LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Soạn bài vội vàng

4 trả lời
Hỏi chi tiết
694
0
0
Nguyễn Thanh Thảo
01/08/2017 01:55:54
Soạn bài vội vàng của Xuân Diệu
I. Gợi ý trả lời câu hỏi.
Câu 1. Cả bài thơ là một dòng cảm xúc hối hả, tuôn trào nhưng vẫn tuân theo một bố cục khá rõ ràng, chặt chẽ - Bài thơ có thể chia làm bốn đoạn:
- 4 câu đầu: Khát khao lưu giữ hương sắc mùa xuân.
- Câu 5 – 13: Vui thích, say mê trước cảnh sắc mùa xuân.
- Câu 14 – 29: Băn khoăn trước giới hạn của cuộc đời.
- Đoạn còn lại: Hối hả, cuồng nhiệt đến với cuộc sống.
Câu 2. Khát khao lưu giữ hương sắc mùa xuân.
- “Tắt nắng”, “buộc gió” là quyền uy của Tạo Hóa. Cho dù Xuân Diệu là thi sĩ thì ông vẫn là con người làm sao có được khả năng vô hình đó. Chỉ vì quá yêu cuộc sống nên mới ước ao và nảy sinh ý tưởng táo bạo. Muốn níu giữ sắc hương, níu giữ mùa xuân cũng có nghĩa là muốn níu giữ thời gian cùng với vẻ đẹp cuộc sống cho mình, cho người. Cách biểu đạt mới lạ, độc đáo.
- Bốn dòng thơ, mỗi dòng năm chữ, ngắn, gấp. Nhịp thơ góp phần diễn tả sự khẩn trương muốn ngăn lại không cho màu nhạt, hương bay. Điệp kiểu câu “Tôi muốn … cho” càng làm nổi bật khát khao lưu giữ được sắ hương cuộc đời để mãi được cùng sống với nó.
Câu 3. Bức tranh mùa xuân ở độ “thời tươi” qua cảm nhận của một tâm hồn đang ở “thời trẻ”:
Của ông bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi;
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
- Hình ảnh thơ tập trung làm nổi bật vẻ tinh khôi, thanh tân, nõn nà, rực rỡ của mùa xuân (Muôn sắc hoa tươi thắm trên nền “xanh rì” đầy sức sống của đồng nội; cành tơ, lộc non mơn mởn, mượt mà…).
- Cảnh xuân không chỉ đẹp mà còn gợi tình (ong bướm “tuần tháng mật”, yến anh ca “khúc tình si”…)
- Cảnh sắc vốn quen thuộc nhưng bằng lỗi cảm nhận riêng, mới lạ, Xuân Diệu đã thổi vào thiên nhiên một tình yêu rạo rực khiến những hình ảnh vô tri vô bỗng sống dậy tràn ngập xuân tình. Câu thơ “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” mang dấu ấn thơ Xuân Diệu rất rõ. Trước hết là cách dùng từ chuyển đổi cảm giác quen thuộc của Xuân Diệu. Thi sĩ không thưởng thức mùa xuân bằng giác gian thông thường (nhìn, ngắm, lắng nghe) mà ông đang say sưa nhấm nháp hương vị của nó, cảm nhận được độ “ngon” mà mùa xuân đang dâng hiến. Mặt khác, ta còn thất ở câu thơ hấp dẫn, quyến rũ như hưởng thụ thiên nhiên rất Xuân Diệu. Mùa xuân hấp dẫn mà như đang thưởng thức “cặp môi” giai nhân. Quả là một cách ví von so sánh mới mẻ, táo bạo góp phần làm nổi bật niềm say mê cái đẹp trần thế đáng quý ở tác giả.
- Điệp ngữ “Này đây…” cùng với hàng loạt âm hình ảnh, màu sắc, âm thanh, Xuân Diệu đã liệt kê vẻ đẹp muôn màu của xuân, bày sẵn quanh ta, chẳng cần phải tìm kiếm. Chỉ cần có tâm hồn yêu thiết tha cuộc sống thì tha hồ nhìn ngắm, thưởng thức.
- > Đoạn thơ này là tiêu điểm góp phần lí giải các trạng thái cảm xúc của tác giả ở bốn câu đầu và những câu thơ tiếp theo.
Câu 4. Đoạn 3 thể hiện cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu.
- Người xưa quan niệm thời gian tuần hoàn đi rồi trở lại như bốn mùa xuân, hạ, thu, đông vì vậy họ thường ung dung, đủng đỉnh. Ở bài thơ này Xuân Diệu quan niệm thời gian tuyến tính. Thời gian được cảm nhận theo thước đo giá trị sống của con người. Mỗi khoảnh khắc trôi qua mang theo một sự mất mát:
Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già.
Có thể Xuân vẫn tuần hoàn nhưng mỗi lần nó « đang qua », « sẽ già » là một lần mang theo nhiều cái đẹp đi mất.
- Nếu xuân là độ viên mãn nhất của thiên nhiên thì tuổi trẻ là độ căng tràn nhựa sống của một cuộc đời. Xuân tuần hoàn nhưng tuổi trẻ - màu xuân của cuộc đời, chẳng có hai lần. Thời gian, sẽ mang theo tuổi xuân của con người đi qua và vì vậy mà thi sĩ càng buồn hơn khi :
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.
Cách cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu xuất phát từ ý thức sâu xa về giá trị sống của mỗi cá thể. Mỗi khoảnh khắc trong đời đề vô cùng quý giá bởi vì khi đã trôi qua là mất vĩnh viện. Vì vậy con người phải biết quý từng giây phút của cuộc đời, phải sống có ý nghĩa. Đây là lí do nhà thơ sống vội vàng, cuống quýt trước sự trôi qua nhanh của thời gian.
Câu 5. Hối hả, cuồng nhiệt đến với cuộc sống : (Đoạn cuối bài thơ).
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn chiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng.
Cho no nên thanh sắc của thời tươi
- Hởi Xuân Hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Xuân Diệu tả cảnh sắc mùa xuân về với thời non tươi của nó để tận hưởng. Hàng loạt hình ảnh tiếp tục làm nổi bật vẻ quyến rũ của sự sống đầy sắc hương nhưng không phải để tả mà chủ yếu để diễn đạt sự cuồng nhiệt, vội vàng tận hưởng của tác giả.
- Hàng loạt động từ tăng dần mức độ sự vồ vập, đắm say: ôm, riết, say, thâu, chếnh choáng, đã đầy, no nê, cắn.
- Thủ pháp điệp được sử dụng đa dạng: Điệp cú pháp: điệp từ, ngữ; điệp cảm xúc theo lối tăng tiến (Ta muốn ôm, Ta muốn riết… Ta muốn cắn), trạng thái tăng tiến (cho chếnh choáng, cho đã đầy, cho no nê…).
- > Nét độc đáo về nghệ thuậ của đoạn thơ đó là những làn sóng ngôn từ đan xen, cộng hưởng theo chiều tăng tiến đã diễn tả rất thành công khao khát mãnh liệt của tác giả.
II. Luyện tập
1. Xuân Diệu đặt tên bài thơ là “Vội vàng”, bởi lẽ: Xuân Diệu yêu tha thiết cuộc sống, cuộc sống quanh ta rất đẹp nhưng tuổi trẻ qua nhanh, đời người ngắn ngủi, thời gian, không chờ đợi. Phải khẩn trương, hối hả đến với cuộc sống để tận hưởng vẻ đẹp của cuộc đời.
2. Quan điểm nhân sinh của Xuân Diệu được thể hiện qua bài thơ có mặt tích cực: Yêu mùa xuân và tuổi trẻ - những cái đẹp nhất của cuộc sống, hãy sống hết mình sao hco mỗi khoảnh khắc của đời mình có ý nghĩa. Đó là quan điểm sống tích cực, có giá trị nhân văn sâu sắc.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
Trần Bảo Ngọc
05/04/2018 17:08:13

Soạn bài: Vội vàng

I. Vài nét về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

   - Xuân Diệu (1916 – 1985) quê ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.

   - Ông là nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”. Xuân Diệu đã đem đến cho thơ ca đương đại một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới, thể hiện một quan niệm sống mới mẻ cùng với những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo. Ông là nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân và tuổi trẻ với một giọng thơ sôi nổi, đắm say, yêu đời thắm thiết.

   - Xuân Diệu là cây bút có sức sáng tạo mãnh liệt, dồi dào, bền bỉ, có đóng góp to lớn trên nhiều lĩnh vực đối với nền văn học Việt Nam hiện đại. Xuân Diệu xứng đáng với danh hiệu một nhà thơ lớn, một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn. Ông được nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật (1996).

   - Tác phẩm tiêu biểu: Thơ thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945), Riêng chung (1960)...Ngoài ra ông còn viết văn xuôi và tiểu luận phê bình, nghiên cứu văn học.

2. Tác phẩm

   - Xuất sứ: in trong tập Thơ thơ.

   - Là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám.

Đọc hiểu văn bản

Câu 1 (trang 23 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2): Bố cục

Bài thơ có thể chia thành ba đoạn:

   - Đoạn 1 (13 câu đầu): Bộc lộ tình yêu cuộc sống trần thế tha thiết.

   - Đoạn 2 (từ câu 14 đến câu 29): Nỗi băn khoăn về sự ngắn ngủi của kiếp người trước sự trôi qua nhanh chóng của thời gian.

   - Đoạn 3 (còn lại): Lời giục giã cuống quýt, vội vàng để tận hưởng những giây phút tuổi xuân của mình giữa mùa xuân của cuộc đời, vũ trụ.

Câu 2 (trang 23 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

   Quan niệm về thời gian của Xuân Diệu là thời gian tuyến tính, một đi không bao giờ trở lại. Nếu các nhà thơ trung đại, quan niệm thời gian là tuần hoàn, là vĩnh cửu thì với Xuân Diệu mỗi phút giây trôi qua là mất đi vĩnh viễn:

       Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua

       Xuân còn non sẽ là xuân sẽ già

   Xuân Diệu lấy tuổi trẻ của mỗi người làm thước đo của thời gian. Theo nhà thơ, thời gian vũ trụ tuần hoàn nhưng tuổi trẻ thì trôi qua rất nhanh, không bao giờ trở lại:

       Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất

       Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật

       Không cho dài thời trẻ của nhân gian

       Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn

       Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại

       Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi

       Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.

   Nhìn thấy sự trôi chảy nhanh chóng của thời gian, Xuân Diệu còn nhận thấy mỗi phút giây trôi qua là sự mất mát, chia lìa:

       Con gió xinh thì thào trong lá biếc

       Phải chăng hờn vì nôĩ phải bay đi

       Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,

       Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?

   Nhà thơ có tâm trạng vội vàng, cuống quýt trước sự trôi chảy của thời gian do ý thức sâu sắc về “cái tôi” cá nhân, về sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời, nâng niu, trân trọng từng giây, từng phút của cuộc đời, nhất là những năm tháng của tuổi trẻ.

→ Tư tưởng nhân văn sâu sắc.

Câu 3 (trang 23 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

   Hình ảnh, thiên nhiên và sự sống trong bài thơ được Xuân Diệu gợi lên vừa gần gũi, thân quen, vừa quyến rũ, tình tứ. Nhà thơ đã phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên và thổi vào đó một tình yêu rạo rực, đắm say:

       Của ong bướm này đây tuần tháng mật

       Này đây hoa của đồng nội xanh ri

       Này đây lá của cành tờ phơ phất

       Của yến anh này đây khúc tình si

       Và này đây ánh sáng chớp hàng mi

       Mỗi buổi sớm thần Vui thầm gõ cửa

       Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.

   Thiên nhiên qua con mắt của Xuân Diệu đều nhuốm màu tình tứ, tràn ngập xuân tình. Thi sĩ đã lấy con ngườu làm chuẩn mực cho cái đẹp, cho thiên nhiên, quy chiếu thiên nhiên về vẻ đẹp của người thiếu nữ: “ Và này đây ánh sáng chớp hàng mi”; “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”; Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”.

→ Đây là một cách nhìn mới của Xuân Diệu, đồng thời cũng thể hiện quan niệm mới của nhà thơ về cuộc sống, về tuổi trẻ, về hạnh phúc: Thời gian quý giá nhất của mỗi đời người là tuổi trẻ, mà hanh phúc lớn nhất của tuổi trẻ chính là tình yêu.

Câu 4 (trang 23 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

* Đặc điểm hình ảnh, ngôn từ, nhịp điệu trong đoạn thơ cuối:

   - Hình ảnh quen thuộc mà tươi mới, giàu sức sống, quyến rũ.

   - Cảm xúc ào ạt, tràn trề khiến Xuân Diệu sử dụng ngôn từ đặc biệt:

       + Nghệ thuật điệp cấu trúc theo lối tăng tiến: Ta muốn: ôm, riết, say, thâu, cắn.

       + Kết hợp sử dụng các động từ mạnh, danh từ chỉ vẻ đẹp thanh tân, tính từ chỉ xuân sắc.

   - Nhịp điệu của bài thơ dồn dập, hối hả, sôi nổi, cuồng nhiệt.

* Xuân Diệu đã sử dụng các hình ảnh độc đáo, mới lạ: Mây đưa gió lượn, cánh bướm với tình yêu, cái hôn nhiều, cây, cỏ rạng, mùi thơm ánh sáng, thanh sắc, thời tươi, xuân hồng... kết hợp với các động từ mạnh và tính từ chỉ xuân sắc → thể hiện lòng yêu đời, ham sống bùng lên hối hả để tận hưởng những hương vị ngọt ngào, say đắm của cuộc sống.

Luyện tập

(trang 23 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2): Trong Nhà văn hiện đại ....

   - Trong đoạn 1 và đoạn 3 là tình yêu đời, ham sống vội vàng, cuống quýt bùng lên hối hả để tận hưởng những hương vị ngọt ngào, say đắm của cuộc sống.

   - Đoạn 2 tập trung thể hiện quan niệm hết sức mới mẻ của nhà thơ: Với Xuân Diệu, thế giới này đẹp nhất là vì có con người giữa tuổi trẻ và tình yêu. Thời gian quý giá nhất của mỗi con người là tuổi trẻ, hạnh phúc lớn nhất của tuổi trẻ chính là tình yêu.

0
0
Trần Đan Phương
05/04/2018 17:08:14

Soạn bài: Vội vàng (Xuân Diệu)

Câu 1: Bài thơ có thể chia làm 3 đoạn:

- Đoạn 1 (13 câu đầu): tình yêu cuộc sống trần thế tha thiết.

- Đoạn 2 (câu 14 - 29): băn khoăn trước giới hạn của cuộc đời.

- Đoạn 3 (đoạn còn lại): hối hả, cuồng nhiệt đến với cuộc sống.

Câu 2: Cảm nhận về thời gian cùa Xuân Diệu được nói đến trong 11 câu thơ (câu 14 - 24) mang ý vị triết lí nhân sinh sâu sắc. Cảm nhận về thời gian của thi nhân ở đây gắn liền với mùa xuân và tuổi trẻ của một con người yêu cuộc sống thiết tha, say đắm, nên mang nét riêng của Xuân Diệu rất rõ.

a) Thời gian và mùa xuân

 Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua, Xuân còn non, nghĩa là xuân đã già, 

Xuân Diệu viết bài thơ này khi mới ngoài hai mươi tuổi, nghĩa là còn rất trẻ. Người trai trẻ ấy nghĩ về mùa xuân như vậy, mới biết sức tàn phá của thời gian như thế nào, và thi nhân "sợ" thời gian trôi nhanh ra sao! Ở cái tuổi ấy, có lẽ ít người nghĩ thế, và nhất là viết như thế để giãi bày lòng mình trong thơ. Hai câu trên là đối lập (đương tới / đương qua, còn non / sẽ già) để đi đến một kết luận khẳng định về sự đồng nhất giữa mùa xuân và tác giả (con người):

 Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất. 

Mùa xuân trôi đi thì cuộc đời con người cũng chấm hết. Cảm thức về sự tàn phá của thời gian thật mạnh và sâu, được nâng lên như một triết lí nhân sinh của Xuân Diệu. Một con người bình thường không thể nghĩ về thời gian, không gian "sợ" thời gian trôi nhanh đến mức như thế. Hẳn là trong ông có chứa chất bi kịch của nhà thơ lãng mạn trong thân phận một thi nhân mất nước lúc bấy giờ, hay chính vì ông quá yêu cuộc sống nồng nhiệt và say đắm mà "sợ" thời gian cướp mất mùa xuân của mình.

Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu ở đây, thực ra, suy cho cùng, cũng chính là hệ quả tất yếu phải có của lòng yêu đời, yêu cuộc sống của ông.

b) Thời gian và tuổi trẻ

Thời gian cướp đi mùa xuân cũng có nghĩa là cướp mất tuổi trẻ của nhà thơ. Đây chính là nỗi xót đau và lo lắng nhất của Xuân Diệu. Bởi chính ông là con người trân trọng tuổi trẻ nhất và lo sợ thời gian trôi nhanh thì tuồi trẻ sẽ không còn nữa. Điều đó được ông bộc lộ thật chân thành, tha thiết:

 Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật, Không cho dài thời trẻ của nhân gian, Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn, Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại! 

Làm sao cuộc đời con người lại có hai lần "tuổi trẻ"? Và khi thời gian đã trôi nhanh thì liệu tuổi trẻ có còn? Như vậy, "xuân vẫn tuần hoàn" thì cuộc sống còn có ý nghĩa gì khi tuổi trẻ đã hết? Với Xuân Diệu, cái quý nhất cua đời người là tuổi trẻ, tuổi trẻ là đẹp nhất, cuộc sống thời tuổi trẻ là hạnh phúc nhất, đáng sống nhất. Và điều ông lo sợ nhât là mất đi cái thời quý giá ấy của cuộc sống con người. Nếu không còn tuổi trẻ thì cuộc sống con người cùng chẳng còn ý nghĩa:

 Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi, Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời; Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi, Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt ... 

Qua cảm nhận về thời gian - cũng là qua nỗi băn khoăn của Xuân Diệu trước cuộc đời, ta thấy hiện lên cái đẹp nhất, hấp dẫn nhất trên cõi đời mà nhà thơ khao khát. Đó là tình yêu mùa xuân, yêu tuổi trẻ, yêu cuộc đời tha thiết như muốn sống mãi trong tuổi trẻ, trong mùa xuân của cuộc đời.

Câu 3: Chính vì yêu tha thiết cuộc sống đời thường quanh mình, Xuân Diệu đã phát hiện ra trong cuộc sống đó những nét đẹp thật tinh tế,đáng yêu, giàu chất thơ như đã phân tích trên đây.

- Xuân Diệu yêu tuổi trẻ và biết quý tuổi trẻ của mình bởi đây là khoảng thời gian đẹp và đáng sống nhất, có nhiều hạnh phúc nhất của cuộc đời một con người (xem phân tích câu 2).

- Xuân Diệu quan niệm hạnh phúc không ở đâu xa (hoặc ở một cõi khác) mà đó chính là hạnh phúc ở quanh ta, là sự sống quen thuộc của trần thế. Hạnh phúc khi được cảm nhận một bức tranh thiên nhiên đẹp của hoa lá đồng nội, của ong bướm, chim chóc; được sống trong một "Tháng giêng ngon như một cặp môi gần"... Vì vậy, phải biết giữ lấy hạnh phúc, giữ lại những vẻ đẹp của cuộc sống cho mình bằng những ý tưởng thật táo bạo:

 Tôi muốn tắt nắng di Cho màu đừng nhạt, mất; Tôi muốn buộc gió lại Cho hương dừng bay đi. 

Và chính vì thế, nhà thơ đă có một cách sống vội vàng để tận hưởng hạnh phúc của tuổi trẻ, của mùa xuân như nhan đề bài thơ mà ông đã bày tỏ nỗi lòng.

Câu 4: Đoạn cuối bài thơ:

 Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn ... Hởi Xuân Hồng, ta muốn cắn vào ngươi! 

Xuân Diệu tả cảnh sắc mùa xuân về với thời non tươi của nó để tận hưởng. Hàng loạt hình ảnh tiếp tục làm nổi bật vẻ quyến rũ của sự sống đầy sắc hương nhưng không phải để tả mà chủ yếu để diễn đạt sự cuồng nhiệt, vội vàng tận hưởng của tác giả.

- Hàng loạt động từ tăng dần mức độ sự vồ vập, đắm say: ôm, riết, say, thâu, chếnh choáng, đã đầy, no nê, cắn.

- Thủ pháp điệp được sử dụng đa dạng: điệp cú pháp; điệp từ, ngữ; điệp cảm xúc theo lối tăng tiến (Ta muốn ôm, Ta muốn riết ... Ta muốn cắn), trạng thái tăng tiến (cho chếnh choáng, cho đã đầy, cho no nê ...).

=> Nét độc đáo về nghệ thuật của đoạn thơ đó là những làn sóng ngôn từ đan xen, cộng hưởng theo chiều tăng tiến đã diễn tả rất thành công khao khát mãnh liệt của tác giả.

II. Luyện tập

- Câu nói của Vũ Ngọc Phan là một nhận định chung, mang tính khái quát về Xuân Diệu và thơ Xuân Diệu. Nhận định đó có hai ý:

    + Thơ Xuân Diệu có hai nguồn cảm hứng mới: yêu đương và tuổi xuân.

    + Dù lúc vui hay lúc buồn, Xuân Diệu cũng ru thanh niên bằng giọng yêu đời thấm thía.

- Cần vận dụng câu nói đó vào trường hợp bài thơ Vội vàng của ông, có nghĩa là phân tích bài thơ đế làm sáng tỏ nhận định của Vũ Ngọc Phan. Cách vận dụng như sau:

    + Trong bài Vội vàng, ý "yêu đương" chưa rõ, cần khai thác cảm hứng "tuổi xuân" (tức tuổi trẻ) để làm bài.

    + Chứng minh rằng, với cảm hứng "tuổi xuân" lúc nào Xuân Diệu cũng là thanh niên với giọng yêu đời thắm thiết. Cụ thể là:

0
0
Tô Hương Liên
07/04/2018 11:22:58

Soạn bài: Vội vàng (Xuân Diệu)

Câu 1: Bài thơ có thể chia làm 3 đoạn:

- Đoạn 1 (13 câu đầu): tình yêu cuộc sống trần thế tha thiết.

- Đoạn 2 (câu 14 - 29): băn khoăn trước giới hạn của cuộc đời.

- Đoạn 3 (đoạn còn lại): hối hả, cuồng nhiệt đến với cuộc sống.

Câu 2: Cảm nhận về thời gian cùa Xuân Diệu được nói đến trong 11 câu thơ (câu 14 - 24) mang ý vị triết lí nhân sinh sâu sắc. Cảm nhận về thời gian của thi nhân ở đây gắn liền với mùa xuân và tuổi trẻ của một con người yêu cuộc sống thiết tha, say đắm, nên mang nét riêng của Xuân Diệu rất rõ.

a) Thời gian và mùa xuân

 Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua, Xuân còn non, nghĩa là xuân đã già, 

Xuân Diệu viết bài thơ này khi mới ngoài hai mươi tuổi, nghĩa là còn rất trẻ. Người trai trẻ ấy nghĩ về mùa xuân như vậy, mới biết sức tàn phá của thời gian như thế nào, và thi nhân "sợ" thời gian trôi nhanh ra sao! Ở cái tuổi ấy, có lẽ ít người nghĩ thế, và nhất là viết như thế để giãi bày lòng mình trong thơ. Hai câu trên là đối lập (đương tới / đương qua, còn non / sẽ già) để đi đến một kết luận khẳng định về sự đồng nhất giữa mùa xuân và tác giả (con người):

 Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất. 

Mùa xuân trôi đi thì cuộc đời con người cũng chấm hết. Cảm thức về sự tàn phá của thời gian thật mạnh và sâu, được nâng lên như một triết lí nhân sinh của Xuân Diệu. Một con người bình thường không thể nghĩ về thời gian, không gian "sợ" thời gian trôi nhanh đến mức như thế. Hẳn là trong ông có chứa chất bi kịch của nhà thơ lãng mạn trong thân phận một thi nhân mất nước lúc bấy giờ, hay chính vì ông quá yêu cuộc sống nồng nhiệt và say đắm mà "sợ" thời gian cướp mất mùa xuân của mình.

Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu ở đây, thực ra, suy cho cùng, cũng chính là hệ quả tất yếu phải có của lòng yêu đời, yêu cuộc sống của ông.

b) Thời gian và tuổi trẻ

Thời gian cướp đi mùa xuân cũng có nghĩa là cướp mất tuổi trẻ của nhà thơ. Đây chính là nỗi xót đau và lo lắng nhất của Xuân Diệu. Bởi chính ông là con người trân trọng tuổi trẻ nhất và lo sợ thời gian trôi nhanh thì tuồi trẻ sẽ không còn nữa. Điều đó được ông bộc lộ thật chân thành, tha thiết:

 Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật, Không cho dài thời trẻ của nhân gian, Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn, Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại! 

Làm sao cuộc đời con người lại có hai lần "tuổi trẻ"? Và khi thời gian đã trôi nhanh thì liệu tuổi trẻ có còn? Như vậy, "xuân vẫn tuần hoàn" thì cuộc sống còn có ý nghĩa gì khi tuổi trẻ đã hết? Với Xuân Diệu, cái quý nhất cua đời người là tuổi trẻ, tuổi trẻ là đẹp nhất, cuộc sống thời tuổi trẻ là hạnh phúc nhất, đáng sống nhất. Và điều ông lo sợ nhât là mất đi cái thời quý giá ấy của cuộc sống con người. Nếu không còn tuổi trẻ thì cuộc sống con người cùng chẳng còn ý nghĩa:

 Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi, Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời; Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi, Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt ... 

Qua cảm nhận về thời gian - cũng là qua nỗi băn khoăn của Xuân Diệu trước cuộc đời, ta thấy hiện lên cái đẹp nhất, hấp dẫn nhất trên cõi đời mà nhà thơ khao khát. Đó là tình yêu mùa xuân, yêu tuổi trẻ, yêu cuộc đời tha thiết như muốn sống mãi trong tuổi trẻ, trong mùa xuân của cuộc đời.

Câu 3: Chính vì yêu tha thiết cuộc sống đời thường quanh mình, Xuân Diệu đã phát hiện ra trong cuộc sống đó những nét đẹp thật tinh tế,đáng yêu, giàu chất thơ như đã phân tích trên đây.

- Xuân Diệu yêu tuổi trẻ và biết quý tuổi trẻ của mình bởi đây là khoảng thời gian đẹp và đáng sống nhất, có nhiều hạnh phúc nhất của cuộc đời một con người (xem phân tích câu 2).

- Xuân Diệu quan niệm hạnh phúc không ở đâu xa (hoặc ở một cõi khác) mà đó chính là hạnh phúc ở quanh ta, là sự sống quen thuộc của trần thế. Hạnh phúc khi được cảm nhận một bức tranh thiên nhiên đẹp của hoa lá đồng nội, của ong bướm, chim chóc; được sống trong một "Tháng giêng ngon như một cặp môi gần"... Vì vậy, phải biết giữ lấy hạnh phúc, giữ lại những vẻ đẹp của cuộc sống cho mình bằng những ý tưởng thật táo bạo:

 Tôi muốn tắt nắng di Cho màu đừng nhạt, mất; Tôi muốn buộc gió lại Cho hương dừng bay đi. 

Và chính vì thế, nhà thơ đă có một cách sống vội vàng để tận hưởng hạnh phúc của tuổi trẻ, của mùa xuân như nhan đề bài thơ mà ông đã bày tỏ nỗi lòng.

Câu 4: Đoạn cuối bài thơ:

 Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn ... Hởi Xuân Hồng, ta muốn cắn vào ngươi! 

Xuân Diệu tả cảnh sắc mùa xuân về với thời non tươi của nó để tận hưởng. Hàng loạt hình ảnh tiếp tục làm nổi bật vẻ quyến rũ của sự sống đầy sắc hương nhưng không phải để tả mà chủ yếu để diễn đạt sự cuồng nhiệt, vội vàng tận hưởng của tác giả.

- Hàng loạt động từ tăng dần mức độ sự vồ vập, đắm say: ôm, riết, say, thâu, chếnh choáng, đã đầy, no nê, cắn.

- Thủ pháp điệp được sử dụng đa dạng: điệp cú pháp; điệp từ, ngữ; điệp cảm xúc theo lối tăng tiến (Ta muốn ôm, Ta muốn riết ... Ta muốn cắn), trạng thái tăng tiến (cho chếnh choáng, cho đã đầy, cho no nê ...).

=> Nét độc đáo về nghệ thuật của đoạn thơ đó là những làn sóng ngôn từ đan xen, cộng hưởng theo chiều tăng tiến đã diễn tả rất thành công khao khát mãnh liệt của tác giả.

II. Luyện tập

- Câu nói của Vũ Ngọc Phan là một nhận định chung, mang tính khái quát về Xuân Diệu và thơ Xuân Diệu. Nhận định đó có hai ý:

    + Thơ Xuân Diệu có hai nguồn cảm hứng mới: yêu đương và tuổi xuân.

    + Dù lúc vui hay lúc buồn, Xuân Diệu cũng ru thanh niên bằng giọng yêu đời thấm thía.

- Cần vận dụng câu nói đó vào trường hợp bài thơ Vội vàng của ông, có nghĩa là phân tích bài thơ đế làm sáng tỏ nhận định của Vũ Ngọc Phan. Cách vận dụng như sau:

    + Trong bài Vội vàng, ý "yêu đương" chưa rõ, cần khai thác cảm hứng "tuổi xuân" (tức tuổi trẻ) để làm bài.

    + Chứng minh rằng, với cảm hứng "tuổi xuân" lúc nào Xuân Diệu cũng là thanh niên với giọng yêu đời thắm thiết. Cụ thể là:

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 11 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư