỏ là một cuốn tiểu thuyết trào phúng được viết theo khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa. Về mặt là một cuốn tiểu thuyết trào phúng, thành công của nó là đã gây được một tiếng cười, đúng hơn, một chuỗi cười ròn rã từ đầu đến cuối, thông qua một loạt tình tiết, tình huống hài hước và một loạt chân dung hí họa, biếm họa hết sức độc đáo và sinh động. Về mặt là một tác phẩm hiện thực chủ nghĩa, nó đã phát hiện được một cách chính xác và sâu sắc bản chất và quy luật khách quan của xã hội ở một phương diện quan trọng.
Đặc điểm ấy của tác phẩm đặt ra một mâu thuẫn mà tác giả đã giải quyết được một cách đầy tài nghệ. Mâu thuẫn ấy là, một mặt phải dùng lối cường điệu, phóng đại một cách thoải mái - điều mà bút pháp trào phúng đòi hỏi- để tạo nên những tình huống oái oăm vô lý, những tính cách quái thai, kỳ quặc; mặt khác lại không hề được nói oan nói ức cho bất kỳ cái gì, cho bất kỳ ai mà nó đề cập đến. Mâu thuẫn ấy giải quyết trong một truyện ngắn đã khó, trong một truyện dài càng khó hơn nhiều.".
Nguyễn Đăng Mạnh
(Con đường đi vào thế giới nghệ thuật

của nhà văn, Sđd, tr.119-120)
0
0
Trần Bảo Ngọc
05/04/2018 17:08:13

Soạn bài: Hạnh phúc của một tang gia (trích Số đỏ)

I. Vài nét về tác giả, tác phẩm

1. Về tác giả

   - Vũ Trọng Phụng (1912 – 1939), sinh ra tại Hà Nội, trong một gia đình nghèo.

   - Là nhà văn hiện thực xuất sắc trước cách mạng.

   - Ông nổi tiếng về tiểu thuyết, truyện ngắn và đặc biệt thành công ở thể loại phóng sự.

   - Các tác phẩm tiêu biểu: Cạm bẫy người (1933), Kĩ nghệ lấy Tây (1934), Cơm thầy cơm cô (1936); các tiểu thuyết: Giống tố, Số đỏ, Vỡ đê (1936), Lấy nhau vì tình (1937), Trúng số độc đắc (1938).

2. Tiểu thuyết Số đỏ đăng báo năm 1936. Tác phẩm được đánh giá vào loại xuất sắc nhất của văn xuôi Việt Nam, kể từ khi có chữ quốc ngữ.

3. Đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia là toàn bộ chương XV của tác phẩm Số đỏ. Qua đoạn trích Vũ Trọng Phụng đã phê phán mãnh liệt bản chất giả dối và sự lố lăng, đồi bại của xã hội “thượng lưu” ở thành thị ngày ấy.

II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1 (trang 128 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1):

Nhan đề của đoạn trích chứa đựng một mâu thuẫn đây nghịch lí, kích thích trí tò mò của người đọc:Tang gia mà lại hạnh phúc. Gia đình có tang mà lại vui vẻ, sung sướng, hạnh phúc.

   - Hạnh phúc: Là niềm vui của con người khi đạt được những ước nguyện trong cuộc sống.

   - Tang gia: Là lúc mọi người buồn đau khôn xiết khi người thân ra đi mãi mãi.

→ Nhan đề đã phản ánh một sự mâu thuẫn trong tâm lí con người: 1 bên là sự hạnh phúc, 1 bên là sự mất mát không thể bù đắp được, vậy mà chúng lại song hành, gắn kết với nhau.

=> Nhan đề dự báo một màn kịch sắp diễn ra với nhiều cảnh nghịch lí, nhiều pha cười ra nước mắt.

Vũ Trọng Phụng rất tài tình trong việc xây dựng tình huống truyện độc đáo: Cụ cố tổ mất đi nghĩa là tớ di chúc của cụ đã đến lúc được thực hiện, nghĩa là từ đây cái gia tài kếch sù của cụ được chia cho con và cháu, trai và gái, dâu và rể... “chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa”. Như vậy cái chết của cụ đã được mọi người chờ đợi, thậm chí mong muốn nó đến thật nhanh từ rất lâu rồi.

=> Từ tình huống này làm bộc lộ những mâu thuẫn theo nhiều tình huống khác nhau tạo nên một màn hài kịch phong phú và biến hóa.

Câu 2 (trang 128 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1):

Cái chết của cụ cố tổ là niềm “hạnh phúc” của mọi thành viên trong đại gia đình cụ vì khi cụ mất đi, cái chúc thư kia sẽ đi vào thực hành chứ không còn ở cái thời kì lí thuyết nữa.

* Niềm vui của các thành viên trong gia đình:

   - Cụ cố Hồng:

       + Tuy năm mươi tuổi nhưng lâu nay vẫn mơ ước được gọi là cụ cố.

       + Dịp may đã tới, cụ nhắm nghiền mắt lại nghĩ đến lúc mình được mặc áo xô gai, lụ khụ chống gậy, ho ra máu diễn trò già yếu, ốm đau.

   - Ông Văn Minh thích thú vì cái chúc thư kia đã đi vào thời kì thực hành chứ không còn trên lí thuyết viển vông nữa.

   - Bà Văn Minh mừng rỡ vì được lăng xê những mốt y phục táo bạo nhất.

   - Cô Tuyết được dịp mặc y phục ngây thơ để chứng tỏ mình vẫn còn “nửa chữ trinh” nhưng đau khổ vì “không thấy bạn giai đâu cả”.

   - Cậu Tú Tân sung sướng điên người vì lâu được sử dụng máy ảnh mà đã lâu không còn được dùng đến.

   - Ông Phán mọc sừng sung sướng vì không ngờ rằng cái sừng trên đầu mình lại có giá trị đến vậy.

   - Xuân Tóc Đỏ ngày càng danh giá và uy tín vì chính y mà cụ cố tổ chết.

* Niềm vui của những người đến đưa đám ma:

   - Hai tên cảnh sát Min Đơ và Min Toa đang lúc thất nghiệp, được thuê giữ trật tự cho đám tang. Đó là cơ hội không thể tốt hơn vì vừa nhàn nhã lại có tiền.

   - Bạn bè cụ cố Hồng: có dịp phô trương đủ thứ huân chương, các kiểu quần áo, đầu tóc...

   - Đám phụ nữ quý phái, đám trai thanh gái lịch có dịp tụ tập để hẹn hò nhau, bình phẩm nhau...

=> Tác giả đã khai thác triệt để những yếu tố mâu thuẫn để gây cười, nhưng cái cười của sự phê phán, mỉa mai, châm biếm về một xã hội thực dân Âu hóa rởm với tất cả sự lố lăng, đồi bại xuống dốc của đạo lí và nhân cách con người.

Câu 3 (trang 128 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1):

“Cảnh đám ma gương mẫu”:

   - Bề ngoài thật long trọng, gương mẫu nhưng thực chất chẳng khác gì đám rước nhố nhăng: đi đến đâu huyên náo đến đấy, có sự phối hợp Ta - Tây - Tàu, tràn ngập vòng hoa, câu đối, mọi người thi nhau chụp ảnh như hội chợ ...

   - Mọi người đi đưa tang người đi đông đúc, sang trọng. Họ mải mê “chim nhau, cười tình với nhau, chê bai nhau... bằng những vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma”.

=> Đám ma diễn ra như một tấn đại hài kịch. Nó nói lên sự lố lăng, đồi bại của cái xã hội thượng lưu Âu hóa đương thời.

Câu 4 (trang 128 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1):

Số đỏ là tác phẩm tiêu biểu nhất của Vũ trọng Phụng và được đánh giá là tác phẩm vào loại xuất sắc nhất của văn xuôi Việt Nam, kể từ khi có chữ quốc ngữ. Thông qua tác phẩm, nhà văn đả kích sâu cay xã hội tư sản thành thị đang chạy theo lối sống nhố nhăng, đồi bại đương thời.

Câu 5 (trang 128 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1):

Nghệ thuật trào phúng đặc sắc trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia

   - Nghệ thuật tạo tình huống cơ bản rồi mở ra những tình huống khác.

   - Khai thác và sử dụng triệt để biện pháp nghệ thuật đối lập nhưng cùng tồn tại trong một sự vật, một con người để làm nổi bật lên tiếng cười.

   - Giọng văn mỉa mai, sử dụng thủ pháp cường điệu, nói quá được sử dụng một cách linh hoạt.

   - Ngòi bút miêu tả sắc sảo: Những nét riêng của từng nhân vật trong đoạn trích.

Luyện tập

Câu 2 (trang 128 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1): Hãy chỉ ra mâu thuẫn ...

   - Mâu thuẫn trong đoạn trích thể hiện ngay từ nhan đề của tác phẩm.

   - Chân dung trào phúng được thể hiện rõ nét qua từng nhân vật: cụ cố Hồng, vợ chồng Văn Minh, cô Tuyết, cậu Tú Tân, ông Phán mọc sừng, Xuân Tóc Đỏ. Bên cạnh đó là chân dung của những người ngoài gia đình (hai tên cảnh sát Min Đơ, Min Toa, bạn cụ cố Hồng...).

0
0
Trần Đan Phương
05/04/2018 17:08:14

Soạn bài: Hạnh phúc của một tang gia (Vũ Trọng Phụng)

Câu 1: Ý nghĩa của cách đặt nhan đề cho đoạn trích

- Cách đặt tên nhan đề rất lạ, gây cảm giác tò mò, chú ý cho người đọc và cũng thể hiện một nghịch ló nực cười: trong tang gia mà lại có hạnh phúc.

- Mâu thuẫn trào phúng cơ bản nằm ngay trong nhan đề. Đám con cháu vô cùng hạnh phúc trước cái chết của cụ Tổ vì họ đã phải chờ đợi quá lâu. Cụ cố Tổ mất đi đối với con cháu này lại là một niềm sung sướng vì chúng sẽ được hưởng gia tài.

- Trong đoạn trích này, tác giả cũng dựng nên bối cảnh của một tang gia bối rối; chẳng những bối rối mà còn rất lo lắng và bận rộn. Nhưng nghịch lí lại tiếp tục được bộc lộ khi lo lắng, bận rộn không phải cho một đám ma mà là lo tổ chức cho chu đáo, linh đình một ngày vui, một đám hội. Như vậy, cách đặt tiêu đề vừa gây chú ý cho người đọc, vừa phản ánh đúng một sự thật mỉa mai, hào hước và tàn nhẫn.

Câu 2:

   Cái chết của cụ tố là niềm hạnh phúc của con cháu bởi đây là niềm mong đợi của chúng đã từ lâu khi cụ tổ chết đi chúng sẽ nhân được một số tiền lớn, mỗi thành viên trong gia đình cụ cố tổ chỉ là những kẻ tham lam độc ác chúng coi tiền bạc là tất cả rồi làm những trò đáng xấu hổ.

   Mỗi người trong gia đình lại có những niềm hạnh phúc khác nhau:

- Cụ cố Hồng mơ màng nghĩ đến cảnh mình mặc đồ xô gai chống gậy ho lụ khụ để thiên hạ bình phẩm ngợi khen.

- Bà văn minh thì sốt cả ruột vì mãi không được mặc những đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng viền đen..,

- Cô Tuyết sẽ có dịp khoe thân thể nõn nà của mình, mặc một bộ áo thơ ngây để chứng tỏ mình còn trong trắng.

- Những người đến dự tang thì như là cụ cố chết đi để có một buổi họp mặt và khoe đủ thứ trang phục hoặc phê bình đủ kiểu …

   Mỗi người đều có những niềm hạnh phúc riêng, nhưng bọn chúng chỉ hành động như những kẻ bất hiếu. Qua đây phê phán những kẻ lố lăng đồi bại và có những hành động không có nhân tính và toàn những kẻ bất hiếu.

Câu 3: Cảnh đưa tang

   Trong cái không khí đó mọi người đang diễn theo những thói lố bịch nó làm cho con người đau đớn khi nhìn thấy cảnh tượng đó, một đám ma nhưng lại diễn ra theo một phong cách kiểu nhố nhăng.

   Khung cảnh thì diễn ra nhộn nhịp, có tất cả các thành phần tham gia cả trai và gái, họ chim chuột với nhau, một đám ma của cụ tố trở thành một ngày hội tưng bừng với đầy đủ những hình ảnh cạch cỡm.

   Đám ma gương mẫu: đây là lời nhận xét của tác giả bởi một đám ma được diễn ra theo một trình tự nó được sắp xếp hợp tình hợp lý, thu hút những điều quan tâm của mọi người.

   Trong những điều đó cái mà tác giả quan tâm ở đây đó là cái đám ma gương mẫu ấy được người nhà của cụ cố diễn theo một cách chuyên nghiệp đây là những hành động làm cho học mất đi bản chất của một con người có nhân đức.

   Kèn trống nhộn nhịp, huyên náo, con người thì cười đùa mỗi người làm theo một kiểu, thật nhố nhăng và làm cho người khác thấy khó chịu về hành động xấu xa đấy.

Câu 4: Thái độ của nhà văn về xã hội.

   Một xã hội suy tàn với những chế độ thối nát, tác giả đã miêu tả đầy đủ những hình ảnh đó để thể hiện những hình ảnh chi tiết trong đoạn văn, hình ảnh này biểu tượng cho một điều đó là đồng tiền làm mờ mắt con người họ chỉ biết đến tiền mà không biết đến tình người.

Câu 5: Nghệ thuật trào phúng đặc sắc được thể hiện trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia.

- Từ một tình huống trào phúng cơ bản – Hạnh phúc của một tang gia được tác giả triển khai mâu thuẫn theo nhiều tình huống khác nhau, tạo nên một màn hài kịch lớn, phong phú và biến hóa khôn lường gây nhiều thú vị cho người đọc. Một trong những thủ pháp quen thuộc được tác giả sử dụng là phát hiện những chi tiết đối lập gay gắt nhưng cùng tồn tại trong một sự vật, một con người để từ đó làm bật lên tiếng cười châm biếm.

- Ngoài ra, tác giả còn sử dụng nhiều thủ pháp cường điệu: nói ngược, nói mỉa mai… sử dụng đan xen linh hoạt trong đoạn trích và đều mang lại hiệu quả nhất định. Chẳng hạn, cái chết của cụ tổ khiến mọi người trong cái đại gia đình bất hiếu không ai giống ai. Đặc biệt, đám rước đưa ma được tổ chức nhố nhăng, lố bịch và nó trở thành cơ hội tốt để mọi người gặp gỡ, giao lưu, phô trương thanh thế và cười cợt, nói xấu, nói mỉa nhau...

- Tác giả còn có con mắt tinh đời để nhìn thấy và miêu tả đúng cái nét riêng của từng nhân vật xuất hiện trong đoạn trích. Ngòi bút miêu tả của Vũ Trọng Phụng linh hoạt, biến hóa, giàu yếu tố hài hước gây cười và sắc sảo tinh tế đến từng chi tiết nhỏ. Vũ Trọng Phụng xứng đáng là một bậc thầy – một nhà văn hiện thực xuất sắc trong việc sử dụng nghệ thuật trào phúng.

0
0
Nguyễn Thị Sen
07/04/2018 11:22:56

Soạn bài: Hạnh phúc của một tang gia (Vũ Trọng Phụng)

Câu 1: Ý nghĩa của cách đặt nhan đề cho đoạn trích

- Cách đặt tên nhan đề rất lạ, gây cảm giác tò mò, chú ý cho người đọc và cũng thể hiện một nghịch ló nực cười: trong tang gia mà lại có hạnh phúc.

- Mâu thuẫn trào phúng cơ bản nằm ngay trong nhan đề. Đám con cháu vô cùng hạnh phúc trước cái chết của cụ Tổ vì họ đã phải chờ đợi quá lâu. Cụ cố Tổ mất đi đối với con cháu này lại là một niềm sung sướng vì chúng sẽ được hưởng gia tài.

- Trong đoạn trích này, tác giả cũng dựng nên bối cảnh của một tang gia bối rối; chẳng những bối rối mà còn rất lo lắng và bận rộn. Nhưng nghịch lí lại tiếp tục được bộc lộ khi lo lắng, bận rộn không phải cho một đám ma mà là lo tổ chức cho chu đáo, linh đình một ngày vui, một đám hội. Như vậy, cách đặt tiêu đề vừa gây chú ý cho người đọc, vừa phản ánh đúng một sự thật mỉa mai, hào hước và tàn nhẫn.

Câu 2:

   Cái chết của cụ tố là niềm hạnh phúc của con cháu bởi đây là niềm mong đợi của chúng đã từ lâu khi cụ tổ chết đi chúng sẽ nhân được một số tiền lớn, mỗi thành viên trong gia đình cụ cố tổ chỉ là những kẻ tham lam độc ác chúng coi tiền bạc là tất cả rồi làm những trò đáng xấu hổ.

   Mỗi người trong gia đình lại có những niềm hạnh phúc khác nhau:

- Cụ cố Hồng mơ màng nghĩ đến cảnh mình mặc đồ xô gai chống gậy ho lụ khụ để thiên hạ bình phẩm ngợi khen.

- Bà văn minh thì sốt cả ruột vì mãi không được mặc những đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng viền đen..,

- Cô Tuyết sẽ có dịp khoe thân thể nõn nà của mình, mặc một bộ áo thơ ngây để chứng tỏ mình còn trong trắng.

- Những người đến dự tang thì như là cụ cố chết đi để có một buổi họp mặt và khoe đủ thứ trang phục hoặc phê bình đủ kiểu …

   Mỗi người đều có những niềm hạnh phúc riêng, nhưng bọn chúng chỉ hành động như những kẻ bất hiếu. Qua đây phê phán những kẻ lố lăng đồi bại và có những hành động không có nhân tính và toàn những kẻ bất hiếu.

Câu 3: Cảnh đưa tang

   Trong cái không khí đó mọi người đang diễn theo những thói lố bịch nó làm cho con người đau đớn khi nhìn thấy cảnh tượng đó, một đám ma nhưng lại diễn ra theo một phong cách kiểu nhố nhăng.

   Khung cảnh thì diễn ra nhộn nhịp, có tất cả các thành phần tham gia cả trai và gái, họ chim chuột với nhau, một đám ma của cụ tố trở thành một ngày hội tưng bừng với đầy đủ những hình ảnh cạch cỡm.

   Đám ma gương mẫu: đây là lời nhận xét của tác giả bởi một đám ma được diễn ra theo một trình tự nó được sắp xếp hợp tình hợp lý, thu hút những điều quan tâm của mọi người.

   Trong những điều đó cái mà tác giả quan tâm ở đây đó là cái đám ma gương mẫu ấy được người nhà của cụ cố diễn theo một cách chuyên nghiệp đây là những hành động làm cho học mất đi bản chất của một con người có nhân đức.

   Kèn trống nhộn nhịp, huyên náo, con người thì cười đùa mỗi người làm theo một kiểu, thật nhố nhăng và làm cho người khác thấy khó chịu về hành động xấu xa đấy.

Câu 4: Thái độ của nhà văn về xã hội.

   Một xã hội suy tàn với những chế độ thối nát, tác giả đã miêu tả đầy đủ những hình ảnh đó để thể hiện những hình ảnh chi tiết trong đoạn văn, hình ảnh này biểu tượng cho một điều đó là đồng tiền làm mờ mắt con người họ chỉ biết đến tiền mà không biết đến tình người.

Câu 5: Nghệ thuật trào phúng đặc sắc được thể hiện trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia.

- Từ một tình huống trào phúng cơ bản – Hạnh phúc của một tang gia được tác giả triển khai mâu thuẫn theo nhiều tình huống khác nhau, tạo nên một màn hài kịch lớn, phong phú và biến hóa khôn lường gây nhiều thú vị cho người đọc. Một trong những thủ pháp quen thuộc được tác giả sử dụng là phát hiện những chi tiết đối lập gay gắt nhưng cùng tồn tại trong một sự vật, một con người để từ đó làm bật lên tiếng cười châm biếm.

- Ngoài ra, tác giả còn sử dụng nhiều thủ pháp cường điệu: nói ngược, nói mỉa mai… sử dụng đan xen linh hoạt trong đoạn trích và đều mang lại hiệu quả nhất định. Chẳng hạn, cái chết của cụ tổ khiến mọi người trong cái đại gia đình bất hiếu không ai giống ai. Đặc biệt, đám rước đưa ma được tổ chức nhố nhăng, lố bịch và nó trở thành cơ hội tốt để mọi người gặp gỡ, giao lưu, phô trương thanh thế và cười cợt, nói xấu, nói mỉa nhau...

- Tác giả còn có con mắt tinh đời để nhìn thấy và miêu tả đúng cái nét riêng của từng nhân vật xuất hiện trong đoạn trích. Ngòi bút miêu tả của Vũ Trọng Phụng linh hoạt, biến hóa, giàu yếu tố hài hước gây cười và sắc sảo tinh tế đến từng chi tiết nhỏ. Vũ Trọng Phụng xứng đáng là một bậc thầy – một nhà văn hiện thực xuất sắc trong việc sử dụng nghệ thuật trào phúng.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 11 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo