Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Tả đình làng hoặc một ngôi chùa ở địa phương em

4 trả lời
Hỏi chi tiết
702
1
1
Nguyễn Thị Nhung
15/11/2018 19:01:30
Làng Vân Xá có ngôi đình cổ, nổi tiếng gần xa.
Mái đình có hình lưỡng long chầu nguyệt, có chim phượng bay lên ở bốn góc mái đình uốn cong. Cột đình bằng gỗ lim cao to đồ sộ. Hoành phi, câu đối trong đình sơn son thếp vàng tráng lệ. Trống đình to bằng bụng con voi.
Sân đình rộng thênh thang, lát bằng gạch Bát Tràng đỏ au, có rất nhiều tượng đá: Rùa lổm ngổm bò, ngựa đá rũ bờm, voi đá giương ngà nhọn hoắt như đang gầm, đang hí. Hai ông Hộ pháp tay cầm cung, ưỡn bụng khoe cái rốn lồi bằng quả cam.
Năm nào cũng vậy, cứ đến rằm tháng giêng, làng em lại làm lễ tế thần. Làng làm cỗ to, giết 5 lợn, 3 bò. Ai cũng có phần xôi thịt. Tiếng trống đình vang dội suốt đêm ngày.
Em yêu nhất cây đa cổ thụ, cành lá che rợp mái đình. Lúc nào cũng có hàng trăm con chim kéo về tụ hội. Ao sen đình Vân mùa hè đẹp lắm. Trên đường đi học, hương sen làm em ngất ngây say.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
2
Phạm Thu Thuỷ
15/11/2018 19:03:31
Đình và chùa làng là hai biểu tượng của làng quê đã có từ ngàn xưa khi người Việt Nam bắt đầu dựng nước, dựng làng. Nếu đình là nơi cúng kỵ những người có công dựng làng thì chùa là nơi thờ Phật để dân làng lễ bái, tu thân, trau dồi đức hạnh, ăn hiền ở lành, để phước để đức lại cho con cháu. Đó là đời sống tinh thần thiết thân của người Việt Nam mà nếu không có nó thì mất đi ý nghĩa của một làng,
Tại mỗi làng quê, trải qua thời gian, mưa nắng vẫn giữ được những ngôi chùa, đình, đền có niên đại hàng trăm năm tuổi. Từ lâu, nét đẹp về làng quê bình dị, thân thương với mái đình, giếng nước, ngôi chùa, cây đa đã bước vào văn học, đi sâu vào bao nhiêu người con của làng xã dù có đi xa vẫn mãi thổn thức, in đậm về hình ảnh quê nhà.
Phật giáo du nhập vào Việt Nam được người Việt Nam tiếp nhận và đã góp phần tạo nên nét đặc sắc của văn hóa Việt Nam. Trong tiến trình thành lập làng xã ở vùng Bắc Bộ hay trong tiến trình thành lập làng xã trong cuộc Nam tiến, người Việt Nam định cư tới đâu, lập làng ở đâu là dường như dựng chùa ở đó. Những ngôi chùa được xây dựng trở thành nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh của người dân và có khi trở thành nét đẹp, biểu tượng trong tâm hồn những người con của làng, xã.
Cùng với đình, cha ông ta thường đặt chùa ở vị trí đắc địa, trung tâm của làng. Người xưa tin rằng sự yên ổn của ngôi chùa có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân trong làng. Ngày trước, đình làng là nơi tụ họp, gặp gỡ bàn những công việc trọng đại trong làng và chỉ dành cho các đấng nam nhi, còn chùa là nơi luôn mở rộng cửa đón nhận tất cả mọi người. Ngôi chùa làng đã in dấu trong tâm trí của bao thế hệ với hình ảnh thầy trụ trì hiền hậu với tiếng chuông chùa sớm chiều vang lên trong không gian quê yên bình, dường như nhắc nhở mọi người hãy sống thuận hòa, biết chăm lo cày cấy để có cuộc sống no ấm.
Ở những ngôi chùa làng, trước sân điện thờ, thường có những cây cổ thụ tỏa bóng mát tạo thêm không gian u tịch, cổ kính cho ngôi chùa. Theo các cụ xưa, trước khi xây chùa đã phải định vị trí trồng cây trước điện thờ với những loại cây như cây đại, cây đa để khi chùa dựng xong đã có bóng mát của cây xanh tỏa xuống. Tuổi thơ nhiều người đã từng gắn bó với sân chùa, cây đa, gốc đại với những kỷ niệm đẹp. Nét trầm lặng, u tịch, rêu phong của những ngôi chùa làng còn thể hiện ở đó nét đẹp và chiều sâu văn hóa với những nét đặc trưng về kiến trúc, điêu khắc, lịch sử của làng nói riêng và của đất nước nói chung.
Tôi còn nhớ, thuở bé thơ thường theo bà lên chùa vào những ngày Mồng Một, ngày Rằm hàng tháng. Bà tôi ăn mặc chỉnh tề với chiếc áo nâu quen thuộc. Trên con đường làng quanh co tôi theo bà đi lễ, qua cổng tam quan to rộng đến sân điện thờ tam bảo. Mọi người lặng lẽ cầu mong, khấn vái Đức Phật. Không gian yên tĩnh, tiếng chuông chùa ngân vang cùng nhịp mõ đều đều của vị sư già trong buổi tụng kinh chiều làm cho tâm người đi lễ thật thanh thản, hướng thiện. Đến đây dường như mọi sự ồn ào và sự hỗn tạp của đời sống như tan biến. Và đôi khi những khó khăn, trở ngại trong cuộc sống của những người dân thôn dã được giãi bày, tâm sự sẻ chia. Lúc này, các vị sư trụ trì như những “nhà tư vấn” giúp họ tâm an và có động lực vượt qua những vướng mắc khó khăn của cuộc sống. Đạo và đời như gắn kết thêm, tạo niềm tin cho họ sống tốt hơn. Do đó chùa làng là của chung, nhưng ai cũng có cái riêng trong đó, tâm tư tình cảm riêng và cả những kỷ niệm riêng mình. Và cứ thế hệ này qua thế hệ khác, tình cảm của người dân đối với ngôi chùa làng lại dày thêm theo năm tháng.
Trên con đường về các làng quê Việt, đặc biệt ở đồng bằng Bắc bộ, chúng ta có thể thấy ngôi chùa làng hiện ra xa xa mờ ảo trong làn sương khói dưới những tán cây cổ thụ. Hình ảnh đó gợi trong lòng kẻ tha hương nỗi rộn ràng náo nức. Tiếng chuông chùa ngân nga mỗi hoàng hôn như lưu giữ tình quê, cho ai dù ở bốn phương trời, nhớ về quê cũ vẫn mong được nghe một tiếng chuông chùa, ngắm nhìn làng quê trong buổi chiều hôm với những cánh cò vội vã bay về tổ ấm.
2
0
Nguyễn Tấn Hiếu
15/11/2018 19:42:23
Chùa Keo, một khu chùa cổ tuyệt vời, một tác phẩm tiêu biểu, đặc sắc của nghệ thuật kiến trúc Việt Nam.
Chùa Keo tên chữ là chùa Thần Quang, nằm ở Vũ Thư, Thái Bình. Theo sử cũ, chùa Keo được xây dựng từ thời nhà Lý Thánh Tông, đến nay đã nhiều lần trùng tu.
Trong những di tích còn lại thì chùa Keo là một di tích có quy mô to lớn. Có lẽ ở nước ta chưa có một ngôi chùanào lại được tới 57.000m2 với 107 gian chùa lớn (trước là 154 gian) làm toàn bằng gỗ lim. Những con đường dài hàng trăm mét, lát toàn đá xanh rộng gần 2m và 350 vây cột lim lớn nhỏ, đều được kê trên những hòn đá tảng lớn, cổ bồng, chạm cánh sen.
Toàn bộ khu chùa là một quần thể kiến trúc lớn, gồm cột cờ, sân lát đá, tam quan ngoài, ao trước chùa, tam quan trong, sân đất, chùa Hộ, chùa Phật, sân gạch, tòa Giá Roi, tòa Thiên Hương, tòa Phục quốc, tòa Thượng Điện, gác chuông, nhà Tổ… Ngoài ra, là hai dãy hành lang dài hai bên, từ chùa Hộ trở vào.
Tổ chức không gian kiến trúc ở đây thật tài tình, phức tạp một cách trật tự, theo kiểu "tiền Phật hậu Thần”. Khu chùa phía trước và khu đền thờ Không Lộ thiền sư phía sau. Bố cục kiến trúc dường như là phá quy luật, như việc đặt gác chuông ba tầng vào cuối dây chuyền của quần thể. Kiến trúc của gác chuông là sự đồ sộ của hình khối, sự phong phú hài hòa của nhịp điệu và chi tiết, chỉ ba tầng cao 11,06m nhưng lại gây được ấn tượng đồ sộ. Bốn cây cột lim chính cao suốt hai tầng, cùng với hệ thống cột niên và những hàng lan can con tiện, đã được kết nối khéo léo. Các tảng cột gác chuông thuần bằng đá, tạc kiểu hình đôn lớn, chạm hình hoa sen kép rất đẹp. Độc đáo nhất là hệ thống dui bay, tầng tầng lớp lớp vươn lên đỡ mái. Các đầu dui bay phía ngoài vươn ra, choãi xuống theo chiều mái, làm tăng thêm chiều cao của công trình. Đứng xa trông như 200 cánh tay Phật Bà Quan Âm từ mái tầng hai, tầng ba vươn ra vẫy chào khách thập phượng! Tôi đã thấy những người khách nước ngoài dừng lại hàng giờ trước tòa gác chuông ba tầng này, sửng sốt và ngắm nghía mãi tầng tầng lớp lớp mái cong cổ kính và hàng ngàn bộ phận chạm trổ tinh vi, mà ngay đến những người thợ lành nghề nhất được mời đến trùng tu cũng không biết hết tên gọi!
Trong gác chuông có treo hai quả chuông niên đại: Hoàng Triều Cảnh Thịnh Tứ Niên, một di tích quý về sự nghiệp “văn trị” của triều Tây Sơn trên đất Thái Bình. Quai đỉnh chuông đúc từ thời Tây Sơn rất đẹp, chạm hình hai con rồng hối đuôi nhau. Ớ gác một chùa Keo có một khánh đá rất to, không biết đục từ bao giờ, tiếng khánh âm vang.
Hầu như bất cứ bộ phận kiến trúc nào của chùa Keo cũng thấy dấu vết của những bàn tay chạm khắc khéo léo. Ngay ở tam quan nội, một công trình tưởng như nhỏ, nhưng hai cánh cửa trung quan cung được chạm khắc rất công phu. Cánh cửa cao 2,4m, mỗi cánh rộng 1,2m, được chạm một đôi rồng chầu bán nguyệt. Rồng ở đây to, khỏe. Con lớn vươn cổ lên, miệng ngậm hạt châu, râu bờm uốn sóng, rồi choái ra thành những hình lưỡi mác, ngực rồng ưỡn về phía trước, đuôi vắt lên đỉnh tấm cửa. Hàng trăm đám mây lửa ngùn ngụt bốc lên. Rồng như bay lượn trong biển lửa. Có lẽ những người thợ tài ba muốn kí thác những dấu vết của lịch sử trong bức chạm gỗ này. Khép hai cánh cửa lại, chúng ta nhìn thấy một bức tranh hoàn chỉnh: rồng chầu nguyệt. Cái khéo của bức chạm này là trên cùng một mặt phang, người thợ đã chạm những vết nổi, hét chìm, con rồng to, rồng nhỏ, gần xa, như cả một bầy rồng bay thong dong trong mây.
Hàng năm, “xuân thu nhị kì” vào ngày 4 tháng giêng và trung tuần tháng 9 âm lịch, khách thập phương cuồn cuộn đổ về dự hội chùa. Từ xa, trên đế sông Hồng, mọi người đã nhìn thấy lá cờ thần to bằng gian nhà, bay trên đỉnh cột cờ cao 21m. Cột cờ lớn chốt vào bệ đá sâu hàng mét, vậy mà cờ bay còn rúng cả cột!
Dù cho cha đánh, mẹ treo
Cũng không bỏ hội chùa Keo hôm rằm…
Chưa đến chùa Keo, xin mời bạn hãy đến một lần…
1
0
Nhok Phượng Núi
17/11/2018 17:58:14
Khi nói đến Hà Nội, mọi người sẽ nghĩ ngay tới những danh lam thắng cảnh nổi tiếng nơi đây, nào là : Văn Miếu Quốc Tử Giám, Hồ Hoàn Kiếm, Đền Ngọc Sơn, chùa Trấn Quốc…Nhưng chúng ta cũng không thể không nhắc tới những ngôi chùa linh thiêng bậc nhất ở nơi đây và ngôi chùa được xếp hạng di tích Quốc gia đặc biệt. Hàng năm nơi đây thu hút nhiều du khách cả trong và ngoài nước đến tham quan, lễ phật.
Danh lam thắng cảnh Chùa Tây Phương nay thuộc địa phận xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất . Ngôi chùa nằm trên đỉnh đồi Câu Lậu – Vị trí có rất nhiều cảnh đẹp thanh tao, tự nhiên và vô cùng hữu tình. Theo những tài liệu sách sử ghi lại về Chùa Tây Phương có nói rằng, núi Chùa Tây Phương trước đây có tên gọi cũ là núi Ngưu Lĩnh hay còn gọi là núi con trâu. Chùa Tây Phương hiện nay mang kiểu kiến trúc cổ Việt Nam mang dáng dấp “Thượng Sơn lâu đài, hạ sơn lưu thủy”. Có nhiều tài liệu sử sách lưu truyền rằng Chùa Tây Phương được xây dựng từ rất lâu đời nhưng người ta không rõ chính xác vào thời điểm nào và do người nào xây dựng nó. Trải qua bao cuộc chiến tranh cùng với sự bào mòn của thời gian, danh lam thắng cảnh chùa Tây Phương đã phải chịu sự tàn phá, những hậu quả thảm khốc của chiến tranh nhưng ngôi chùa đã được trung tu, sửa chữa lại vào thế kỉ mười sáu, mười bảy, mười tám và những dấu mốc khác nữa được sử sách ghi lại đến ngày hôm nay. Năm 1554, chùa được xây dựng lại trên nền cũ. Năm 1632, chùa xây dựng thêm thượng điện ba gian và hậu cung cùng hành lang hai mươi gian. Còn vài năm 1660, Tây Đô Vương Trịnh Tạc cho xây lại chùa Tây Phương mới. Cuối cùng vào năm 1794, dưới thời nhà Tây Sơn, chùa lại được tu sửa hoàn toàn với tên mới “Tây Phương cổ tự” đồng thời được đúc một quả chuông nặng tới 200kg.
Từ chân núi lên tới cổng chùa chinh phải qua 239 bậc đá ong. Chùa gồm ba nếp nhà song song được xây dựng theo lối kiến trúc kiểu chữ Tam gồm chùa Hạ, chùa Trung, chùa Thượng, ba ngôi chùa này đã tạo nên một quần thể uy nghi, vững trãi. Mái chùa được lợp hai lớp ngói và có những hoa văn trạm trổ vô cùng tinh tế. Toàn bộ bức tường của chùa Tây Phương được xây dựng bằng gạch Bát Tràng nung đỏ, để trần, kết hợp hài hòa với màu sắc của gỗ đá trong khuân viên chùa. Ngoài ra, chùa Tây Phương còn nổi tiếng với nhiều pho tượng phật được coi là kiệt tác hiếm có của nghệ thuật điêu khắc Việt Nam, đặc biệt là của tôn giáo. Theo một vài sử sách, trong đó nói rằng nguồn gốc của những pho tượng phật ở Chùa Tây Phương chính là hiện thực cuộc sống nghèo nàn, cực khổ mà nhân dân phải chịu đựng ở thế kỉ 18. Chùa có 72 pho tượng được tạc bằng gỗ mít sơn son thiếp vàng. Trong đó 18 pho tượng thuộc nhóm La Hán chính là hình tượng đã được các nghệ nhân điêu khắc mượn sự tích tu hành của các vị đệ tử Phật Giáo nhằm mô tả những con người sống trong xã hội đương thời. Dưới những bàn tay tài hoa của các nghệ nhân, mỗi pho tượng hiện ra mỗi một vẻ, một phong cách khác nhau với những hình dáng vô cùng sinh động. Danh lam thắng cảnh Chùa Tây Phương còn là địa điểm thăm quan, lễ phật hàng năm của rất nhiều phật tử và du khách trong và ngoài nước. Lễ hội chùa Tây Phương bắt đầu từ ngày mùng 6 đến mùng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm. Vào những ngày hội, chùa Tây Phương trở nên vô cùng đông đúc, ồn ào với những trò chơi, những lần thắp hương cầu Phật để mong có được sức khỏe, bình an cho gia đình, con cháu…
Chính vì sự độc đáo về kiến trúc, tính uy nghi của danh lam thắng cảnh chùa Tây Phương, của những pho tượng cùng những lễ hội truyền thống rộn ràng bản sắc dân tộc làm cho chùa Tây Phương trở thành một địa điểm tham quan không thể thiếu của khách di lịch và là ngôi chùa linh thiêng bậc nhất của Hà Nội. Chính vì vậy, năm 1962, chùa Tây Phương được Bộ Văn Hóa công nhận là di tích lịch sử văn hóa Quốc Gia.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Trắc nghiệm Tiếng Việt Lớp 5 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k