Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Thuyết minh về đặc điểm của thể thơ lục bát

32 trả lời
Hỏi chi tiết
2.841
6
2
Trịnh Quang Đức
25/12/2017 19:44:49
Đề 1 :
Lục bát là một trong hai thể loại thơ chính của Việt Nam (lục bát và song thất lục bát). Thơ lục bát ở Việt Nam được truyền bá và phát triển hàng trăm năm nay. Thơ lục bát đã thấm đẫm tâm hồn người Việt chúng ta vì đó là thể thơ trong ca dao, đồng dao và các bài ru con. Ngày nay thơ lục bát vẫn được các nhà thơ hiện đại tiếp thu, hoàn chỉnh và giữ một vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Thơ lục bát rất giản dị về quy luật, dề làm thưòng dùng để diễn tả những cung bậc cảm xúc khác nhau trong tâm hồn con người.
Thơ lục bát có nguồn gốc lâu đời, là một thể thơ dân tộc ta, thơ lục bát bao gồm có thể từ hai câu trở lên. Trong đó thì cứ hai câu ghép lại thành một cặp câu. Các cặp câu gồm có một câu 6 tiếng (câu lục) và một câu 8 tiếng (câu bát), và xen kẽ cứ câu lục là câu bát rồi đến cặp câu khác, số câu trong bài không giới hạn. Thông thường thì bắt đầu bằng câu sáu chừ và chấm dứt ớ câu tám chữ. Nhưng cũng có khi kết thúc bằng câu sáu để đạt tính cách lơ lừng, thanh và vân, vì vậy tìm hiêu thơ lục bát là tìm hiểu về luật và vần của nó. Luật về thanh giúp cho câu thơ trở nên hài hoà. Các vần chính là hình thức kết dính các câu thơ lại với nhau.
Luật thanh trong thơ lục bát: Thơ lục bát có 2 câu chuẩn là câu lục và câu bát, cũng như thơ Đường luật, nó tuân thủ quy tắc nhất, tam, ngũ bất luận; nhị, tứ, lục phân minh. Nghĩa là các tiếng thứ 1, 3, 5 trong câu có thể tự do vê thanh, nhưng các tiêng thứ 2, 4, 6 thì phải theo luật chặt chẽ. Luật như sau:
Câu lục: theo thứ tự tiếng thứ 2-4-6 là Bằng (B) - Trắc (T) - Bằng
Câu bát: theo thứ tự tiếng thứ 2-4-6-8 là B-T-B-B
Ví dụ:
Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân (B-T-B)
Bâng khuâng nhớ Cụ, thương thân nàng Kiều (B-T-B-B)
(Tố Hữu)
Về phối thanh, chỉ bắt buộc các tiếng thứ tư phải là trắc, các tiếng thứ hai, thứ sáu, thứ tám phải là băng, nhưng trong câu tám các tiếng thứ sáu thứ tám phải khác dấu, nếu trước là dấu huyền thì sau phải là không dấu hoặc ngược lại:
Một cây làm chăng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao
Thế nhưng đôi khi có thể tự do về tiếng thứ hai của câu lục hay câu bát, có thê biên nó thành thanh trắc. Hoặc là câu lục giữ nguyên mà câu bát thì lại theo thứ tự T-B-T-B những câu thơ thế này ta gọi là lục bát biến thể.
Ví dụ:
Có xáo thì xáo nước trong T-T-B
Đừng xảo nước đục đau lòng cò con T-T-B-B
Hay:
Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non T-B-T-B
Cách gieo vần trong thơ lục bát: Thơ lục bát có cách gieo vần khác với các thơ khác. Có nhiều vần được gieo trong thơ nhiều câu chứ không phải là một vần, điều này tạo cho thơ lục bát tính linh hoạt về vần. Thể thơ lục bát thường được gieo vần bằng; tiếng cuối của câu lục hiệp với tiếng thứ sáu của câu bát, tiếng thứ sáu của câu bát hiệp với tiếng của câu lục tiếp; cứ như thế đến hết bài lục bát:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thay mà đau đớn lòng.
Như thế ngoài vần chân có ở hai câu 6 8, lại có cả vần lưng trong câu tám .Tiểu đối trong thơ lục bát: Đó là đôi thanh trong hai tiêng thứ 6 (hoặc thứ 4) của câu bát với tiếng thứ 8 câu đó. Nếu tiếng này mang thanh huvên thì tiếng kia bắt buộc là thanh ngang và ngược lại.
Ví dụ:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Ngoài đối thanh còn có đối ý:
Dù mặt lạ, đã lòng quen
(Bích câu kì ngộ)
Cách ngắt nhịp trong thơ lục bát: Thơ lục bát thông thường ngắt nhịp chẵn, là nhịp 2/2/2, hoặc 4/4 để diễn tả những tình cảm thương yêu, buồn đau...
Người thương/ơi hỡi/ người thương
Đi đâu /mà để /buồng hương/ lạnh lùng
Đôi khi để nhấn mạnh nên người ta đổi thành nhịp lẻ đó là nhịp 3/3: Chồng gì anh/ vợ gì tôi Chẳng qua là cái nợ đòi chi đây Khi cần diễn đạt những điều trắc trở, khúc mắc, mạnh mẽ, đột ngột hay tâm trạng bất thường, bất định thì có thể chuyển sang nhịp lẻ 3/3, 1/5, 3/5... Thể thơ lục bát với cách gieo vần, phối thanh và nẹắt nhịp giản dị mà biến hóa vô cùng linh hoạt, phong phú và đa dạng, nó rất dồi dào khả năng diễn tả. Đa số ca dao được sáng tác theo thể lục bát. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu có hơn 90% lời thơ trong ca dao được sáng tác bằng thể thơ này.
Từ những đặc trưng cấu trúc ngữ nghĩa trên có thể thấy về cơ bản thể thơ lục bát vẫn là thể thơ nền nã, chỉnh chu với những quy định rõ ràng về vần nhịp, về số tiếng mồi dòng thơ, về chức năng đảm trách của mồi câu trong thể. Tuy vậy cũng có lúc câu lục tràn sang câu bát, câu lục và câu bát dài quá khổ, có khi xê dịch phối thanh, hiệp vần... đó là dạng lục bát biến thể. Sự biến đổi đó là do nhu cầu biểu đạt tình cảm ngày càng phong phú, đa dạne phá vỡ khuôn hình 6/8 thông thường. Tuy nhiên dù phá khuôn hình, âm luật, cách gieo vần của thể thơ lục bát cơ bản vẫn giữ nguyên. Đó là dấu hiệu đặc trưng cho ta nhận biết nó vẫn là thể lục bát.
Bên cạnh lục bát truyền thống còn có lục bát biến thể là những câu có hình thức lục bát nhưng không phải trên sáu dưới tám mà có sự co giãn nhất định về âm tiết về vị trí hiệp vần... Hiện tượng lục bát biến thể là vàn đề đáng chú ý tronẹ ca dao, chúng ta có thể xem xét một số trườne hợp: Lục bát biến thể tăng, tiếng lục bát biến thể giảm số tiếng.
Xét về mặt nội dung thơ lục bát diễn đạt tâm trạng nhiều chiều của nhàn vật trữ tình. Thông thường người bình dân hay mượn thể loại văn vần này đê bày tỏ nôi lòng, tâm trạng của mình trong cuộc sông, sinh hoạt, tình yêu...
do vậy thể thơ chủ yêu của ca dao vần là thể lục bát vì nó có khả năng diễn đạt tât thảy những cung bậc cảm xúc như: tình yêu trai gái, tình yêu gia đình, xóm làng, yêu đông ruộng, đât được, yêu lao động, yêu thiên nhiên.... Dân tộc nào cũng có một thể thơ, một điệu nhạc phù hợp với cách điệu cuộc sống của dân tộc đó. Lục bát là thê thơ hài hoà với nhịp đập của con tim, nếp nghĩ, cách sinh hoạt của người dân Việt Nam. Ca dao, tiếng nói mang đầy âm sắc dân tộc cũng được chuyên tải băng lục bát. Việc sáng tạo thê thơ độc đáo này thể hiện đời sống tinh thần phong phú của người bình dân, rất nhiều nhà thơ thành công nhờ thể thơ này. Những truyện thơ vĩ đại nhất của Việt Nam như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên đều được thể hiện bằng hình thức thơ Lục bát. Sau này các nhà thơ hiện đại cũng đã rất thành công khi vận dụng thể lục bát trong các sáng tác của mình. Nguyễn Bính, Đồng Đức Bốn tiêu biểu cho dòng lục bát dân gian. Dòng lục bát trí tuệ có thể xem Lửa thiêng của Huy Cận trong phong trào Thơ Mới là thành tựu mở đầu. Dòng lục bát hiện đại có Bùi Giáng, Nguyễn Duy, Tố Hữu...
Bởi cái chất duyên dáng, kín đáo, không ồn ào của lối nghĩ phương Đông, lục bát đã giữ cho mình luôn có cái vẻ nên nã. Ngày nay thể lục bát vẫn là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
2
Nhã Doanh Doanh
25/12/2017 19:44:51
Lục bát là một trong hai thể loại thơ chính của Việt Nam (lục bát và song thất lục bát). Thơ lục bát ởViệt Nam được truyền bá và phát triển hàng trăm năm nay. Thơ lục bát đã thấm đẫm tâm hồn người Việt chúng ta vì đó là thể thơ trong ca dao, đồng dao và các bài ru con. Ngày nay thơ lục bát vẫn được các nhà thơ hiện đại tiếp thu, hoàn chỉnh và giữ một vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Thơ lục bát rất giản dị về quy luật, dễ làm, thường dùng để diễn tả những cung bậc cảm xúc khác nhau trong tâm hồn con người.
Thơ lục bát có nguồn gốc lâu đời, là một thể thơ dân tộc ta, thơ lục bát bao gồm có thể từ hai câu trở lên. Trong đó thì cứ hai câu ghép lại thành một cặp câu. Các cặp câu gồm có một câu 6 tiếng (câu lục) và một câu 8 tiếng (câu bát), và xen kẽ cứ câu lục là câu bát rồi đến cặp câu khác, số câu trong bài không giới hạn. Thông thường thì bắt đầu bằng câu sáu chữ và chấm dứt ở câu tám. Nhưng cũng có khi kết thúc bằng câu sáu để đạt tính cách lơ lửng, hiểu ngầm, hay diễn đạt sự đột ngột. Thơ lục bát cũng cần tuân thủ luật về thanh và vần, vì vậy tìm hiểu thơ lục bát là tìm hiểu về luật và vần của nó. Luật về thanh giúp cho câu thơ trở nên hài hoà. Các vần chính là hình thức kết dính các câu thơ lại với nhau.
Luật thanh trong thơ lục bát; Thơ lục bát có 2 câu chuẩn là câu lục và câu bát, cũng như thơ Đường luật, nó tuân thủ quy tắc nhất, tam, ngũ bất luận; nhị, tứ, lục phân minh. Nghĩa là các tiếng thứ 1,3,5 trong câu có thể tự do về thanh, nhưng các tiếng thứ 2,4,6 thì phải theo luật chặt chẽ. Luật như sau:
Câu lục: theo thứ tự tiếng thứ 2-4-6 là Bằng (B) - Trắc (T) - Bằng
Câu bát: theo thứ tự tiếng thứ 2-4-6-8 là B-T-B-B
Ví dụ:
Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân (B - T - B)
Bâng khuâng nhớ Cụ, thương thân nàng Kiều (B-T-B-B)
(Tố Hữu)
Về phối thanh, chỉbắt buộc các tiếng thứ tư phải là trắc, các tiếng thứ hai, thứ sáu, thứ tám phải là bằng, nhưng trong câu tám các tiếng thứ sáu thứ tám phải khác dấu, nếu trước là dấu huyền thì sau phải là không dấu hoặc ngược lại:
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao
Thế nhưng đỏi khi có thể tự do về tiếng thứ hai của câu lục hay câu bát, có thể biến nó thành thanh trắc. Hoặc là câu lục giữ nguyên mà câu bát thì lại theo thứ tự T-B-T-B những câu thơ thế này ta gọi là lục bát biến thể.
Ví du:
Có xáo thì xáo nước trong T-T-B
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con T-T-B-B
Hay:
Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non T-B-T-B
Cách gieo vần trong thơ lục bát: Thơ lục bát có cách gieo vần khác với các thơ khác. Có nhiều vần được gieo trong thơ nhiều câu chứ không phải là một vần, điều này tạo cho thơ lục bát tính linh hoạt về vần. Thể thơ lục bát thường được gieo vần bằng; tiếng cuối của câu lục hiệp với tiếng thứ sáu của cậu bát, tiếng thứ sáu của câu bát hiệp với tiếng của câu lục tiếp; cứ như thế đến hết bài lục bát:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Như thế ngoài vần chân có cả ở hai câu 6, 8lại có cả vần lưng trong câu tám. Tiểu đối trong thơ lục bát: Đó là đối thanh trong hai tiếng thứ 6 (hoặc thứ 4) của câu bát với tiếng thứ 8 câu đó. Nếu tiếng này mang thanh huyền thì tiếng kia bắt buộc là thanh ngang và ngược lại.
Ví dụ:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Ngoài đối thanh còn có đối ý:
Dù mặt lạ, đã lòng quen
(Bích câu kì ngộ)
Cách ngắt nhịp trong thơ lục bát: Thơ lục bát thông thường ngắt nhịp chẵn, là nhịp 2/2/2, hoặc 4/4 để diễn tả những tình cảm thương yêu, buồn đau...
Người thương/ ơi hỡi/ người thương
Đi đâu/ mà để/ buồng hương/ lạnh lùng
Đôi khi để nhấn mạnh nên người ta đổi thành nhịp lẻ đó là nhịp 3/3:
Chồng gì anh/ vợ gì tôi
Chẳng qua là cái nợ đời chi đây
Khi cần diễn đạt những điều trắc trở, khúc mắc, mạnh mẽ, đột ngột hay tâm trạng bất thường, bất định thì có thể chuyển sang nhịp lẻ 3/3, 1/5, 3/5...
Thể thơ lục bát với cách gieo vần, phối thanh và ngắt nhịp giản dị mà biến hóa vô cùng linh hoạt, phong phú và đa dạng, nó rất dồi dào khả năng diễn tả. Đa số ca dao được sáng tác theo thể lục bát. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu có hơn 90% lời thơ trong ca dao được sáng tác bằng thểthơ này
Từ những đặc trưng cấu trúc ngữ nghĩa trên có thể thấy về cơ bản thểthơ lục bát vẫn là thể thơ nền nã, chỉnh chu với những quy định rõ ràng vềvần nhịp, về số tiếng mỗi dòng thơ, về chức năng đảm trách của mỗi câu trong thể. Tuy vậy cũng có lúc câu lục tràn sang câu bát, câu lục và câu bát dài quá khổ, có khi xê dịch phối thanh, hiệp vần... đó là dạng lục bát biến thể. Sự biến đổi đó là do nhu cầu biểu đạt tình cảm ngày càng phong phú, đa dạng phá vỡ khuôn hình 6/8 thông thường. Tuy nhiên dù phá khuôn hình, âm luật, cách gieo vần của thể thơ lục bát cơ bản vẫn giữ nguyên. Đó là dấu hiệu đặc trưng cho ta nhận biết nó vẫn là thể lục bát.
Bên cạnh lục bát truyền thống còn có lục bát biến thể là những câu có hình thức lục bát nhưng không phải trên sáu dưới tám mả có sự co giãn nhất định về âm tiết về vị trí hiệp vần...Hiện tượng lục bát biến thể là vấn đề đáng chú ý trong ca dao, chúng ta có thể xem xét một số trường hợp: lục bát biến thể tăng, tiếng lục bát biến thể giảm số tiếng.
Xét về mặt nội dung thơ lục bát diễn đạt tâm trạng nhiều chiều của nhân vật trữ tình. Thông thường người bình dân hay mượn thể loại văn vần này để bày tỏ nỗi lòng, tâm trạng của mình trong cuộc sống, sinh hoạt, tình yêu... do vậy thể thơ chủ yếu của ca dao vẫn là thể lục bát vì nó có khảnăng diễn đạt tất thảy những cung bậc cảm xúc như: tình yêu trai gái, tình yêu gia đình, xóm làng, yêu đồng ruộng, đất đai, yêu lao động, yêu thiên nhiên.... Dân tộc nào cũng có một thể thơ, một điệu nhạc phù hợp với cách điệu cuộc sống của dân tộc đó. Lục bát là thể thơ hài hoà với nhịp đập của con tim, nếp nghĩ, cách sinh hoạt của người dân Việt Nam. Ca dao, tiếng nói mang đầy âm sắc dân tộc cũng được chuyển tải bằng lục bát. Việc sáng tạo thể thơ độc đáo này thể hiện đời sống tinh thần phong phú của người bình dân, rất nhiều nhà thơ thành công nhờ thể thơ này. Những truyện thơ vĩ đại nhất của Việt Nam như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên đều được thể hiện bằng hình thức thơ Lục bát. Sau này các nhà thơ hiện đại cũng đã rất thành công khi vận dụng thể lục bát trong các sáng tác của mình. Nguyễn Bính, Đồng Đức Bốn tiêu biểu cho dòng lục bát dân gian. Dòng lục bát trí tuệ có thể xem Lửa thiêng của Huy Cận trong phong trào Thơ Mới là thành tựu mở đầu. Dòng lục bát hiện đại có Bùi Giáng, Nguyễn Duy, Tố Hữu...
Bởi cái chất duyên dáng, kín đáo, không ồn ào của lối nghĩ phương Đông, lục bát đã giữ cho mình luôn có cái vẻ nền nã. Ngày nay thể lục bát vẫn là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.
1
0
Trịnh Quang Đức
25/12/2017 19:45:58
Đề 2: Giới thiệu về ngôi trường em đang học?
Trả lời:
Dù bạn là ai, dù bạn ở nơi đâu, hay dù bạn đã đi xa nhưng kỉ niệm về một thời học sinh duới mái trưòng thân yêu- ngôi nhà thứ hai sẽ không phai nhạt trong kí ức của mỗi đứa học trò.Thật may mắn cho tôi đã đựoc gắn bó với ngôi trường mang tên Trường trung học cơ sở thị trấn pliekần.Một thời cắp sách đến truờng-đó là thời đẹp nhất, ngây thơ, trong sáng nhất với những kỉ niệm về thầy cô và bạn bè. Đựoc thành lập từ năm 2000.Trải qua chín năm hoạt động dạy học và học tập cố gắng của hơn tám tram học sinh và gần một trăm thầy cô giáo trường tôi đã xuất sắc là ngôi trường đứng đầu huyện.Nằm trên con đường hai bà trưng.Từ xa xa trên con đuờng đi học, có thể nhìn thấy trường tôi với tường vàng, mái ngói đỏ son.Trưòng tôi nằm ở một khuôn viên rông, thoáng đãng.Từ ngoai bước vào là cánh cổng kéo dài chào đón chúc tôi mỗi ngày, mở ra cho chúng tôi một thế giới kì diệu.Ngày ngày bên cánh cổng thân yêu đó là hình dáng của bác bảo vệ hiền lành, cởi mở đã gắn bó với trường tôi từ khi thành lập đến nay.Hoạt động thường ngày ở cổng trường trong gìơ hành chính là của các bạn đội cờ đỏ.Theo vào,hiện ra trước mắt là ba dãy phòng, mỗi dãy hai lầu.Dãy A là nơi làm việc của ban giám hiệu nhà truờng, của các thầy cô ở từng tổ chuyên môn,phòng truyền thống đội.Trường tôi có hai mươi chín lớp.Dãy B khu học chính của hai mươi tư lớp.Thêm bên dãy C là ba phòng học của năm lớp còn lại ,được sắp xếp học chéo buổi sáng chiều.Kéo dài ở dãy B là phòng hội truờng ở lầu trên-nơi diễn ra các buổi họp cũng như chuyên đề của nhà trường.Lầu dưới là phòng thực hành với đầy đủ các thiết bị thực hành của các tổ chuyên môn:Hoá-sinh, lý-công nghệ mới đuợc đua vào hoạt động.Kéo dài ở dãy C là khu vực đang đựoc xây dựng chuẩn bị được đưa vào hoạt động để làm phòng học cho các lớp bồi dưỡng và phụ đạo.Mỗi phòng học của từng lớp đuợc xây dựng rỗng rãi với đầy đủ các thiết bị quạt và điện sáng.Thư viện,phòng đa chức năng và phòng thực hành tin học đựoc sắp xếp cùng ở dãy C.Nơi để xe của các thầy cô giáo được xếp ở góc trái của ngôi trường, khu để xe của học sinh đựoc sếp dài theo từng lớp ở sau dãy B phòng học. Nơi tiếng cười của mỗi đứa học trò chúng tôi vang lên là ở sân trường, nơi chúng tôi được thả mình vào niềm vui của học trò.Có thể là khu vực trung tâm của ngôi trường nên được xây dựng khá rộng láng xi măng.Cột cờ của truờng tôi được đặt ở chính giữa trứoc dãy A-nơi mà mỗi sáng thứ haui chào cờ thầy trò chúng tôi cùng đánh giá nhận xét kết quả hoạt động trong tuần cũng như triển khia kế hoạch tuần tới.Khuôn viên trường trở nên trong lành hơn trong những ngày nắng hè, tươi mát hơn trong những ngày trời thu là nhờ cây xanh.Cây tùng cứg cáp, dẻo dai qua ngày tháng.Cây phượng như là minh chứng cho chúng tôi vè những kỉ niệm trong sáng, thân thwong của bao bạn bè.Và nhiều loại cây khác nhau được trồng trong khu vực cảu sân truờng nữa.Sau dãy B là nơi mỗi buổi chiều học tập xong, các bạn thi nhau thể hiện mình ở các cuộc chơi thể thao như bóng đá, bòng chuyền và cả cầu lông.Tiếng reo hò cỗ vũ làm tan cái mệt mỏi của bao học trò sau một ngày học cang thẳng. Với quy mô nhà trường khang trang và rộng lớn, thầy cô giáo nhiệt tình với công việc, thân thiện với học sinh.Dùi dắt mỗi học sinh nên người với cả tâm huyết trường tôi đã đạt đựoc rất nhiều thành tích đựoc huyện và tỉnh công nhận.Trường trung học cơ sở thị trấn pleikần là trường xuất sắc dẫn đầu huyện đang cố gắng, nỗ lực chuẩn bị cho việc nhận bằng đạt trường chuẩn quốc gia sau nhiều năm phấn đấu.Ai nấy đều rất phấn khởi và tự hào về chính ngôi trường mà mình đang lớn lên. Trường tôi là thế đó: rất khiêm nhường, thân thiện, thầy cô và bạn bè hoà đồng với nhau và cùng nhau cố gắng phấn đấu không gừng.Tôi yêu quý ngôi trường này biết bao.Tất cả những kỉ niệm dưới ngôi nhà thứ hai này sẽ mãi theo tôi trên suốt cuộc đời.
2
0
Hà Thanh
25/12/2017 19:46:50
Bắt nguồn từ ca dao, dân ca, được phát triển qua các truyện thơ Nôm… thơ lục bát đã đạt đến sự hoàn thiện hoàn mĩ với Truyện Kiều của thiên tài Nguyễn Du. Trong thơ ca hiện đại, thơ lục bát vẫn được tiếp tục phát huy qua thơ Nguyễn Bính, Tố Hữu, Xuân Diệu, Nguyễn Duy, Trần Đăng Khoa… và nhiều nhà thơ khác, chứng tỏ sức sống mãnh liệt của nó trong lòng người đọc.
Có thể nói rằng không người Việt Nam nào mà lại không biết đến thơ lục bát, một thể thơ thuần túy dân tộc, xuất hiện đã hàng ngàn năm nay. Từ thuở nằm nôi, nằm võng, theo lời ru ngọt ngào của bà, của mẹ, thơ lục bát đã ngấm vào tim óc, làm nên đời sống tâm hồn phong phú của mỗi con người.
Nghiên cứu về đặc điểm của các thể thơ nói chung và thơ lục bát nói riêng, chúng ta cần lưu ý đến các mặt như: số tiếng, số câu, cách gieo vần, phối thanh và ngắt nhịp.
Đơn vị cơ bản của thơ lục bát gồm một cặp câu: câu lục (sáu tiếng) và câu bát (tám tiếng). Số câu trong bài không hạn định, ít nhất là hai, nhiều có thể lên tới hàng ngàn, vài ngàn câu như các truyện thơ Nôm mà tiêu biểu nhất là Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Trong ca dao, có những bài chỉ vẻn vẹn hai câu mà đủ sức thể hiện, khái quát một nội dung, một vấn đề nào đó của xã hội, hay một trạng thái tình cảm của con người. Bên cạnh đó là những truyện thơ lục bát trường thiên kể về bao biến cố trong suốt cuộc đời dài dằng dặc của nhân vật. Điều đó chứng tỏ độ dài ngắn của thơ lục bát là hoàn toàn phụ thuộc vào chủ định của người sáng tác.
Vần trong thơ lục bát có hai loại: vần lưng và vần chân. Hai dòng lục bát hiệp theo vần lưng có nghĩa là tiếng thứ sáu của câu lục vần với tiếng thứ sáu của câu bát. Nếu tiếp tục kéo dài thì tiếng thứ tám của câu bát lại vần với tiếng thứ sáu của câu lục bên dưới. Đó là vần chân. Ví dụ:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
(Việt Bắc – Tố Hữu)
Ngoài dạng lục bát nguyên thể như trên, còn có dạng lục bát biến thể đôi chút bằng cách thêm bớt một số tiếng hoặc xê dịch về cách hiệp vần hay phối thanh.
Ví dụ:
Cơm ăn mỗi bữa lưng lưng,
Uống nước cầm chừng, để dạ thương em.
(Ca dao)
Tiếng thứ sáu của câu lục lại vần với tiếng thứ tư của câu bát, tuy vậy đọc lên vẫn thấy du dương. Trường hợp thêm chữ như câu ca dao sau đây:
Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng,
Về sông ăn cá, về đồng ăn cua.
(Ca dao)
Câu lục đã được thêm vào hai tiếng (gió đẩy). Nếu bớt đi hai tiếng này thì hai câu lục bát trên sẽ trở lại dạng nguyên thể về vần, nó vẫn tuân thủ theo cách hiệp vần lưng.
Quy luật phối thanh của thơ lục bát khá linh hoạt, uyển chuyển. Thường thường thì các tiếng ở vị trí thứ hai, bốn, sáu, tám là thanh bằng, vị trí thứ tư là thanh trắc. Còn các tiếng ở vị trí lẻ một, ba, năm, bảy thì có thể là bằng hay trắc đều được cả.
Ví dụ:
Bần thần hương huệ thơm đêm
b t b
Khói nhang vẽ nẻo đường lên Niết Bàn
B t b b
Chân nhang lấm láp tro tàn
b t b
Xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào.
b t b b
(Mẹ và em – Nguyễn Duy)
Nếu ở câu lục có hiện tượng tiểu đối thì luật bằng trắc có thể thay đổi.
Ví dụ:
Khi tựa gối, khi cúi đầu,
t b b
Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Tiếng thứ hai thanh trắc, tiếng thứ tư thanh bằng, khác với cách phối thanh của câu lục bình thường.
Nhịp trong thơ lục bát phần lớn là nhịp chẵn, tạo nên âm điệu êm đềm, thong thả, thích hợp làm lời hát ru, hát ngâm.
Ví dụ:
Vì mây / cho núi / lên trời,
Vì chưng / gió thổi / hoa cười/ với trăng.
Hay:
Gió sao / gió mát / sau lưng
Dạ sao / dạ nhớ / người dưng / thế này ?
(Ca dao)
Nhưng khi cần biểu đạt một nội dung tư tưởng, tình cảm nhất định nào đó, người ta có thể biến đổi nhịp thơ cho thích hợp. Ví dụ như lời Thúy Kiều nói với Hoạn Thư trong cảnh Kiều báo ân báo oán:
Dễ dàng / là thói / hồng nhan,
Càng / cay nghiệt lắm / càng / oan trái nhiều Ị
 
 Rõ ràng là giọng đay nghiến, chì chiết khi Thúy Kiều nhắc tới máu ghen đáo để có một không hai của tiểu thư họ Hoạn.
Thơ lục bát đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của người dân Việt Nam. Cái hay, cái đẹp của nó là kết tinh tinh hoa ngôn ngữ tiếng Việt. Với những ưu điểm trong cách gieo vần, phối thanh, ngắt nhịp… biến hóa linh hoạt, uyển chuyển, thơ lục bát dễ nhớ, dễ đi sâu vào tâm hồn. Điều quan trọng là thơ lục bát đủ khả năng diễn tả đời sống tình cảm phong phú, đa dạng của người Việt. Cho đến nay, giữa rất nhiều thể thơ khác nhau, thì thơ lục bát vẫn có vị trí xứng đáng và vẫn được đông đảo bạn đọc yêu mến. Sau kiệt tác Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du đã tôn vinh thơ lục bát lên tới đỉnh cao của nghệ thuật thi ca, các bài thơ lục bát của Nguyễn Bính, Tố Hữu, Xuân Diệu, Nguyễn Duy, Trần Đăng Khoa và một số nhà thơ khác vẫn kế tục và phát huy thế mạnh của thể thơ thuần túy dân tộc, để thơ lục bát mãi mãi là niềm tự hào – là sản phẩm tinh thần vô giá của non sông, đất nước.
2
1
Trịnh Quang Đức
25/12/2017 19:47:55
Đề 3: giới thiệu về thủ đô Hà Nội
Trả lời: Khi nói về hai tiếng thiêng liêng “ Hà Nội” không ai không khỏi tự hào về mảnh đất hàng nghìn năm lịch sử và là nơi hàng triệu trái tim Việt Nam hướng về.
Hà Nội từng là kinh đô của hầu hết các vương triều Việt trước đây, vậy nên từ xưa, Hà Nội đã nổi tiếng là một trung tâm thương mại lớn: “Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến, hiện tại Hà Nội đang là Thủ đô của nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Hà Nội là thành phố lớn nhất Việt Nam về diện tích với 3328,9 km2 đồng thời cũng là địa phương đứng thứ nhì về dân số với 7.500.000 người. Hà Nội gồm 10 quận: Hoàn Kiếm, Ba Đình, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Tây Hồ, Thanh Xuân, Cầu Giấy, Long Biên, Hoàng Mai, Hà Đông; 18 huyện: Đông Anh, Sóc Sơn, Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm (Hà Nội cũ), Ba Vì, Chương Mỹ, Đan Phượng, Hoài Đức, Mỹ Đức, Phú Xuyên, Phúc Thọ, Quốc Oai, Thạch Thất, Thanh Oai, Thường Tín, Ứng Hòa (Hà Tây cũ), Mê Linh (từ Vĩnh Phúc) và 1 thị xã: Sơn Tây. Phía Bắc giáp Thái Nguyên, Vĩnh Phúc; phía Tây giáp Hòa Bình, Phú Thọ; phía Nam giáp Hà Nam, Hòa Bình; phía Đông giáp Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng Yên. Hà Nội hình thành từ năm 1010, khi Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra Đại La và được đạt tên là Thăng Long, xây dựng Hoàng Thành gọi là kinh thành. Năm 1428, Lê Lợi đánh thắng quân Minh, lên làm Vua, đặt tên nước là Đại Việt với kinh thành tên là Đông Đô. Năm 1805 Vua Gia Long đổi tên thành là Thăng Long. Năm 1831 vua Minh ,Mạng lập tỉnh Hà Nội.kinh đô dời vào Huế, song không thể phủ nhận về vùng đất kinh thành xưa là chốn ngang năm vạn vật. Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Hà Nội trở thành thủ đô của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Nói đến Hà Nội, chúng ta có thể nhắc đến các địa danh cực kì nổi bật như : Văn Miếu – Quốc Tử Giám là nơi thờ Khổng Tử, đặt bia tiến sĩ và cũng là trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Ngày nay, Văn Miếu – Quốc Tử giám trở thành điểm đến phổ biến của du lịch Hà Nội, là nơi trao bằng khen cho những học sinhsinh viên có thành tích xuất sắc. Các sĩ tử trước mỗi kỳ thi thường đến đây để cầu may ; Khu phố cổ, người ta vẫn luôn nhắc đến Hà Nội 36 phố phường với những ngôi nhà cổ và những con phố vẫn lưu giữ lại được dáng vẻ của chúng từ thế kỷ 19 như một điểm nhất của thủ đô Hà Nội. Hay Hồ Hoàn Kiếm, Chùa Một Cột, Nhà thờ lớn, Quảng trường Ba Đình – Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, làng gốm bát tràng…
Hà Nội cũng là một thành phố đặc biệt nhiều đầm hồ, dấu vết còn lại của các dòng sông cổ. Khí hậu Hà Nội mang đặc điểm của khí hậu nhiệt đới gió mùa. Do tính chất là một thành phố phát triển nên thành phố Hà Nội không ngừng đông dần lên với nhiều dân cư được nhập cư từ mọi miền của tổ quốc. Lịch sử lâu đời cùng nền văn hóa phong phú đã giúp Hà Nội có được kiến trúc đa dạng và mang dấu ấn riêng. Nhưng sau một thời gian phát triển thiếu quy hoạch, thành phố hiện nay tràn ngập những ngôi nhà ống trên các con phố lắt léo, những công trình tôn giáo nằm sâu trong các khu dân cư, những cao ốc bên các khu phố cũ. Cùng với sự phát triển của thủ đô, các lĩnh vực y tế, văn hóa và giáo dục luôn được đề cao. Học sinh luôn lựa chọn Hà Nội là nơi theo học sau khi tốt nghiệp 12 năm học phổ thông. Song song đó nhưng Hà Nội vẫn giữ cho mình những làng nghề truyền thống ( làng gốm Bát Tràng, hàng Bạc, làng lụa Vạn Phúc … ) hay những lễ hội truyền thống ( lễ hội chùa Hương, gò Đống Đa, lễ hội Triều Khúc… ) vẫn giữ được nét đẹp cho đến thời nay. Thứ luôn thu hút các du khách không thể không đến Hà Nội đó là ẩm thực. Không ai đến Hà Nội mà quên không thưởng thức phở Hà Nội, Hà Nội có những món ngon nổi tiếng như chả cá lã võng, bánh cuốn Thanh Trì, cốm làng Vòng …
Hà Nội vẫn luôn là một điểm hút đặc biệt, không chỉ do những thứ vốn có mà cả là những con người Hà Nội thân thiện và tốt bụng. Chúng ta hãy luôn luôn tự hào về một thủ đô nghìn năm có một.
1
0
Hà Thanh
25/12/2017 19:49:43
Đề 22: Giới thiệu về con cá chép
Sự đa dạng trong hệ sinh thái của đất nước Việt Nam thể hiện ở một hệ thống động thực vật vô cùng đa dạng, sống trên mặt đất có các loài động vật họ nhà chim, họ nhà thú như: chim đại bàng, chim chiền chiện, chim bồ câu…họ nhà thú có con hổ, con báo, con nai…Ở dưới nước có họ nhà giáp sát và họ nhà cá như tôm, cua… Trong thế giới của những loài động vật họ nhà cá cũng vô cùng đa dạng và phong phú, bởi chúng có sự khác nhau về hình dáng, đặc tính và các đặc điểm sinh lí đa dạng. Thuộc họ nhà cá, cá chép là một loài cá khá tiêu biểu, phổ biến đối với cuộc sống của con người.
Cá chép là loài động vật có vây sống ở môi trường nước, mà cụ thể ở đây chính là nước ngọt. Có sự phân biệt ở đây, bởi Việt Nam ta có hệ sinh thái phong phú, môi trường sống đa dạng, cá và các loài thủy sản cũng có thể sống trong ba môi trường nước phổ biến, đó là môi trường nước ngọt, đó là nước mà con người dùng trong sinh hoạt hàng ngày. Môi trường nước thứ hai chính là môi trường nước lợ, khu vực nước lợ thường có trong các khu rừng ngập mặn ở Đông Nam Bộ và vùng Nam Bộ Việt Nam, và môi trường nước cuối cùng chính là nước mặn, tức là nước biển.
Cá chép sống ở môi trường nước ngọt, vì vậy mà chúng mang những đặc tính của cá sống ở vùng nước ngọt, cứng cáp, và thích nghi với điều kiện khí hậu nóng ẩm mưa nhiều. Cá chép khi xưa thường sinh sống ở các ao hồ, đầm lầy, tức là hoàn toàn thuộc về tự nhiên. Nhưng, ngày nay, do kinh tế xã hội ngày càng phát triển nên nhu cầu sử dụng, tiêu thụ thức ăn của con người tăng lên, trong đó có thức ăn là thủy sản thì những người nông dân bắt đầu đào ao, thả cá. Những loài cá được nuôi chính là cá mà thị trường có nhu cầu sử dụng, và cá chép chính là một trong những loài cá đó.
Cá chép là loài động vật đẻ trứng, khi con cái bắt đầu sinh sản thì con cá chép đực sẽ bơi theo sau dải tinh trùng vào trứng, sau đó trứng cá sẽ nở thành những con cá con. Đây là cách thức sinh sản của cá chép nói riêng và của cá sống trong môi trường nước ngọt nói chung. Khi trưởng thành một con cá chép có thể nặng từ một cân rưỡi cho đến năm cân, tùy điều kiện nuôi thả và thời gian chăm sóc của cá. Đặc điểm nhận diện cá chép với loài cá khác, đó chính là dựa vào hình dạng của cá. Nếu như cá trôi hay cá trăm có thân hình thuôn dài thì cá chép ngắn người hơn, hình dạng có phần tròn hơn, vảy dày.
Tuy nhiên, đặc điểm chủ yếu mà dễ dàng nhận dạng nhất ở cá chép không phải ở hình dạng của cá hay vẩy của cá. Vì cá nước ngọt có hàng trăm loài, trong đó có rất nhiều loài cá giống cá chép. Vì vậy mà người ta nhận diện thông qua quan sát râu của cá chép. Cá chép là loài cá nước ngọt duy nhất có râu hai bên miệng, mà những loài cá khác không thể có được. Đây là loài cá rất dễ nhận diện và cũng là một trong những loài cá được người tiêu dùng yêu thích lựa chọn cho bữa ăn của mình. Chỉ cần biết sơ qua về loài cá chép này thì dù được thả giữa bao nhiêu loài cá khác đi chăng nữa thì bạn cũng có thể dễ dàng nhận ra chúng.
Thức ăn của cá chủ yếu là cỏ tươi và cám dành riêng cho cá. Khi xưa sống trong môi trường tự nhiên, thức ăn của cá là những loài thủy sinh nhỏ bé, những cánh bèo tươi hay những ngọn cỏ ven bờ. Thì nay người nông dân Việt Nam nuôi thả trong ao nhà mình , thức ăn cũng bổ dưỡng và giúp cho cá tăng trưởng nhanh hơn rất nhiều so với cuộc sống ở ngoài tự nhiên. Cá chép cũng không phải ngoại lệ, thức ăn của cá chép chủ yếu là cỏ, vì vậy đây là một loài động vật sạch.
Trong truyền thuyết dân gian của người Việt Nam xưa, cá chép gắn liền với hình ảnh của gia đình Táo quân, cá chép chính là phương tiện mà ba ông táo cùng để di chuyển lên trời, kịp dự buổi chầu cuối năm. Vì lẽ đó mà vào mỗi dịp tết Ông Công Ông Táo người dân Việt Nam thường ra chợ mua về ba con cá chép vàng. Sauk hi làm lễ tế ông Táo thì sẽ ra sông, hồ, ao, rạch để thả cá về trời với ý nghĩa giúp Táo Quân về trời thuận buồm xuôi gió. Trong nghệ thuật hội họa của Việt Nam cũng có một bức tranh vô cùng nổi tiếng liên quan đến cá chép, đó chính là bức tranh cá chép ngược dòng. Đây là bức tranh vô cùng ý nghĩa dựa trên đặc tính sinh lí của loài cá chép. Cá chép là loài cá duy nhất có thể di chuyển ngược dòng nên bức tranh cá chép mang ý nghĩa khích lệ, động viên với con người, có thể vượt qua mọi khó khăn và lội ngược dòng.
Cá chép là loài cá đã trở nên quá quen thuộc đối với cuộc sống của con người Việt Nam, không chỉ là nguồn thực phẩm giàu dinh dưỡng đối với bữa ăn của con người, mà đó còn mang rất nhiều ý nghĩa vô cùng thiêng liêng.
2
0
Trịnh Quang Đức
25/12/2017 19:50:22
Đề 4: Giới thiệu về danh lam thắng cảnh : Vịnh Hạ Long
Trả lời: Ngày xưa, khi người Việt mới lập nước đã bị giặc ngoại xâm, Ngọc Hoàng sai Rồng Mẹ mang theo một đàn Rồng Con xuống hạ giới giúp người Việt đánh giặc. Thuyền giặc từ ngoài biển dào dạt tiến vào bờ đúng lúc đàn Rồng tới hạ giới. Đàn Rồng lập tức phun ra lửa đốt cháy thuyền giặc, một phần nhả Châu Ngọc dựng thành bức tường đá sừng sững làm cho thuyền giặc đâm phải mà vỡ tan. Sau khi giặc tan, thấy cảnh mặt đất thanh bình, cây cối tốt tươi, con người nơi đây lại cần cù, chịu khó, đoàn kết giúp đỡ nhau, Rồng Mẹ và đàn Rồng Con không trở về trời mà ở lại Hạ giới, nơi vừa diễn ra trận chiến để muôn đời bảo vệ con dân nước Việt. Vị trí mà Rồng Mẹ đáp xuống được gọi là Hạ Long. Truyền thuyết vừa kể nói về sự hình thành của một vịnh đẹp bậc nhất của Việt Nam, nơi được coi là ân phúc của tạo hóa, nơi được cả thế giới công nhận là danh lam thắng cảnh - Vịnh Hạ Long
Vịnh Hạ Long nghĩa là vịnh nơi rồng đáp xuống, là một vịnh nhỏ thuộc phần bờ Tây vịnh Bắc Bộ tại khu vực biển Đông Bắc. Vịnh Hạ Long được giới hạn với phía Đông Bắc giáp vịnh Bái Tử Long, phía Tây Nam giáp quần đảo Cát Bà, phía Tây và Tây Bắc giáp đất liền bằng đường ờ biển khoảng 120km kéo dài từ thị xã Quảng Yên, qua thành phố Hạ Long, thành phố Cẩm Phả đến hết huyện đảo Vân Đồn; phía Đông Nam và phía Nam hướng ra vịnh Bắc Bộ.
Tên gọi Hạ Long đã thay đổi qua nhiều thời kì lịch sử, thời bắc thuộc khu vực này được gọi là Lục Châu, Lục hải. Các thời Lý, Trần, Lê, vịnh mang các tên Hoa Phong, hải Đông, An bang, Vân Đồn, Ngọc Sơn hay Lục Thủy. Tên hạ Long mới xuất hiện trong một số thư tích và các bản đồ hàng hải của Pháp từ cuối thế kỉ XIX
Có rất nhiều truyền thuyết và truyện cổ tích về Hạ Long như bên trên ta nói là một ví dụ. Một truyện cổ tích gắn liền với quá trình bảo vệ đất nước của Lạc Long Quân: Chuyện kể xưa kia có một Ngư tinh thường xuyên chắn đường hại dân, Lạc Long Quân đánh nhau với Ngư Tinh nhiều ngày đêm khiến núi đổ, núi vỡ, cuối cùng Ngư Tinh chết, ngài chặt Ngư Tinh quăng khúc đuôi ra biển mà làm nên đảo Bạch long Vĩ, phần đầu ngài chặt làm hai, hình thành hòn Con Chó ngày nay. Những ngọn núi vỡ vô tình trở thành vô vàn đảo lớn nhỏ, cùng nước biếc hình thành một thắng cảnh tuyệt mĩ. Người dân nhớ ơn con trai Thần Long đã giết tinh cứu dân đã đặt tên nơi này là Hạ Long.
Trên tờ Tin tức Hải Phòng xuất bản bằng có bài viết về sự xuất hiện của sinh vật giống rồng trên khu vực là vịnh Hạ Long ngày nay với nhan đề Rồng xuất hiện trên vịnh Hạ Long, khi viên thiếu úy người Pháp Legderin, thuyền trưởng tàu Avalence cùng các thủy thủ bắt gặp một đôi khổng lồ ba lần (vào các năm 1898, 1900 và 1902). Có lẽ người Châu Âu đã liên tưởng con vật này giống như con châu Á, loài vật được tôn sùng trong văn hóa Việt Nam nói riêng và văn hóa các nước châu Á nói chung. Bên cạnh những truyền thuyết của Việt Nam về Rồng Mẹ và Rồng Con đáp xuống khu vực vịnh đảo vùng Đông Bắc này, sự xuất hiện con vật lạ hiện hữu như rồng trong thực tại, có thể đã trở thành các lý do khiến vùng biển đảo Quảng Ninh được người Pháp gọi bằng cái tên vịnh Hạ Long từ đó và phổ biến đến ngày nay.
Vịnh Hạ Long là vùng biển đảo có khí hậu phân hóa 2 mùa rõ rệt: nóng ẩm với nhiệt độ khoảng 27-29 °C và khô lạnh với nhiệt độ 16-18 °C, trung bình năm dao động trong khoảng 15-25 °C. Lượng mưa trên vịnh Hạ Long vào khoảng từ 2.000mm–2.200mm. Sự kết hợp của môi trường, khí hậu, địa chất, địa mạo đã khiến vịnh Hạ Long trở thành quần tụ của đa dạng sinh học bao gồm hệ sinh thái rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới, hệ sinh thái biển và ven bờ với nhiều tiểu hệ sinh thái.
Đến nay sơ bộ đánh giá thực vật ở vịnh Hạ Long có khoảng 374 loài đã biết, trong đó 16 loài đang nằm trong sách đỏ của Việt Nam. Về động vật có 1151 loài, trong đó gần 500 loại cá và 57 loại cua.
Vùng di sản trên vịnh Hạ Long được thế giới công nhận (vùng lõi) có diện tích 434 km², như một hình tam giác với ba đỉnh là (phía Tây), (phía Nam) và (phía Đông), bao gồm 775 đảo với nhiều hang động, bãi tắm. Vùng kế bên (vùng đệm), là di tích danh thắng quốc gia đã được bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam xếp hạng từ năm . Địa hình Hạ Long là đảo, núi xen kẽ giữa các trũng biển, là vùng đất mặn có mọc và những đảo đá vôi vách đứng tạo nên những vẻ đẹp tương phản, kết hợp hài hòa, sinh động các yếu tố: đá, nước và bầu trời.
Các đảo ở vịnh Hạ Long có hai dạng là đảo và đảo đá vôi , tập trung ở hai vùng chính là vùng phía Đông Nam và vùng phía Tây Nam vịnh Hạ Long. Theo thống kê của ban quản lý vịnh Hạ Long, trong tổng số 1.969 đảo của vịnh Hạ Long có đến 1.921 đảo đá với nhiều đảo có độ cao khoảng 200m. Quá trình bào mòn, phong hóa gần như hoàn toàn tạo ra một vịnh Hạ Long độc nhất vô nhị, với hàng ngàn đảo đá nhiều hình thù, dáng vẻ khác nhau lô nhô trên mặt biển, trong một diện tích không lớn của vùng Vịnh.
Các đảo trên vịnh Hạ Long có những hình thù riêng, không giống bất kỳ hòn đảo nào ven biển Việt Nam và không đảo nào giống đảo nào. Có chỗ đảo quần tụ lại nhìn xa ngỡ chồng chất lên nhau, nhưng cũng có chỗ đảo đứng dọc ngang xen kẽ nhau, tạo thành tuyến chạy dài hàng chục kilômét như một bức tường thành. Đó là một thế giới sinh linh ẩn hiện trong những hình hài bằng đá đã được huyền thoại hóa. Đảo thì giống khuôn mặt ai đó đang hướng về đất liền (hòn Đầu Người); đảo thì giống như một con rồng đang bay lượn trên mặt nước (hòn Rồng); đảo thì lại giống như một ông lão đang ngồi cá (hòn Lã Vọng); phía xa là hai cánh nâu đang rẽ sóng nước ra khơi (hòn Cánh Buồm); đảo lại lúp xúp như mâm xôi cúng (hòn Mâm Xôi); rồi hai con đang âu yếm vờn nhau trên sóng nước (hòn Trống Mái); đứng giữa biển nước bao la một khổng lồ như một vật cúng tế trời đất (hòn Lư Hương); đảo khác tựa như đứng giữa mặt Vịnh bao la chắp tay (hòn Ông Sư); đảo lại có hình tròn cao khoảng 40m trông như chiếc đũa phơi mình trước thiên nhiên (hòn Đũa), mà nhìn từ hướng khác lại giống như vị quan triều đình áo xanh, mũ cánh chuồn, nên dân chài còn gọi là hòn Ông...
Bên cạnh các đảo được đặt tên căn cứ vào hình dáng, là các đảo đặt tên theo sự tích dân gian (núi Bài Thơ, hang Trinh Nữ, đảo ), hoặc căn cứ vào các có trên đảo hay vùng biển quanh đảo (hòn Ngọc Vừng, hòn Kiến Vàng, đảo Khỉ v.v.)
Không những nổi tiếng gắn liền với thiên nhiên, Vịnh Hạ Long còn là nơi gắn liền với những trang sử của quân dân Việt Nam trong suốt thời kỳ dựng nước và giữ nước với những địa danh như , nơi có cổ tại miền Bắc Việt Nam vào . Thương cảng Vân Đồn với đặc điểm là có nhiều đảo đất, đảo đá ngang dọc, chia cắt biển thành nhiều vũng, luồng lạch sâu và kín gió, giúp cho thuyền bè neo đậu an toàn, không bị gió bão uy hiếp, đã khiến khu vực này trở nên sầm uất trong thông thương với khu vực và nhiều nơi trên thế giới.
Bên cạnh thương cảng Vân Đồn, tại vùng vịnh Hạ Long còn có lịch sử, nơi lưu lại bài thơ của hoàng đế từ năm 1468, nhân chuyến tuần du vùng biển phía Đông; và bút tích của chúa năm 1729. Bãi Cháy phía bờ Tây của Vịnh, tương truyền gắn với sự tích những chiến thuyền chở lương thực của quân Nguyên-Mông bị quân dân nhà Trần do chỉ huy đốt cháy, dạt vào làm cháy cả cánh rừng trong khu vực. Trên Vịnh còn có hang Đầu Gỗ, nơi còn vết tích hiện vật là những cây cọc gỗ được cho đem giấu trước khi đóng xuống lòng sông Bạch Đằng, và cách Vịnh không xa là cửa , chứng tích của hai trận thủy chiến trong lịch sử chống ngoại xâm phương Bắc.
Hàng trăm đảo, hang động, nhũ đá trong vịnh Hạ Long được đặt tên theo các huyền thoại, truyền thuyết, hoặc theo trí tưởng tượng dân gian phong phú của cộng đồng cư dân nơi đây.
Con người nơi đây cũng thật sự là rất đáng yêu đáng quý. Họ không những mến khách mà còn như một người hướng dẫn viên du lịch vừa nói giới thiệu tả cảnh vừa vững tay chèo đẩy lái đến nơi khách muốn qua. Những con người ở đây nồng nhiệt mỗi khi có khách đến và khi khách đi thì để lại những ấn tượng khó phai về những con người miền non nước hữu tình với những tình cảm mặn mà như là muối biển vậy. Ngư dân làng chài Cửa Vạn trên vùng vịnh Hạ Long hiện nay còn lưu giữ những câu cổ xưa, đó là lối hát đúm, hò biển và hát đám cưới. Một đêm trăng thanh, giữa mây trời, chợt đâu đó vang vọng trên sóng nước câu hát giao duyên đầy da diết...
Với các giá trị ngoại hạng về cảnh quan và địa chất, địa mạo, lại là trung tâm của khu vực có nhiều yếu tố đồng dạng bao gồm vịnh Bái Tử Long phía Đông Bắc, quần đảo Cát Bà với vịnh Cát Bà và vịnh Lan Hạ phía Tây Nam, vịnh Hạ Long hội tụ những điều kiện thuận lợi để phát triển ngành kinh tế du lịch với loại hình đa dạng. Đến vịnh Hạ Long, du khách có thể tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học, tham quan ngắm cảnh, tắm biển, bơi thuyền, thả dù, lặn khám phá rặng san hô, câu cá giải trí. Hiện nay, khách đến vịnh Hạ Long chủ yếu tham quan ngắm cảnh, tắm biển và bơi thuyền. Các loại hình du lịch du thuyền tại vịnh Hạ Long bao gồm tham quan Vịnh ban ngày, đi tour buổi chiều ngắm hoàng hôn trên Vịnh, du thuyền đêm để ngắm cảnh Vịnh về đêm kết hợp với câu , thậm chí có thể tự chèo thuyền để khám phá Vịnh
Ký giả người Pháp John Rey ca ngợi Vịnh Hạ Long "... Dưới ánh sáng của vầng thái dương nhiệt đới, mặt biển chỗ tối, chỗ sáng do những dãy núi đá phản chiếu tạo thành một cảnh mơ huyền ảo không thể nào tả nổi. Lúc chiều tà, đây là một đám lửa cháy bùng lên, biến tất cả các hải đảo thành một cảnh thần tiên ngoạn mục...". Tác giả Emile Cordonnier đã viết cho rằng: "... Hàng ngàn đảo nhấp nhô lên trên mặt nước phô trương những phiến đá hoa cẩm thạch tuyệt đẹp, tưởng như chúng đang chồng chất lên nhau tạo ra những đường nét kì diệu, mắt ngắm mãi không biết chán. Cảnh dường như chỉ được thấy trong mơ. Những đảo đá sừng sững nổi trong lòng vịnh, dưới làn nước trong xanh mê mải của Vịnh Hạ Long. Cảnh vật nơi đây luôn tĩnh lặng êm đềm...".
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vị tướng tài ba khi đến Hạ Long cũng không khỏi xúc động: "Vịnh Hạ Long đúng là 1 kỳ quan của thế giới. Ta có trách nhiệm gìn giữ tôn tạo, giới thiệu kỳ quan của đất nước cho du khách cả thế giới". Tiền Tổng Bí thứ Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh đã viết: "Vịnh Hạ Long, một kỳ quan do thiên nhiên ban tặng, một di sản thế giới, biểu tượng sự trường tồn của Tổ quốc Việt Nam yêu qúy của chúng ta, là niềm tự hào của nhân dân ta. Các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mãi mãi mai sau phải làm hết sức mình để gìn giữ, bảo tồn và phát huy những giá trị tuyệt vời của Vịnh Hạ Long. Để Vịnh Hạ Long không chỉ là điểm đến của nhân dân ta khắp mọi miền đất nước, mà còn là điểm hẹn của bạn bè khắp nơi trên thế giới".
Đại Tướng Võ Nguyên Giáp và Nông Đức Mạnh đã nêu ra giá trị cũng như nhiệm vụ của tất cả người dân Việt Nam: Đó là tự hào, gìn giữ và bảo vệ kì quan một không hai của Việt Nam cũng như giữ lại nét đẹp ngàn đời được tạo hóa ân sủng mà ban tặng.
0
0
Ngọc Trâm
25/12/2017 19:50:56
Đề bài : Giới thiệu về thủ đô Hà Nội
Bài làm
Khi nói về hai tiếng thiêng liêng “ Hà Nội” không ai không khỏi tự hào về mảnh đất hàng nghìn năm lịch sử và là nơi hàng triệu trái tim Việt Nam hướng về.
Giới thiệu về thủ đô Hà Nội Hà Nội từng là kinh đô của hầu hết các vương triều Việt trước đây, vậy nên từ xưa, Hà Nội đã nổi tiếng là một trung tâm thương mại lớn: “Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến, hiện tại Hà Nội đang là Thủ đô của nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Hà Nội là thành phố lớn nhất Việt Nam về diện tích với 3328,9 km2 đồng thời cũng là địa phương đứng thứ nhì về dân số với 7.500.000 người. Hà Nội gồm 10 quận: Hoàn Kiếm, Ba Đình, Đống Đa, Hai BàTrưng, Tây Hồ, Thanh Xuân, Cầu Giấy, Long Biên, Hoàng Mai, Hà Đông; 18 huyện: Đông Anh, Sóc Sơn, Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm (Hà Nội cũ), Ba Vì, Chương Mỹ, Đan Phượng, Hoài Đức, Mỹ Đức, Phú Xuyên, Phúc Thọ, Quốc Oai, Thạch Thất, Thanh Oai, Thường Tín, Ứng Hòa (Hà Tây cũ), Mê Linh (từ Vĩnh Phúc) và 1 thị xã: Sơn Tây. Phía Bắc giáp Thái Nguyên, Vĩnh Phúc; phía Tây giáp Hòa Bình, Phú Thọ; phía Nam giáp Hà Nam, Hòa Bình; phía Đông giáp Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng Yên. Hà Nội hình thành từ năm 1010, khi Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra Đại La và được đạt tên là Thăng Long, xây dựng Hoàng Thành gọi là kinh thành. Năm 1428, Lê Lợi đánh thắng quân Minh, lên làm Vua, đặt tên nước là Đại Việt với kinh thành tên là Đông Đô. Năm 1805 Vua Gia Long đổi tên thành là Thăng Long. Năm 1831 vua Minh ,Mạng lập tỉnh Hà Nội.kinh đô dời vào Huế, song không thể phủ nhận về vùng đất kinh thành xưa là chốn ngang năm vạn vật. Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Hà Nội trở thành thủ đô của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Nói đến Hà Nội, chúng ta có thể nhắc đến các địa danh cực kì nổi bật như : Văn Miếu – Quốc Tử Giám là nơi thờ Khổng Tử, đặt bia tiến sĩ và cũng là trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Ngày nay, Văn Miếu – Quốc Tử giám trở thành điểm đến phổ biến của du lịch Hà Nội, là nơi trao bằng khen cho những học sinh sinh viên có thành tích xuất sắc. Các sĩ tử trước mỗi kỳ thi thường đến đây để cầu may ; Khu phố cổ, người ta vẫn luôn nhắc đến Hà Nội 36 phố phường với những ngôi nhà cổ và những con phố vẫn lưu giữ lại được dáng vẻ của chúng từ thế kỷ 19 như một điểm nhất của thủ đô Hà Nội. Hay Hồ Hoàn Kiếm, Chùa Một Cột, Nhàthờ lớn, Quảng trường Ba Đình – Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, làng gốm bát tràng…
Hà Nội cũng là một thành phố đặc biệt nhiều đầm hồ, dấu vết còn lại của các dòng sông cổ. Khí hậu Hà Nội mang đặc điểm của khí hậu nhiệt đới gió mùa. Do tính chất là một thành phố phát triển nên thành phố Hà Nội không ngừng đông dần lên với nhiều dân cư được nhập cư từ mọi miền của tổ quốc. Lịch sử lâu đời cùng nền văn hóa phong phú đã giúp Hà Nội có được kiến trúc đa dạng và mang dấu ấn riêng. Nhưng sau một thời gian phát triển thiếu quy hoạch, thành phố hiện nay tràn ngập những ngôi nhà ống trên các con phố lắt léo, những công trình tôn giáo nằm sâu trong các khu dân cư, những cao ốc bên các khu phố cũ. Cùng với sự phát triển của thủ đô, các lĩnh vực y tế, văn hóa và giáo dục luôn được đề cao. Học sinh luôn lựa chọn Hà Nội là nơi theo học sau khi tốt nghiệp 12 năm học phổ thông. Song song đó nhưng Hà Nội vẫn giữ cho mình những làng nghề truyền thống ( làng gốm Bát Tràng, hàng Bạc, làng lụa Vạn Phúc … ) hay những lễ hội truyền thống ( lễ hội chùa Hương, gò Đống Đa, lễ hội Triều Khúc… ) vẫn giữ được nét đẹp cho đến thời nay. Thứ luôn thu hút các du khách không thể không đến Hà Nội đó là ẩm thực. Không ai đến Hà Nội mà quên không thưởng thức phở Hà Nội, Hà Nội có những món ngon nổi tiếng như chả cá lã võng, bánh cuốn Thanh Trì, cốm làng Vòng …
Hà Nội vẫn luôn là một điểm hút đặc biệt, không chỉ do những thứ vốn có mà cả là những con người Hà Nội thân thiện và tốt bụng. Chúng ta hãy luôn luôn tự hào về một thủ đô nghìn năm có một.
1
0
Trịnh Quang Đức
25/12/2017 19:51:45
Đề 5: Giới thiệu về danh lam thắng cảnh : Chùa Hương
Trả lời: Lễ hội chùa Hương đã có từ lâu đời. Hằng năm, cứ sau Tết Nguyên Đán là lễ hội bắt đầu và kéo dài gần như suốt mùa xuân. Khách hành hương từ khắp mọi miền đất nước, Việt kiều và du khách nước ngoài nườm nượp đổ về đây vừa để cầu mong một năm mới tốt lành, vừa để được đắm mình trong khung cảnh thần tiên của Hương Sơn.
Thắng cảnh Hương Sơn thuộc huyện Mĩ Đức, tỉnh Hà Tây cũ, nay là Hà Nội, cách trung lâm Thủ đô khoảng 70 km vể phía Tây Nam. Đi ô tô qua thị xã Hà Đông, Vân Đinh, thẳng đến bến Đục thì dừng. Bắt đầu từ đây đã là địa phận Hương Sơn. Du khách xuống đò đọc, lướt theo dòng suối Yến trong xanh chảy giữa hai bên là cảnh đồng lúa mơn mởn. Trước mắt là dãy núi trập trùng tím biếc, ẩn hiện trong mây trắng, đẹp vô cùng!
Có thể nói quần thể Hương Sơn là sự kết hợp tuyệt vời giữa kì công của Tạo hoá với bàn tay khéo léo, tài hoa của con người. Các ngôi chùa được xây dựng rải rác trên triền núi đá vôi, thấp thoáng dưới rừng cây xanh thẳm. Từ chân núi trèo ngược lên hàng ngàn bậc đá cheo leo, gập ghềnh, khách hành hương sẽ lần lượt thắp nhang ở chùa Ngoài, rồi vào chùa Trong, lên chùa Giải Oan, chùa Thiên Trù với động Hinh Bổng... Chùa nào cũng cổ kính, uy nghi, đèn nến chập chờn giữa làn khối hương mờ mờ, ảo ảo, tạo nên không khí huyền bí, linh thiêng. Mỗi người đến chùa Hương với một tâm trạng, một ước nguyện riêng tư, nhưng điều chung nhất là cảm giác trút bỏ được những vướng bận hằng ngày của đời thường, cả thể xác lẫn tâm hổn đểu lâng lâng, thoát tục.
Trên con đường dốc quanh co, dòng người nối theo nhau lên xuống. Già, trẻ, gái, trai đủ mọi lứa tuổi, đủ mọi miền quê. Lạ hoá thành quen qua câu chào: “Nam mô A Di Đà Phật". Nhiều cụ bả chít khăn mỏ quạ, áo tứ thân bằng the nâu thắt vạt, tràng hạt đeo trên cổ, tay chống cây gậy trúc, chân bước thoăn thoắt chẳng kém thanh niên. Tiếng “Nam mô” râm ran suốt mọi nẻo đường.
Hương Sơn có rất nhiều hang động nhưng lớn nhất, kì thú nhất vẫn là động Hương Tích. Lên đến đây, du khách phóng tầm mắt nhìn bốn phía, mọi mệt nhọc sẽ tan biến hết, trong lòng lâng lâng niềm hứng khởi lạ thường. Trập trùng núi, trập trùng mây. Trên triền núi, dưới thung sâu, hoa mơ nở trắng như tuyết điểm, hương thơm thoang thoảng trong gió xuân. Tiếng chim ríu rít, tiếng suối róc rách văng vẳng lúc gần, lúc xa. Quả là một bức tranh thiên nhiên sơn thuỷ hữu tinh. Du khách khoan khoái hít căng lổng ngực không khí thơm tho, trong lành trước khi xuống động.
Động Hương Tích được chúa Trịnh Sâm ca ngợi là “Nam thiên đệ nhất động”. Nhìn từ bên ngoài, cửa động giống như miệng một Con rồng khổng lồ đang há rộng. Động ăn sâu vào lòng núi. Đáy động bằng phẳng, có thể chứa
được mấy trăm người. Ánh đèn, ánh nến lung linh. Những nhũ đá, cột đá muôn hình vạn trạng, lấp lánh bảy sắc cẩu vồng. Nào hòn Cậu, hòn Cô, nào nong tằm, né kén, nào cây bạc, cây vàng, cót thóc... Khách hành hương muốn cầu phúc, cầu lộc, cầu duyên... cứ việc thắp nhang rổi thành tâm khấn vái, biết đâu Trời sẽ thương, Phật sẽ độ trì cho được như ý.
Đi hội chùa Hương ít nhất phải hai ngày mới thăm hết được các chùa. Ngồi trong động Hinh Bổng, lắng tai nghe tiếng gió thổi tạo thành điệu nhạc du dương trầm bống, ta sẽ đắm minh trong không khí mơ màng của cõi mộng. Trên đỉnh núi có tảng đá lớn và phẳng, tương truyền rằng đó là bàn cờ tiên. Mỗi năm một lần, các vị Tiên ông lại xuống trần, đọ tài cao thấp ở đó. Còn biết bao huyển thoại khác gắn liền với chùa Hương, tô đậm thêm vẻ kì bí và linh thiêng của danh lam thắng cảnh này.
Tạm biệt chùa Hương, trong tay mỗi du khách đểu có vài thứ mang về làm kỉ niệm. Chiếc khánh xà cừ buộc bằng chỉ đỏ đeo vào cổ lấy may, cây gậy trúc đã theo chân suốt cuộc hành trình, chuỗi hạt bồ đề, gói trà lão mai hay bó rau sắng xanh mướt mà nhà thơ Tản Đà đã nhắc đến trong thơ ông từ những năm ba mươi, bốn mươi của thế kỉ trước : Muốn ăn rau sắng Chùa Hương. Tiền đò ngại tốn, con đường ngại xa... Du khách lên xe ra về mà lòng bâng khuâng, lưu luyến, mong cho chóng đến mùa lễ hội năm sau. Chẳng ai bảo ai, mọi người cùng ngoái lại nhìn để in đậm thêm trong tâm tưởng bức tranh tuyệt mĩ của phong cảnh Hương Sơn, để càng thêm yêu mến, tự hào về giang sơn gấm vóc.
1
0
Trịnh Quang Đức
25/12/2017 19:52:48
DÀN Ý
1. Mở bài:
Giới thiệu chung:
- Chùa Hương là một danh lam thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam.
- Sau Tết Nguyên Đán là dịp chùa Hương mở hội. Hội chùa Hương kéo dài gần như suốt mùa xuân.
2. Thân bài:
* Thuyết minh vể chùa Hương.
+ Vị trí của chùa Hương:
- Thắng cảnh chùa Hương thuộc xã Hương Sơn, huyện Mĩ Đức, tỉnh Hà Tây cũ. Nay thuộc Hà Nội, cách trung tâm thủ đô khoảng 70 km về phía Tây Nam.
- Từ Hà Nội đi qua Hà Đông, qua Vân Đinh... đến bến Đục thì dừng xe, xuống đi dọc theo dòng suối Yến Vĩ chừng 3 km là đến đền Trinh.
+ Đặc điểm:
- Điều hấp dẫn của chùa Hương là sự kết hợp hài hoà giữa núi non, sông suối và đổng ruộng, tạo nên khung cảnh thiên nhiên đa dạng, đẹp như một bức tranh sơn thuỳ.
- Khách hành hương đủ mọi thành phẩn, lứa tuổi, từ khắp mọi miền đất nước tấp nập đến với chùa Hương.
- Các ngôi chùa nằm rải rác từ chân núi lên đỉnh núi.
- Động Hương Tích lớn nhất, đẹp nhất, được chúa Trịnh Sâm ban tặng 5 chữ: “Nam thiên đệ nhất động" (động đẹp nhất trời Nam).
- Cảnh sắc kì diệu trong lòng động hiện ra trong ánh sáng huyền ảo. Chính giữa động có pho tượng Quán Thế Âm Bổ Tát. Xung quanh là những nhũ đá hình cây vàng, cây bạc, buổng tằm, nong kén, núi Cô, núi Cậu... và đặc biệt là hình chín con rồng trên vòm động.
3. Kết bài:
* Cảm nghĩ của bản thân.
- Du khách đi chùa Hương không chỉ để lễ Phật cầu phúc mà còn để hoà mình với thiên nhiên tươi đẹp. Từ đó càng thèm yêu mến quê hương, đất nước
1
0
Hà Thanh
25/12/2017 19:53:25
Đề 17: Giới thiệu về cây dừa quê em
Cây dừa là một trong những loài cây phổ biến ở khắp mọi miền trên lãnh thổ Việt Nam, nhưng phổ biến nhất có lẽ là ở khu vực miền Nam Trung Bộ,bởi ở đây đất đai khí hậu nóng ẩm vô cùng thích hợp để trồng loại cây này. Quê em tuy không phải ở Nam Trung Bộ nhưng trồng rất nhiều dừa, đó là một vùng quê nằm ở phía Đông của đồng bằng Sông Hồng, tuy đất đai, điều kiện có phần không thuận lợi như ở Nam Bộ nhưng những cây dừa quê em đều phát triển vô cùng tươi tốt, cho nhiều trái ngon, quả ngọt.
Trong cuộc sống thường ngày của chúng ta, nhắc đến quả dừa, nước dừa… thì hẳn ai cũng đều biết, đều có thể tự hình dung, phác họa trong đầu của mình đó là một trái màu xanh, vỏ cứng, nước ngọt, ruột thơm vô cùng bổ dưỡng. Nhưng nói đến cây dừa thì không phải ai cũng biết. Bởi sinh ra và lớn lên ở khu vực thành thị, không có điều kiện chứng kiến, nhìn nhận được cây dừa là một điều hoàn toàn dễ hiểu. Vì vậy mà đối với một số bạn nhỏ sinh sống ở thành phố ngày nay tuy rất quen thuộc với quả dừa nhưng nói đến cây dừa thì rất có thể các bạn đều không biết, không thể hình dung, tượng tượng ra được.
Để các bạn có thể hiểu rõ hơn về cây dừa, tôi sẽ chỉ ra những đặc điểm, những đặc trưng của cây dừa như sau: Dừa là một loại cây ăn quả họ cau, vì vậy mà thân của cây dừa không phải là loại cây thân gỗ mà cũng không quá mềm mại như loài thực vật thân mềm. Thân dừa không quá cứng nhưng đủ vững chắc để nuôi những chum quả trĩu nặng, tuy không quá cứng cáp nhưng nhờ có mộ rễ lớn, ăn sâu vào lòng đất mà dù cho có gió bão cũng không thể quật ngã được nó. Thân của cây dừa có màu nâu nhạt, sần sùi và thẳng tắp.
Khác với những loài cây khác, cây dừa không có cành mà chỉ có lá, mặt khác lá của cây dừa cũng không mọc ở thân cây mà chỉ mọc ở ngọn cây. Chiều cao của một cây dừa trung bình từ bảy đến chín mét. Tù từng nơi, từng giống dừa mà chiều cao của cây dừa cũng có sự khác nhau. Bộ phận thứ hai của cây dừa có thể nói đến, đó chính là lá dừa, lá dừa rất giống lá của cây cau, nhưng nó lớn hơn và cứng cáp hơn rất nhiều. Lá dừa mọc thành từng tàu nên gọi là tàu dừa, lá dừa dày dặn và rất dài, ở giữa của mỗi chiếc lá đều nổi lên một đường gân lá lớn, cứng.
Và những chiếc lá dừa này cũng được sử dụng vô cùng phổ biến, đối với trẻ em ở nông thôn thì những chiếc lá dừa là nguyên liệu làm nên những đồ vật, đồ chơi vô cùng đẹp mắt, đó là những con chuồn chuồn, cào cào, những chiếc đồng hồ… tuy những đồ chơi ấy được tạo ra từ những vật liệu đơn giản nhưng nó vô cùng đẹp, ngày nay người ta còn dùng lá dừa làm ra các đồ thủ công mĩ nghệ, vật lưu niệm cho du khác. Ngoài ra, lá dừa còn được dùng để trang trí, đặc biệt là trang trí cho các đám cưới ở vùng quê. Những chiếc cổng cưới được dựng lên bằng tàu dừa vô cùng khéo léo, trên mỗi tàu dừa lại được tết thành những bông hoa, những hình trái tim vô cùng đẹp mắt.
Lá dừa còn được dùng để lợp mái nhà, được dùng để đun nấu thay cho rơm…nói chung chỉ một tàu dừa đơn giản thôi nhưng mang trong mình biết bao nhiêu công dụng hữu ích. Phần rễ của dừa có dạng hình tròn, nhỏ, mọc thành chum ăm sâu vào trong đất, phạm vi dễ dừa phát triển có thể từ hai đến năm mét từ vị trí mọc của cây dừa. Vì vậy mà cây dừa vô cùng chắc chắc, dù có gió bão thổi qua cũng không thể quật ngã được nó.
Phần có giá trị nhất của cây dừa chính là quả dừa, quả dừa thường có màu xanh, to bằng quả bóng và thường mọc thành từng trùm. Quả dừa có rất nhiều công dụng hữu ích, vỏ dừa sau khi phơi khô được dùng để đun nấu, vỏ dừa cháy rất bén vì nó có dầu dừa, phần sọ của quả dừa vì cứng cáp nên những người nông dân sau khi thu hoạch thì rất khéo léo không làm nó bị vỡ và sau đó dùng làm gáo đựng nước. Phần ruột dừa vô cùng thơm ngon, nhiều công dụng nhất, nó có thể dùng để rang với thịt, dùng để ăn.Ngày nay nó còn được dùng để ép nước cốt dừa, làm đẹp cho da, làm thuốc chữa bệnh. Nước dừa thì để giải khát rất tốt, dùng để tắm cho trẻ sơ sinh…
Cây dừa mang trong mình rất nhiều công dụng hữu ích cho cuộc sống hàng ngày, dù là bộ phận nào của cây dừa cũng có thể phục vụ cho cuộc sống hàng ngày. Và hơn hết, cây dừa còn là một người bạn thân thiết của người dân Việt Nam qua bao đời nay. Nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng từng viết về cây dừa với đầy sự yêu thương như sau:
“Cây dừa xanh tỏa nhiều tàu
Dang tay đón gió, gật đầu gọi trăng
Thân dừa bạc phếch tháng năm
Quả dừa- đàn lợn con nằm trên cao”
1
0
Trịnh Quang Đức
25/12/2017 19:53:39
Đề 4:
Nhắc đến danh lam thắng cảnh, những chốn có non nước hữu tình trên đất nước Việt nam ta khó lòng không nhắc đến vịnh Hạ Long. Cái tên ấy ai là người Việt nam cũng biết đến. Nó không chỉ đẹp trong hiện tại hay tương lai mà nó còn đẹp từ thời xưa trong câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm: “ Con gà, con cóc quê hương cũng biến Hạ Long thành thắng cảnh”. Mới đây vịnh Hạ Long còn dược UNESCO công nhận là một trong bảy kì quan đẹp nhất thế giới. Vậy không biết rằng Hạ Long có những gì mà lại được tôn vinh đến như vậy?
Vịnh Hạ Long còn có truyền thuyết đó là Ngọc Hoàng sai Rồng Mẹ mang theo một đàn Rồng Con xuống hạ giới giúp người Việt đánh giặc. Thuyền giặc từ ngoài biển ào ạt tiến vào bờ vừa lúc đàn Rồng tới hạ giới. Đàn Rồng lập tức phun ra lửa thiêu cháy thuyền giặc, một phần nhả Châu Ngọc dựng thành bức tường đá sừng sững làm cho thuyền giặc đâm phải mà vỡ tan, chặn đứng bước tiến của ngoại bang.
Sau khi giặc tan, thấy cảnh mặt đất thanh bình, cây cối tươi tốt, con người nơi đây lại cần cù, chịu khó, đoàn kết giúp đỡ nhau, Rồng Mẹ và Rồng Con không trở về trời mà ở lại hạ giới, nơi vừa diễn ra trận chiến để muôn đời bảo vệ con dân Đại Việt. Vị trí Rồng Mẹ đáp xuống là Hạ Long; nơi Rồng Con đáp xuống là Bái Tử Long và đuôi đàn rồng quẫy nước trắng xoá là Bạch Long Vĩ (bán đảo Trà Cổ ngày nay, với bãi cát dài trên 15 km).
Lại có truyền thuyết khác nói rằng vào thời kỳ nọ khi đất nước có giặc ngoại xâm, một con rồng đã bay theo dọc sông xuôi về phía biển và hạ cánh xuống ở vùng ven biển Đông Bắc làm thành bức tường thành chắn bước tiến của thủy quân giặc. Chỗ rồng đáp xuống che chở cho đất nước được gọi là Hạ Long.
Trước hết về vị trí của vịnh Hạ Long thì nó nằm ở vùng Ðông Bắc Việt Nam, vịnh Hạ Long là một phần vịnh Bắc Bộ, bao gồm vùng biển của thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả và một phần của huyện đảo Vân Ðồn. Phía tây nam Vịnh giáp đảo Cát Bà, phía đông là biển, phần còn lại giáp đất liền với đường bờ biển dài 120 km, được giới hạn từ 106o58′ – 107o22′ kinh độ Ðông và 20o45′ – 20o50′ vĩ độ Bắc với tổng diện tích 1553 km2.
iếp nữa là về đảo ở đây thì có 1969 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó 989 đảo có tên và 980 đảo chưa có tên. Đảo nơi đây gồm có hai dạng đó là đảo đá vôi và đảo phiếm thạch tập trung ở Bái tử long và vinh Hạ Long. Ở đây thì chúng ta thấy được hàng loạt những hang động đẹp và nổi tiếng. Vùng Di sản thiên nhiên được thế giới công nhận có diện tích 434 km2 bao gồm 775 đảo, như một hình tam giác với 3 đỉnh là đảo Ðầu Gỗ (phía tây), hồ Ba Hầm (phía nam), đảo Cống Tây (phía đông) vùng kế bên là khu vực đệm và di tích danh thắng quốc gia được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng năm 1962.
Đến với Hạ Long thì người ta không thể nào rời mắt khỏi những cảnh vật nơi đây. Nào là núi, nào là nước với những hang động thật sự hấp dẫn người ta muốn đi tới tận cùng để tìm thấy cái hữu hạn trong cái vô hạn của trời nước, núi non ấy. chúng ta cứ ngỡ rằng ngọn núi kia giống như những người khổng lồ vậy, ngồi trong thuyền mà ngước lên để đo tầm cao của những ngọn núi ấy thật sự là mỏi mắt. Đến đây ta mới biết hết thế nào là sự hùng vĩ, thế nào là sự hữu tình giữa nước và non. Làn nước biển mặn mà vị xa xăm của muối. Hang động với những nhũ đá như sắp rơi xuống nhưng thật chất lại là không rơi. Nó cứ tua tủa như muôn ngàn giọt ngọc dạng lỏng lấp lánh dính vào nhau nhưng không rơi xuống.
Con người nơi đây cũng thật sự là rất đáng yêu đáng quý. Họ không những mến khách mà còn như một người hướng dẫn viên du lịch vừa nói giới thiệu tả cảnh vừa vững tay chèo đẩy lái đến nơi khách muốn qua. Những con người ở đây nồng nhiệt mỗi khi có khách đến và khi khách đi thì để lại những ấn tượng khó phai về những con người miền non nước hữu tình với những tình cảm mặn mà như là muối biển vậy.
Qua đây ta thấy vịnh Hạ Long rất xứng đáng là một trong bảy kì quan của thế giới. Nếu những ai đã được đặt chân đến đây thì chắc hẳn rất ấn tượng bởi cảnh đẹp và con người nơi đây. Còn những ai chưa đến thì hãy nhanh chóng đến mà tận hưởng những gì là tạo hóa ban tặng, những gì là mẹ thiên nhiên.
0
0
Ngọc Trâm
25/12/2017 19:54:25
Đề bài: Em hãy giới thiệu vè con mèo, con chó nhà em
Trong cuộc sống của mình, con người không chỉ tìm cho mình những người bạn đồng hành thân thiết là con người. Mà con người còn vô cùng thân thiết, quý mến những loài vật nuôi, bởi những loài vật nuôi này đều hết sức chân thành, thông minh và hơn hết nó luôn ở bên con người mỗi lúc con người cần. Đối với em, những loài vật nuôi trong nhà đều là những người bạn vô cùng thân thiết, những người bạn thực thụ mà em có thể chia sẻ mỗi lúc buồn, lúc vui. Và những vật nuôi mà em yêu thích nhất đó chính là con mèo và con chó.
Con mèo, con chó đều là những vật nuôi quen thuộc trong mỗi gia đình, đặc biệt là những gia đình ở khu vực nông thôn, bởi ở đây đất đai rộng nên nuôi những loại vật nuôi vô cùng thuận lợi. Nhà em cũng nuôi rất nhiều vật nuôi, các loại gia súc, gia cầm khác như: con gà, con vịt, con cá… nhưng con vật mà em yêu thích hơn cả đó chính là con mèo và con chó. Đó là đều là những động vật đi bằng bốn chân, và điều khiến em yêu thích nhất ở chúng, đó chính là chúng rất thông minh, trung thành với chủ.
Trước hết là con mèo, con mèo nhà em nuôi là một con mèo tam thể. Gọi là tam thể bởi trên thân của mèo không phải chỉ có một màu lông nhất định mà có ba màu là đen trắng và vàng. Màu sắc của chú mèo nhà em rất đẹp, và hài hòa khiến cho các cô, các bác mỗi lần sang chơi nhìn thấy đều tấm tắc khen nợi làm cho em tự hào lắm. Con mèo nhà em là một chú mèo sáu tháng tuổi. Dù mới nuôi được sáu tháng nhưng chú mèo nhà em lớn rất nhanh, giờ đây nó như một chú mèo trưởng thành thực sự.
Mèo con nhà em rất nghịch ngợm, nó thường xuyên nô đùa cùng em, dùng đầu dụi vào lòng em đòi em vuốt ve, cưng chiều. Khi nô đùa nó còn thường xuyên trả vờ nổi giận, giương vuốt nhe răng ra đe dọa nhưng tuyệt nhiên chưa bao giờ nó dùng vuốt cào hay làm em bị thương, nhìn dáng vẻ xù lông của nó thực sự rất buồn cười. Khi em không có nhà thì nó lại đùa nghịch với Minu- chú chó nhà em nuôi. Khác với con mèo khác, nó không hề sợ chó mà thường xuyên đùa nghịch chạy nhảy đuổi nhau với chú chó.
Giống như những chú mèo khác, con mèo nhà em bắt chuột rất giỏi, từ khi bố em mang chú mèo con về nuôi thì trong nhà em không còn một con chuột nào cắn phá thóc lúa, đồ đạc ở trong nhà nữa. Mẹ em cũng không phải mua bẫy chuột thay thế các đồ đạc bị cắn phá. Đó chính là ưu điểm của loài mèo, nhưng đa số những con mèo có tật xấu, đó chính là hay ăn vụng, những thức ăn trong nhà, đặc biệt là mỡ và cá chính là những thức ăn khoái khẩu của những chú mèo, cũng là đối tượng hay bị ăn vụng nhất. Nhưng đó chỉ là những con nhà hàng xóm
1
0
Trịnh Quang Đức
25/12/2017 19:54:59
Đề 6:
Trả lời:
Thừa Thiên Huế là một tỉnh miền Trung, có diện tích tự nhiên 5.010km2, dân số 1.041.900 người, gồm nhiều dân tộc: Kinh, Tà Ôi, Cà Tu, Bru- Vân Kiều, Hoa... Thành phố Huế là tỉnh lỵ, ngoài ra còn có các huyện: Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà, Phú Vang, Phú Lộc, Hương Thủy, A Lưới và Nam Đông.
Thừa Thiên-Huế phía Bắc giáp Quảng Trị, phía Nam giáp Thành phố Đà Nẵng, Tây Nam giáp Quảng Nam, phía Tây giáp Lào, phía Đông giáp Biển Đông.
Địa hình Thừa Thiên-Huế chia làm ba vùng rõ rệt: vùng rừng núi chiếm khoảng ¼ diện tích, nằm ở biên giới Việt - Lào và kéo dài tới tận Đà Nẵng. Vùng trung du chiếm khoảng ½ diện tích, vùng này ở độ cao trung bình dưới 500m so với mực nước biển.
Đặc điểm chủ yếu là núi đồi của vùng này đỉnh rộng, sườn thoai thoải, phần lớn là đồi bát úp với chiều rộng vài trăm mét. Vùng đồng bằng, bề ngang hẹp và chiều dọc kéo dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, nằm song song với bờ biển, có nhiều cồn cát và đầm phá. Diện tích vùng đồng bằng chiếm khoảng 1.400km2.
Hầu hết những con sông lớn của Thừa Thiên-Huế đều bắt nguồn từ dãy Trường Sơn, chảy ngang qua đồng bằng xuống đầm phá trước khi đổ nước ra biển như sông Ô Lâu, sông Bồ, sông Hương, sông Truồi, sông Cầu Hai... Trong đó sông Hương là con sông thơ mộng nhất và lớn nhất, sau một hồi uốn lượn quanh co trong dãy Trường Sơn, rồi thả mình chảy ngang giữa lòng Thành phố Huế, một thời là kinh đô của triều Nguyễn.
Bờ biển Thừa Thiên-Huế dài trên 120km có cảng biển Thuận An và cảng nước sâu Chân Mây nằm ngay dưới chân đèo Hải Vân, có độ sâu từ 18-20m.
Về giao thông vận tải, Thừa Thiên-Huế có nhiều lợi thế, có cả đường thủy với hai hải cảng lớn và một hế thống sông ngòi và biển cả, có đường hàng không nội địa và quốc tế với sân bay Phú Bài được nâng cấp hiện đại, có đường sắt Bắc - Nam, có đường quốc lộ 1A và con đường Hồ Chí Minh vừa được xây dựng đi qua.
Thừa Thiên-Huế nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có bốn mùa rõ rệt: mùa xuân mát mẻ, ấp áp, mùa hè nóng bức, mùa thu dịu êm, mùa đông khá rét. Nhiệt độ trung bình cả năm là 250C. Mùa du lịch đẹp nhất từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau. Đây là thời gian mùa khô.
Cảnh sắc thiên nhiên Thừa Thiên-Huế nên thơ. Hai bên bờ sông Hương là những khu vườn sum suê, trĩu quả, với những đồi thông soi bóng. Tựa lưng vào Trường Sơn hùng vĩ, Thừa Thiên- Huế tự hào có khu nghỉ dưỡng Bạch Mã, thuộc khu nghỉ mát độc đáo của xứ Đông Dương, nó có cái mát mẻ của rừng núi Sapa (Lào Cai), của Bà Nà (Đà Nẵng) của Đà Lạt mộng mơ (Lâm Đồng), nó lại có cái hơi mặn mòi của Nha Trang, Vũng Tàu miền biển.
1
0
Hà Thanh
25/12/2017 19:55:05
Đề 15: Giới thiệu cây chuối
Là một loại cây vô cùng quen thuộc trong đời sống hàng ngày, đặc biệt là trong các vùng nông thôn Việt Nam, mang đến rất nhiều lợi ích của người nông dân, từ sức khỏe đến hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, đó chính là cây chuối. Cây chuối là loại cây vô cùng phổ biến ở quốc gia nhiệt đới ẩm gió mùa như Việt Nam, ở khắp các vùng miền trong cả nước đều có thể trồng cây chuối, bởi đây là một loại cây dễ trồng, dễ sống và thường mang lại năng suất cao cho những người nông dân.
Khác với các loại cây ăn quả khác như: cây xoài, cây nhãn, cây vải…thì cây chuối không phải là một loài cây thân gỗ, thân cây chuối mềm và được bao bọc bởi nhiều lớp bẹ chuối quấn quanh thân. Là một loại cây ăn quả phổ biến nên chỉ cần về vùng quê ở Việt Nam ta có thể bắt gặp nhiều nơi trồng chuối. Chuối thường được trồng thành vườn nên khi tham quan vườn chuối ta sẽ cảm nhận được sự quần tụ của loài cây này, chuối không sống đơn lẻ mà thường mọc thành cụm, hai ba cây chung với nhau.
Về cấu tạo của cây chuối thì có chút đặc biệt so với các loại cây ăn quả khác, như đã nói ở trên, chuối là loại thực vật thân mềm, thân của chuối được tạo nên bởi các lớp bẹ chuối quấn quanh thân. Thân cây chuối không có màu nâu nhạt như những loài cây khác mà mang màu trắng xanh hoặc màu đỏ mận chín, thân cây trơn nhẵn, và trên thân cây mọc ra những chiếc lá chuối lớn. Đây cũng là điều đặc biệt ở cây chuối bởi lá cả nó không mọc ra từ những cành, những tán cây mà mọc ra trực tiếp từ thân cây. Những chiếc lá chuối rất lớn, chiều dài có khi dài từ năm mươi cen ti mét cho đến một mét, bán kính của lá khoảng ba mươi cen ti mét.
Lá chuối có đường vân kẻ dọc, lá màu xanh non, những chiếc lá già hơn thì có màu xanh đậm. Tuy lớn nhưng lá chuối cũng rất dễ rách, đôi khi chúng bị gió lớn thổi cho rách. Dưới mỗi chiếc lá chuối đều có một trụ lá nổi lên trên bề mặt. So với lá thì trụ lá có phần cứng cáp hơn nên gió lớn chỉ có thể làm rách lá nhưng khó có thể làm gãy lá được. Lá chuối có công dụng vô cùng hữu ích trong cuộc sống sinh hoạt của người dân. Khi xưa, trong những phiên chợ làng, vì chưa có sự xuất hiện của những chiếc túi giấy hay túi ni lông thì người nông dân đã dùng những chiếc lá chuối để gói hàng, đựng hàng.
Ngoài ra, vì phiến lá chuối khá lớn, mềm lại có hương thơm dịu rất đặc trưng nên những người nông dân còn dùng nó để gói các loại bánh, như bánh chưng, bánh giày, gói giò hay gói nem. Những loại bánh này sau khi thành phẩm sẽ có hương thơm đặc trưng của lá chuối. Đến tận ngày nay, lá chuối vẫn được sử dụng trong cuộc sống hàng ngày, mà phổ biến nhất chính là gói giò và gói xôi. Vì đặc tính giá rẻ, dễ kiếm, lại có hương thơm đặc trưng nên được rất nhiều các cô, các bác ưu tiên sử dụng.
Một bộ phận khác của cây chuối chính là củ chuối, đó chính là phần rễ của cây chuối, nó có màu trắng sữa, phần củ chuối thường được dùng để cho các loài động vật ăn như: lợn, gà… Trong nạn đói năm 1945, củ chuối còn được xem như một loại thức ăn trong cuộc sống thường ngày. Phần khác của cây chuối chính là hoa chuối, hoa chuối có màu đỏ tươi, hình trứng. Hoa chuối cũng được tạo thành từng cánh, sau khi hoa rụng thì giữa những kẽ hoa sẽ nở ra một nải chuối, và cả một bông hoa chuối sẽ phát triển thành một buồng chuối khi trưởng thành. Hoa chuối không rực rỡ như những loại hoa khác nhưng nó lại mang vẻ đẹp độc đáo riêng, nói về vẻ đẹp của những bông hoa chuối, nhà thơ Tố Hữu từng viết:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng…”
Một buồng chuối thông thường có từ bảy đến mười nải chuối và trên mỗi nải thường có từ mười đến mười lăm quả, xếp thành hai hàng, giữa chúng được gắn kết bởi cuống của chuối. Vì hình dáng đẹp nên chuối chưa bao giờ vắng mặt trong mâm ngũ quả của các gia đình. Không chỉ đẹp mà chuối còn là một loại quả vô cùng thơm ngon, mềm ngọt, chứa rất nhiều chất dinh dưỡng không chỉ mang lại sức khỏe tốt cho con người mà nó còn có chức năng làm đẹp cho phụ nữ.
Trong quan niệm của người xưa, bên cạnh các loài cây tứ quý là tùng cúc trúc mai, thì cây chuối ngỡ như giản dị, dễ kiếm nhưng lại được coi là vua của các loại cây. Sở dĩ có điều này bởi nếu những cây tùng cúc tượng trưng cho khí chất cứng cỏi, bản lĩnh của người anh hùng thì cây chuối cũng vậy. Khi dùng lửa đốt cây chuối thì phần ruột của nó sẽ không hề bị lửa làm cho tổn hại, chính vì vậy mà nó tượng trưng cho cốt cách kiêu bạc, bất khuất của người quân tử, không gì có thể làm ảnh hưởng, tác động.
Cây chuối là một loại cây bình dân, phổ biến có thể dễ dàng tìm thấy trong cuộc sống. Tuy là loài cây dân giã nhưng nó có vai trò không hề dân giã chút nào, hơn nữa nó còn là cây anh hùng trong các loài cây anh hùng.
1
0
Trịnh Quang Đức
25/12/2017 19:56:23
Đề 7:
Trả lời:

Ở Việt Nam có sáu mươi tư tỉnh thành, mỗi tỉnh thành có một tên gọi khác nhau, có khi là gắn với những truyền thống của tỉnh thành ấy, có khi là gọi tên theo đặc trưng tỉnh thành. Và có một thành phố rất đặc biệt, nó đặc biệt không chỉ bởi vẻ đẹp đẽ, thơ mộng, không chỉ bởi những truyền thống văn hóa bởi nó đẹp bởi ngay cái tên gọi của nó, thành phố mang tên bác Hồ Chí Minh, tên của người lãnh tụ vĩ đại của Việt Nam, để mỗi khi nhắc đến thành phố Hồ Chí Minh thì người ta sẽ cảm nhận được một cái gì đó rất ấm áp, rất thân thương, dù cho chưa từng được đặt chân đến.

Thành phố Hồ Chí Minh là một trong hai trung tâm kinh tế, xã hội, văn hóa lớn nhất của Việt Nam, cùng với thủ đô Hà Nội, thì thành phố Hồ Chí Minh thường gắn với cái không khí nhộn nhịp, với sự tấp nập của chốn phồn hoa đô hội. Thành phố Hồ Chí Minh xưa có tên gọi là Sài Gòn, là thành phố trực thuộc trung ương, đây cũng là thành phố có quy mô dân số cũng như tốc độ đô thị hóa lớn nhất của cả nước, thành phố Hồ Chí Minh cũng là một trong những thành phố có diện tích lớn nhất của cả nước, với diện tích khoảng 2.095.06 ki lô mét vuông bao gồm mười chín quận và năm huyện.

Thành phố Hồ Chí Minh trước hết được biết đến là một trung tâm kinh tế, chính trị lớn nhất của cả nước. Điều này được thể hiện ngay trong cơ cấu kinh tế GDP và tỉ lệ đóng góp của thành phố này đối với sự phát triển chung của cả nước, chiếm khoảng hai mươi phần trăm trong cơ cấu kinh tế GDP của cả nước. Ở thành phố Hồ Chí Minh có rất nhiều những trung tâm công nghiệp lớn, có nhiều loại hình kinh tế, dịch vụ phát triển. Mặt khác, thành phố Hồ Chí Minh còn nằm ở khu vực chuyển tiếp giữa các vùng lớn của cả nước là Tây Nam Bộ và Đông Nam Bộ, nên thành phố Hồ Chí Minh có điều kiện trong trao đổi hàng hóa và liên kết phát triển kinh tế giữa các khu vực. Cũng vì sự phát triển vượt bậc của thành phố này mà đã thu hút về đây rất nhiều lao động, họ đến từ khắp nơi của các miền Tổ quốc.
 

Thành phố Hồ Chí Minh là nơi có quy mô và mật độ dân số lớn nhất của cả nước. Theo thống kê của cục dân số, thì dân số của thành phố Hồ Chí Minh năm 2011 lên đến 7.521.138 người. Trong khi đó, nếu tính cả những người mà không đăng kí lưu trú thì có thể lên đáng mười triệu người. Sự đông đúc về dân số này tạo điều kiện cho thành phố này có nguồn nhân lực dồi dòa, có điều kiện phát triển các ngành kinh tế. Nhưng mặt trái của nó không phải không có, dân số quá đông dẫn đến tình trạng bùng nổ dân số, thất nghiệp, thiếu việc làm và gây ra khó khăn trong việc quản lí dân số, giải quyết việc làm, còn chưa kể đến sự phát sinh của những tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường.
 

Về vị trí địa lí, thành phố Hồ Chí Minh là một trong các thành phố thuộc Đông Nam Bộ, cũng là thành phố đóng vai trò nòng cốt, chủ lực của khu vực Đông Nam Bộ. Vì nằm ở phía Nam của tổ quốc nên khí hậu ở thành phố Hồ Chí Minh nắng nóng quanh năm, ban ngày nắng nóng những về đêm thì thời tiết lại vô cùng mát mẻ, rất thuận lợi cho việc phát triển các loại cây công nghiệp nhiệt đới, mang lại nguồn tiền tệ lớn cho đất nước như: cà phê, ca cao,cao su, hạt điều…Đây cũng là khu vực ít có những thiên tai nhất của cả nước. Thành phố Hồ Chí Minh được bồi tụ của con sông Cửu Long màu mỡ, tạo nên một vùng đồng bằng Sông Cửu Long rộng lớn, có điều kiện để phát triển hoạt động sản xuất nông nghiệp. Vì vậy mà thành phố Hồ Chí Minh là thành phố dẫn đầu cả nước về bình quân lương thực trên đầu người lớn, không chỉ cung ứng lương thực cho người dân cả nước mà còn cho xuất khẩu. Mang lại nguồn lợi kinh tế cao.

Đó là vị trí địa lí và những lợi ích mà vị trí ấy mang lại cho thành phố Hồ Chí Minh. Còn xét về truyền thống lịch sử thì đây cũng là thành phố có truyền thống trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Mỗi khi có giặc ngoại xâm thì thành phố Hồ Chí Minh luôn là một trong ba thành phố luôn đi đầu trong hoạt động đấu tranh của cả nước, cùng với thành phố Hà Nội và thành phố Huế. Đặc biệt, trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Mĩ, thành phố Hồ Chí Minh mà khi đó mang tên là Sài Gòn là trung tâm chính trị, quân sự lớn của Mĩ – Ngụy. Cũng vì vậy mà đây là trọng điểm của các cuộc đấu tranh, là nơi chứng kiến mọi thăng trầm của lịch sử Việt Nam. Đại hội năm 1976 đã quyết định đổi tên Sài Gòn thành thành phố Hồ Chí Minh, thành phố mang tên Bác.

Như vậy, thành phố Hồ Chí Minh là một trong hai trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa giáo dục lớn nhất của Việt Nam, cùng với thủ đô Hà Nội,thành phố Hồ Chí Minh đã và đang có tốc độ phát triển kinh tế ngày nhanh chóng, góp phần to lớn cho sự phát triển chung của đất nước Việt Nam. Không chỉ là trung tâm trọng yếu phát triển kinh tế mà thành phố Hồ Chí Minh cũng là thành phố một thành phố giàu truyền thống lịch sử cũng như truyền thống văn hóa lâu đời.

1
0
Hà Thanh
25/12/2017 19:56:41
Đề 14: Giới thiệu cây xoài nhà em
Trong khu vườn nhà em có trồng rất nhiều loại cây ăn quả, đó là những loại cây ăn quả phổ biến, dễ trồng, dễ sống và cho nhiều trái tươi ngon, bổ dưỡng cho sức khỏe mọi người. Một trong những loại cây trồng trong vườn nhà em chính là cây xoài.
Cây xoài là một loại cây ăn quả phổ biến ở đất nước Việt Nam mà ở bất kì vùng miền nào cũng có thể nuôi trồng, bởi đây là loại cây rất dễ trồng, quả của nó cũng rất ngọt và bổ dưỡng, tốt cho sức khỏe. Nhà em trồng hai cây xoài trong vườn, cây nào cũng sai trĩu những quả, quả xoài thu hoạch được cũng là những trái xoài lớn thơm ngon, bắt mắt. Để mọi người có thể hiểu rõ hơn về cây xoài, em sẽ giới thiệu qua những đặc điểm để nhận diện. Cây xoài là một loài cây ăn quả thân gỗ, khi cây xoài trưởng thành có thể cao đến tám đến mười mét, cây xoài có nhiều nhánh, trên mỗi nhánh lại um tùm rất nhiều lá.
Thân cây xoài thường có màu nâu nhạt, không quá sần sùi như thân của cây nhãn, cây vải nhưng cũng không nhẵn bóng như thân cây chuối. Gỗ xoài rất chắc chắn, nên đến mùa thu hoạch mọi người có thể thoải mái trèo lên mà không sợ cành bị gãy. Lá của xoài có dạng hình trứng dài, mặt lá bóng bẩy đường gân lá khá rõ ràng, đặc biệt là ở mặt sau của lá, diềm lá bằng phẳng mà không có hình răng cưa như những loại lá khác. Lá xoài có màu xanh đậm, mặt lá cũng khá dày dặn. Cây xoài có rất nhiều nhựa, nhựa của nó thường có màu trắng sữa, và có mùi thơm dịu rất thoải mái. Nhưng nhựa xoài lại vô cùng dính, nếu để vô tình dính lên tay hay lên quần áo thì rất khó rửa, khó giặt.
Hoa của cây xoài có dạng hoa chum tương tự như hoa nhãn, hoa vải. Mùa xuân đến chính là mùa mà cây xoài đơm hoa kết trái, hoa xoài sẽ mọc thành từng trùm làm cho cây xoài mùa đơm hoa vô cùng rực rỡ, những bông hoa xoài trắng li ti trên nền lá xanh đẹp như một bức tranh mùa xuân rực rỡ nhất. Mùa xuân cũng là mùa của những cơn mưa xuân, trải qua mưa xuân sẽ có rất nhiều hoa xoài bị thui đen, những bông hoa nào chống chọi được với mưa xuân thì sẽ bước vào giai đoạn kết trái.
Những trái xoài non ban đầu chỉ nhỏ như những đầu đũa ăn cơm, nhưng nó sẽ phát triển theo thời gian, từ màu xanh non quả xoài trưởng thành sẽ dần chuyển sang màu chín vàng. Những quả xoài non ăn sẽ có một vị chua, còn khi đã chín thì sẽ có hương thơm dịu và vị ngọt thanh kích thích các giác quan của con người. Thông thường, một cây xoài thường ra rất nhiều quả, mọc thành từng trùm nên khi thu hoạch cũng sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.
Nhà em trồng hai cây xoài cát, đó chính là giống xoài ngon nổi tiếng, thân xoài dài và thon, vị ngọt đặc trưng của xoài cát cũng được nhiều người yêu thích hơn so với các loại xoài khác. Từ khi em còn rất nhỏ, ông nội của em đã mang về hai cây xoài nhỏ và trồng ở hai bên vườn, vì được thường xuyên chăm bón nên hai cây xoài của ông lớn rất nhanh, và đến nay hai cây xoài đã cao lớn đến khoảng tám mét, năm nào cũng đơm hoa kết trái cho gia đình em rất nhiều những trái xoài ngon.
Xoài rất dễ trồng vì không cần thường xuyên bón phân, tưới nước như những loài cây khác nó vẫn có thể phát triển tươi tốt và cho nhiều quả. Nếu được trồng trên mảnh đất màu mỡ, được thường xuyên chăm bón thì cây xoài sẽ trở nên vô cùng tươi tốt, quả thu hoạch được cũng to hơn, mỡ màng hơn. Cây xoài nhà em thường xuyên được ông nội chăm sóc, nên so với những cây xoài nhà các bác, các cô hàng xóm thì xoài nhà em lớn hơn và ngọt hơn rất nhiều. Thế mới thấy được sự quan trọng của sự chăm sóc.
Năm nay, cây xoài nhà em cho rất nhiều quả, quả nào cũng to, cũng mọng khiến cho em vô cùng thích thú, khi xoài đã chín vàng đều thì bố em đã ngắt xoài xuống. Sau bữa cơm gia đình em cùng nhau thưởng thức sự tươi ngon của xoài đầu mùa, quả nhiên vô cùng ngọt, vị ngọt thanh chứ không phải ngọt lợ. Em đã rất vui vẻ và ăn rất nhiều bởi đây chính là loại hoa quả mà em yêu thích nhất, mẹ em cũng thường xuyên nói đùa ăn nhiều xoài để cao lớn hơn. Xoài nhà em thu hoạch được rất nhiều nên bố em mang cho các bác, các chú, và những bác hàng xóm mỗi người một ít để mọi người cùng nhau chia sẻ hương xoài đầu mùa.
Em rất yêu khu vườn nhà em, bởi trong khu vườn đó trồng rất nhiều loại cây ăn quả mà em yêu thích, cây xoài là một trong những loài cây em yêu thích nhất, không chỉ bởi hương vị tươi ngon của quả xoài mà cây xoài đối với em như một người bạn vậy, cây xoài đã có từ rất lâu, cùng em trưởng thành qua từng ngày, chứng kiến sự trưởng thành của em như một người bạn thân thực sự. Vì vậy mà em sẽ thường xuyên chăm sóc để cây xoài lớn hơn, phát triển hơn nữa.
1
0
Trịnh Quang Đức
25/12/2017 19:58:05
Đề 8:
Trả lời: Sau Tết Nguyên Đán, nhân dân các địa phương trong cả nước thường tổ chức lễ hội để tưởng nhớ cội nguồn. Trong lễ hội thường có những trò chơi để thêm phẩn tưng bừng, náo nhiệt.
Trong những ngày đầu năm, khắp các làng bản Việt Nam rộn ràng tiếng trống hội xuân thúc giục lòng người. Vào dịp này, bên cạnh hoạt động lễ nghi mang ý nghĩa tín ngưỡng còn có nhiều hội vui, diễn xướng sân khấu và các trò chơi truyền thống, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Sau đây là một số trò chơi tiêu biểu:
* Hội cồng chiêng:
Hội cồng chiêng là hội xuân tưng bừng nhất của bà con dân tộc Mường ở Mai Châu, Hòa Bình và ở nhiều địa phượng vùng cao Tây Bắc. Mỗi bản có một đội văn nghệ chuyên biểu diễn cồng chiêng và những bài dân ca được lưu truyền đã bao đời. Các chị đánh cồng trông thật xinh xắn, trẻ trung trong bộ quần áo đẹp nhất của dân tộc mình. Tiếng cồng, tiếng chiêng nhịp nhàng vang lên, hòa cùng tiếng suối róc rách, tiếng chim hót líu lo tạo thành một bản nhạc làm say đắm lòng người.
* Thi bơi thuyền:
Hoạt động đua thuyền thể hiện sinh hoạt văn hóa sông nước cổ truyền của người Việt Nam trải dài từ các tỉnh phía Bắc đến khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Thi bơi thuyền vừa để vui chơi, giải trí, rèn luyện sức khỏe và kĩ năng chèo thuyền để phục vụ cho phong tục cúng thủy thần hoặc tưởng nhớ các anh hùng giỏi thủy chiến… Tùy theo từng nơi, mỗi thuyền đua có khoảng chừng hai đến ba chục tay chèo là nam giới, đại diện các phôn, sóc, xóm, làng. Sau hiệu lệnh, những con thuyền lao vun vút trong tiếng hò reo cổ vũ và chiêng trống rộn rã đôi bờ sông. Nhiều làng chài ven biển ở phía Nam còn có hội thi lắc thúng, mỗi chiếc thuyền thúng bằng nan chỉ có một người, ví dụ như ở Khánh Hòa, Phan Thiết…
Trong lễ mừng năm mới của người Khơ-me Nam Bộ, trò đua ghe ngó được dân chúng yêu thích nhất.
Từ sáng sớm, hai bên bờ sông đã đông nghịt khán giả. Các đội đua sẵn sàng vào cuộc. Trên mỗi chiếc ghe dài từ sáu đến bảy mét là hai hàng vận động viên ngồi song song, mỗi người cầm một mái chèo. Đứng ở mũi thuyền là người chỉ đạo với lá cờ nhỏ trong tay. Hiệu lệnh xuất phát vừa dứt, hàng chục con thuyển đua nhau rẽ sóng, vun vút lao lên phía trước. Mặt sông dậy sóng trắng xóa. Tiếng reo hò động viên, cổ vũ vang lên không ngớt. Khí thế bừng bừng sôi nổi của cuộc đua đem lại niềm vui to lớn cho mọi người tham gia lễ hội.
* Trò chơi thi thả chim:
Ở vùng Thuận Thành, Bắc Ninh, mùa xuân thường có rất nhiều lễ hội. Trong lễ hội có nhiều trò chơi. Trò thi thả chim được nhiều người ưa thích.
Trò chơi được tổ chức ở bãi cỏ rộng đầu làng hoặc trước sân đình. Các gia đình dự thi mang theo đàn chim bồ câu đã được huấn luyện kĩ càng. Lần lượt, từng đàn được thả ra. Đàn nào bay cao, bay xa và lượn đẹp nhất sẽ được Ban giám khảo trao giải. Hàng trăm cặp mắt háo hức ngước nhìn theo những cánh chim vun vút chao liệng giữa bầu trời mùa xuân trong sáng.
* Trò chơi đánh đu:
Hàng năm, sau Tết Nguyên Đán, làng Phương Chiểu huyện Phúc Thọ nằm ven sông Hồng thường mở hội xuân với những trò chơi dân gian như kéo co, đấu vật, thổi cơm thi, cờ người, đánh đu,…
Trước sân đình, mấy cột đu bằng tre đã được trồng rất chắc chắn. Mỗi cột có một chiếc đu. Mặt đu là một tấm ván dày, đủ chỗ cho hai người đứng. Các anh chị thanh niên từng cặp lên đánh đu. Nhún chân càng mạnh, đu càng bay bổng giữa tiếng hò reo, cổ vũ của dân làng.
* Hát quan họ:
Nói đến Bắc Ninh là nói đến xứ sở của những phong tục tập quán tốt đẹp có tự lâu đời, mà nổi tiếng nhất là hội thi hát quan họ trong dịp đầu năm mới.
Từ sông Hồng, sông Đuống, ngược lên phía Bắc là đến với vùng Kinh Bắc cổ kính, quê hương của các làn điệu quan họ mượt mà. Tục chơi quan họ ở các làng quê của Bắc Ninh, Bắc Giang thường gắn với hội làng, hội chùa. Liền anh, liền chị ở các làng đi lại thăm hỏi, tặng quà rồi hát với nhau đến tận nửa đêm. Bên cạnh những canh hát trong nhà còn có các canh hát ngoài trời mà hội Lim là một thí dụ. Hội mở vào ngày 13 tháng Giêng Âm lịch. Quan họ các nơi có thể đến hát tự do trên đồi Lim. Những nhóm quan họ nam và nữ trong trang phục dân tộc đi tìm nhau trong ngày hội, mời nhau xơi trầu và nhận lời hát kết nghĩa giữa các làng. Hát trên đồi và hát cả dưới sông. Những con thuyền nhỏ chở theo các làn điệu dân ca điểm thêm cho không khí ngày xuân nét thơ mộng, trữ tình.
Giữa khung cảnh tươi đẹp của mùa xuân, hội thi hát quan họ được tổ chức trong sân đình, sân chùa, trên đồi, hay dưới bến sông. Các liền anh đầu đội khăn xếp, mặc áo the, quần trắng. Các liền chị đội nón quai thao, chít khăn mỏ quạ, mặc áo tứ thân mớ ba mớ bảy, yếm đào, thắt lưng hoa lí trông thật xinh tươi: Bên nam, bên nữ hoặc từng cặp hát đối đáp với nhau những làn điệu dân ca ngọt ngào, say đắm như Trao duyên, Trúc xinh, Ngồi tựa mạn thuyền, Lên chùa,… để bày tỏ tình cảm. Kết thúc buổi hát, trước lúc chia tay, bài Người ơi người ở đừng về cất lên tha thiết như muốn níu bước chân du khách.
* Trò chơi ném còn:
Ở vùng cao Tây Bắc, ném còn là một trò chơi phổ biến của các dân tộc Thái, Tày, Mường,… Mùa xuân, hoa ban nở trắng rừng. Các bản làng tưng bừng trong không khí lễ hội mừng năm mới.
Thanh niên nam nữ chia làm hai bên. Giữa khoảng đất rộng trồng một cây cột tre khá cao. Đỉnh cột là vòng tròn trang trí rất đẹp mắt. Quả còn bằng vải, tròn như trái bóng nhỏ, đuôi dài chừng bốn năm tấc bằng vải ngũ sắc. Người chơi lấy đà ném quả còn sao cho bay lọt qua khung tròn trên đỉnh cột là được. Trò chơi ném còn đòi hỏi sự tinh mắt, khéo tay; rất hợp với tuổi trẻ và mùa xuân tươi đẹp, đầy sức sống.
* Trò chơi múa lân:
Múa lân có từ lâu đời và rất thịnh hành ở các tỉnh phía Nam, nhất là khu vực có nhiều người Hoa sinh sống. Múa lân diễn ra vào những ngày Tết để cầu chúc năm mới an khang thịnh vượng. Các đoàn lân cố khi đông tới trăm người, là thành viên của một câu lạc bộ hay một lò võ trong vùng. Lân được trang trí công phu, râu ngũ sắc, lông mày bạc, mắt lộ to, thân mình có các họa tiết đẹp. Múa lân rất sôi động với hàng loạt động tác khỏe khoắn, bài bản: lân chào ra mắt, lân chúc phúc, lân leo cột,… Bên cạnh lân có ông Địa bụng to cầm quạt vui nhộn chạy quanh. Thông thường múa lân còn kèm theo cả biểu diễn võ thuật.
* Trò chơi kéo co:
Một trò chơi truyền thống được phổ biến trong các lễ hội là thi kéo co thường được tổ chức ở sân đình hay bãi cỏ rộng giữa làng. Những người tham gia chia làm hai phe, đứng thành một hàng đối mặt nhau, cùng nắm sợi dây thừng, dây chão hay một cây sào tre hoặc người sau ôm lưng người trước, còn hai người đứng đầu hàng của hai phe thì nắm tay nhau cho chắc, lấy dấu vạch vôi ở giữa làm mốc được, thua. Bên nào kéo được đối phương sang qua vạch mốc về phía mình là bên đó thắng. Kéo co thu hút nhiều người, tạo không khí hào hứng, sôi động, rèn luyện sức khỏe, tính kỉ luật, ý thức tập thể ở mỗi người. Chính vì vậy, kéo co được đông đảo thanh niên, thiếu niên ưa thích.
* Trò chơi cờ người:
Cờ người là trò chơi độc đáo của dân tộc Việt Nam mang tính trí tuệ, thể hiện nét văn hóa truyền thống Á Đông. Bàn cờ là sân bãi rộng, mỗi phe có mười sáu người mặc đồng phục đỏ hoặc xanh, cầm trên tay hay đeo trước ngực biển kí hiệu quân cờ. Hai tướng (tướng ông, tướng bà) của từng bên đều mặc trang phục thời xưa lộng lẫy có cờ đuối nheo đeo cheo sau lưng và được che lọng. Khi muốn đi một nước cờ, người đấu gõ một tiếng trống báo hiệu cho người chạy cờ tới nghe lệnh. Người này sẽ truyền đạt lại lệnh để quân cờ di chuyển. Có thể người đấu cờ cầm lá cờ nhỏ, định đi quân nào thì trực tiếp phất cờ vào quân đó rồi dẫn đến vị trí mới.
* Trò chơi thi nấu cơm:
Được tiến hành trong những kì hội làng ngày xuân, thi nấu cơm thể hiện sự khéo léo, tháo vát của các chàng trai, cô gái. Trò chơi này bắt nguồn từ quá trình chống chọi với thiên tai, địch họa, vừa lao động, hành quân đánh giặc, vừa bảo đảm cơm nước đầy đủ, gọn gàng, do đó đòi hỏi mỗi người phải có tính tự lực và óc sáng tạo. Có nhiều hình thức thi tài.: vừa thổi cơm vừa bồng con, thổi cơm trong lúc hành lễ, khênh kiệu chạy, thổi cơm trên thuyền… Với khoảng thời gian nhất định và trong điều kiện không bình thường, người thì phải vo gạo, nhóm bếp, giữ lửa cho đến khi cơm chín ngon mà không bị cháy, khê. Sau đó, nồi cơm của các thí sinh được Ban giám khảo gồm các bô lão có uy tín trong làng chấm điểm, ở một số vùng còn có hát đối đáp, giao duyên trong hội thỉ, tạo không khí náo nhiệt, vui vẻ.
Điểm qua một vài trò chơi ngày xuân, chúng ta có thể thấy khả năng sáng tạo, tính cách và bản sắc văn hóa dân tộc được thể hiện thật rõ nét. Chơi xuân, lễ hội vừa là dịp giao lưu, du lịch vừa là dịp học hỏi kinh nghiệm, đua sức, đua tài, làm cho cuộc sống ngày thêm tươi đẹp.
1
0
Hà Thanh
25/12/2017 19:58:20
Đề 21: Giới thiệu con chim bồ câu
Trong thế giới động vật vô cùng phong phú, đa dạng có rất nhiều loài động vật họ nhà chim, theo thống kê của cục kiểm lâm thì có đến hơn một nghìn loài động vật họ nhà chim. Chính sự phong phú ấy đã tạo ra cho hệ sinh thái của Việt Nam trở nên đa dạng hơn, giàu có hơn. Trong cuộc sống của chúng ta cũng từng bắt gặp rất nhiều loại động vật thuộc họ này, mà điển hình nhất mà chúng ta có thể kể đến như những loài chim: chim ri, chim chích, chim cu gáy hay những loài họ hàng xa hơn như: gà, vịt, ngan, ngỗng…. Và một trong những loài động vật họ chim vô cùng quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày, đó chính là con chim bồ câu.
Chim bồ câu là loài động vật họ chim, kích cỡ của loài chim bồ câu lớn hơn những con chim thông thường. Cũng giống như những loài động vật khác như: Lợn, gà, chó, mèo…thì chim bồ câu cũng là một loài vật nuôi phổ biến trong các gia đình. Chim bồ câu có thể thích nghi với cuộc sống của con người nên việc nuôi dưỡng chim bồ câu cũng khá đơn giản không cầu kì, phức tạp. Khác với gà, vịt thường được con người nuôi thành bày đàn thì chim bồ câu không nhất thiết phải nuôi thành bầy đàn như vậy, có gia đình chỉ nuôi một, hai con, nhưng có những gia đình nuôi đến bốn , năm con. Số lượng chim bồ câu tùy thuộc vào ý muốn của những người chủ của chúng. Và chim bồ câu có thể kiếm ăn riêng rẽ mà không đi theo bày đàn.
 
Chim bồ câu khi trưởng thành thì có thể to bằng nắm tay của người lớn, màu sắc của những con chim bồ câu cũng khá đa dạng, có con màu lông trắng muốt, có con màu xanh tím, cổ đen, cũng có con chim bồ câu có màu sắc pha trộn giữa xanh tím và đen, nhưng nhiều và phổ biến nhất vẫn là loài bồ câu trắng. Lông của chim bồ câu cũng vô cùng mềm mượt, dầu của chim bồ câu nhỏ, mỏ nhỏ màu đen và đôi mắt nhỏ đen láy. Cánh của chim bồ câu cũng rất lớn, vì vậy khi sải cánh bay thì chim bồ câu cũng bay rất nhanh. Tuy nhiên, do đặc trưng về sinh lí nên chim bồ cầu không bay được nhanh và bay đường dài như những loài chim khác.
Tuy nhiên, đổi lại chim bồ câu lại hết sức nhanh nhẹn, dù có tập trung kiếm ăn trên sân hay khoảng đất trỗng thì mọi người cũng không thể bắt được nó. Muốn bắt được chim bồ câu thì chỉ có thể đợi chúng về chuồng và bắt. Chim bồ câu có đôi chân nhỏ , tương đối giống chân của con gà nhưng nhỏ hơn rất nhiều, màu sắc của đôi chân thì phụ thuộc vào màu sắc của con chim, nếu như chim bồ câu trắng có màu chân là màu vàng thì chim bồ câu màu xanh tím lại có chân màu đen. Ngoài di chuyển bằng đôi cánh thì đôi chân của chim bồ câu cũng rất nhanh nhẹn, nó có thể đi mọi nơi để kiếm ăn.
Chim bồ câu là loài động sinh con bằng cách ấp trứng, mỗi lần sinh nở chim bồ câu thường đẻ được từ ba đến năm quả trứng. Cũng giống như loài gà, chim bồ câu sẽ ấp trứng, sau khoảng từ mười đến mười lăm ngày thì những quả trứng này sẽ nở thành những con chim bồ câu non. Những chú chim bồ câu non vì còn yếu nên trong những tháng đầu, chim bồ câu mẹ sẽ kiếm thức ăn về tận tổ cho chim con. Tổ của chim bồ câu cũng khác hoàn toàn với các loài chim khác, đó không phải những tổ chim làm bằng rơm, bằng rạ, cũng không phải do chim bồ cầu tự xây dựng cho mình mà do con người xây dựng.
Tổ của chim bồ câu được con người đóng bằng gỗ, diện tích đủ cho một đến hai con chim bồ câu ở. Một ngôi nhà cho chim bồ câu như vậy thường có khoảng bốn lỗ. Chim bồ câu là loài vật khá thông minh, vì vậy mà con người không nhốt chúng trong lồng như những loài chim khác mà thường cho chúng tự do kiếm ăn, đêm đến thì chúng sẽ tự biết đường về nhà của mình.
Chim bồ câu còn là loài chim đại diện cho nền hòa bình không chỉ của Việt Nam mà còn nhiều quốc gia khác trên thế giới. Đã có bài hát viết về cánh chim bồ câu như:
“Em như chim bồ câu tung cánh giữa trời
Em như chim bồ câu trắng bay giữa trời
Em mong sao đất nước không có nước mắt rơi chia lìa
Em mong sao trên trái đất hoa thơm nở bốn mùa”
Những lời ca đã mượn biểu tượng của cánh chim bồ câu trắng để thể hiện khát vọng về hòa bình cho nhân loại. Hay trong bài “Ước nguyện” có viết:
“Nếu là chim tôi sẽ là loài bồ câu trắng
Nếu là hoa tôi sẽ là một đóa hướng dương”
Như vậy, chim bồ câu là một loài động vật họ chim, mang nhiều đặc trwung sinh hoạt khá riêng biệt. Đây là loài chim sống hiền lành, thích nghi nhanh với cuộc sống của con người, và chim bồ câu cũng là loài chim biểu tượng cho nền hòa bình và khát khao hòa bình.
0
1
1
0
Trịnh Quang Đức
25/12/2017 19:59:51
Đề 10:
Việt Nam là một vùng quê của những truyền thống lịch sử, truyền thống văn hóa. Trong suốt quá trình phát triển của một nghìn năm lịch sử, trong đời sống sinh hoạt lâu đời của người dân, không chỉ những phong tục tập quán, những bản sắc văn hóa mang dấu ấn của Việt Nam được hình thành mà những trò chơi dân gian cũng vô cùng phong phú và độc đáo, những trò chơi này cũng góp phần thể hiện được những nét đẹp về văn hóa cũng như những nét đẹp về tinh thần, tâm hồn của con người Việt Nam. Một trong những trò chơi dân gian tiêu biểu mà ta có thể kể đến, đó chính là trò chơi thả diều.
Thả diều là một trò chơi dân gian độc đáo của con người Việt Nam, trò chơi này được hình thành trong quá trình sinh hoạt và lao động của người Việt Nam. Xuất hiện từ rất sớm và trò chơi độc đáo này vẫn được duy trì và phát triển cho đến tận ngày hôm nay. Khi xưa, cùng với nhịp độ của cuộc sống sinh hoạt thường ngày, ông cha ta không chỉ lo lao động, làm ăn sinh sống mà còn rất chú trọng đến đời sống tinh thần của mình, mà cụ thể nhất có thể kể đến, đó chính lá sự sáng tạo các trò chơi dân gian, một trong số đó là thả diều. Đây là cách thức giải trí độc đáo của ông cha cha sau mỗi giờ lao động đầy mệt mỏi, là cách lấy lại sức lực sau những lo toan của cuộc sống, của áp lực cơm – áo – gạo –tiền.
Thả diều là trò chơi mà trong đó người chơi sẽ dựa vào sức gió của tự nhiên, đưa những cánh diều bay lên cao, sự kết nối của người chơi đối với con diều là thông qua một sợi dây dù đủ dài để đưa con diều bay lên tận trời xanh. Sợi dây sẽ giúp con người điều khiển con diều của mình bay đến độ cao nào hay bay đến nơi nào mình mong muốn. Khi thu diều lại thì người chơi cũng cuộn từ từ sợi dây dù này lại, con diều sẽ gần mặt đất hơn, và cuối cùng sẽ hạ cánh để được người chơi xếp lại, mang về nhà. Nguyên lí sử dụng của các con diều này là dựa váo sức gió. Vì vậy mà hôm nào trời không có gió thì không thể chơi thả diều.
Nhưng nếu trời có gió nhưng người chơi không có kĩ năng thả, không biết cách đưa con diều bay ngược chiều gió để lên không trung thì con diều cũng không bay được như mong muốn của chúng ta.Về cấu tạo của chiếc diều thì bao gồm phần khung diều, thường thì những phần khung diều này sẽ được làm bằng tre hoặc bằng gỗ, đây là phần chống đỡ cho con diều, giúp con diều có những hình dáng nhất định và có thể bay lên. Những chiếc tre hay gỗ dùng để làm khung diều này phải thật mảnh, dẻo dai bởi nếu quá nặng, to thì sẽ làm cho con diều trở nên nặng nề, từ đó khó có thể bay lên, hoặc bay được nhưng cũng không cao. Còn nếu như phần khung này có mềm, không có độ dẻo dai thì khi có gió lớn thì con diều sẽ bị gió thổi làm cho gãy khung.
Bộ phận thứ hai của diều đó là phần nguyên liệu phụ để trang trí cho con diều cũng là bộ phận giúp con diều có thể đón được gió và bay lên cao. Thông thường, phần áo diều này thường được làm bằng giấy báo, vải mỏng hoặc có thể bằn ni lông. Ngày nay, sự phát triển của đời sống tinh thần đã đòi hỏi tính thẩm mĩ cao hơn, do đó mà những con diều được trang trí với những màu sắc vô cùng bắt mắt, hình dáng con thuyền cũng được chế tạo thành nhiều kiểu khác nhau, có thể là diều hình con chim, con bươm bướm, chim phượng hoàng… Bộ phận không thể thiếu đó chính là dây dù. Dây dù buộc vào con diều để những người chơi có thể điều khiển con diều, nâng lên hay hạ xuống theo ý thích của mình, dây dù có thể làm bằng những sợi dây gai mỏng nhưng có độ bền cao, độ dài của dây này cũng từ tám đến mười mét.
Những con diều thường được mang đi thả vào những buổi chiều có gió, nhưng gió này chỉ vừa đủ để diều bay lên, không quá lớn, bởi nếu vậy con diều sẽ bị gió thổi cuốn đi mất. Thời điểm người ta đi thả diều đông nhất, đó chính là tầm chiều tà, vì lúc này thời tiết sẽ rất mát mẻ, lại có gió. Đặc biệt ở những vùng nông thôn, cứ buổi chiều đến là mọi người sẽ tụ tập nhau lại đến một khu đất trống, hút gió để cùng nhau thả diều. hình ảnh những cậu bé chăn trâu thổi sáo, thả diều có lẽ đã quen thuộc đối với người dân Việt Nam. Sự sáng tạo của con người là không có giới hạn, cùng là con diều dùng để thả nhưng người ta có thể tạo cho nó rất nhiều màu sắc, hình dáng, thậm chí những con diều này còn phát ra những âm thanh du dương, êm ái. Con diều này được người ta gọi là diều sáo, theo đó thì những chiếc sáo nhỏ được thiết kế đặc biệt sẽ gắn lên thân của mỗi con diều. Để khi diều bay lên cao, có gió thì những con diều này sẽ tự động phát ra tiếng sáo.
Trò chơi thả diều là một trò chơi dân gian đã có từ rất lâu đời, người ta có thể chơi thả diều vào những lúc rảnh rỗi, giúp giải tỏa những căng thẳng sau những giờ làm việc mệt mỏi. Đặc biệt, ngày nay diều vẫn thu hút đông đảo sự yêu thích của rất nhiều người, hàng năm vẫn có rất nhiều các hội thi thả diều lớn được tổ chức, được rấ nhiều người lựa chọn, tham gia.
1
0
Trịnh Quang Đức
25/12/2017 20:00:21
Dàn ý tham khảo:
I. Mở bài: giới thiệu về trò chơi dân gian
Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại, thì cuộc sống con người trở nên tiện nghi và hiện đại hơn. Tuy nhiên, việc gì cũng có mặt lợi và mặt hại có nó,bất kì việc gì cũng thế. Nhất là khi các trò chơi hiện đại ra đời thì các trờ chơi dân gian bị lãng quen, không ai nhắc tới hay chơi nó. Trò chơi dân gian rất thú vị và có tính giải trí rất cao nhưng bị lãng quen. Một trò chơi dân gian ngày xưa nhiều người chơi như trò chơi cướp cờ, một trò chơi rất thú vị.
II. Thân bài: thuyết minh về trò chơi dân gian
1. Dụng cụ để chơi cướp cờ:
- Một cây cờ
- Một vòng tròn và cờ đặt ở giữa
- Vạch xuất phát cũng là đích của hai đội chơi
2. Cách chơi cướp cờ:
- Chia làm hai đội, mỗi đội bao nhiêu người tùy ý và chia theo số thứ tự 1,2,3,4,5…
- Khi người điều khiển hô số thứ tự của người nào thì người đó chạy lên cướp cờ
- Người điều khiển gọi ai về người đó phải về
- Mỗi lượt chơi có thể có nhiều người chơi
3. Luật chơi cướp cờ:
- Khi bạn lấy được cờ mà người của đội bạn chạm vào bạn là thua
- Khi lấy được cờ chạy nay về đích không để đội bạn chạm vào người, như vậy ta sẽ chiến thắng
- Số thứ tự nào phải vỗ số thứ tự đó
- Số nào bị thua sẽ không bị gọi nữa
- Người chơi không được ôm hay giữ nhau để đội mình cướp cờ
- Khoảng cách từ cờ đến vạch xuất phát của hai đội bằng nhau
III. Kết bài: nêu cảm nghĩ của em về trò chơi dân gian
- Đây là một trò chơi hết sức thú vị và ý nghĩa
- Chúng ta hãy lưu giữ những nét đẹp truyền thống này
1
0
Hà Thanh
25/12/2017 20:00:37
Đề 20: Giới thiệu con ngựa mà em biết
Ở những vùng nông thôn thường nuôi rất nhiều các vật nuôi trong nhà cũng như những loại gia súc gia cầm như gà, vịt, ngan ngỗng….ngoài ra để sản xuất nông nghiệp thì những người nông dân còn nuôi thêm rất nhiều các loại vật nuôi để lấy sức kéo như: con trâu, con bò….và những loại vật nuôi chuyên dùng để chuyên chở nông sản từ ruộng về nhà như con ngựa. Ở quê hương em dù lấy sức kéo để cày bừa ruộng đất hay chuyên chở nông sản thì mọi người thường dùng trâu hoặc bò vì chúng dễ thích nghi với điều kiện khí hậu của nơi em hơn. Còn ngựa thì rất ít gia đình có, vì vậy mà lần đầu tiên em nhìn thấy con ngựa chính là một lần cùng ông nội của em sang làng bên cạnh.
Hoạt động sản xuất nông nghiệp vô cùng vất vả, người nông dân không chỉ phải lo canh tác trồng lúa nước mà liên quan đến hoạt động sản xuất còn rất nhiều các khâu quan trọng khác. Một trong những khâu quan trọng hàng đầu trước khi bước vào một mùa vụ mới chính là khâu làm đất. Đất đai ở ruộng phải được làm tơi sau khi nước vào mới có thể nhuyễn ra, cây lúa nước mới có thể hấp thụ được những chất dinh dưỡng của đất. Nhưng để làm tơi đất là một công việc vô cùng vất vả, tiêu hao nhiều sức lực của người nông dân. Vì vậy mà từ rất sớm những người nông dân đã nghĩ ra cách mượn sức của động vật nuôi trong nhà. Mà cụ thể đó là con trâu, con bò, đó đều là những con vật hiền lành, có sức khỏe nên việc cày bừa được người nông dân mượn sức của chúng.
 
Ở địa phương của em, cả về việc chuyên chở thóc lúa, kéo xe đều do trâu bò đảm nhiệm thì ở địa phương bên cạnh làng em việc chuyên chở lại do những con ngựa đảm nhiệm. Ngựa tuy không thể cày bừa như trâu bò nhưng nó cũng là một loại vật nuôi vô cùng hữu ích đối với công việc sản xuất đồng áng. Ngựa có sức khỏe nhưng vì chiều cao không phù hợp nên không thể làm công việc cày bừa như con trâu, con bò. Nhưng về việc kéo xe, vận chuyển hàng hóa, nông sản thì không kém trâu bò, thậm chí có phần nhanh nhẹn hơn rất nhiều. Tốc độ của nó phụ thuộc vào ý muốn của những người chủ của nó.
Vì làng của em không có ngựa nên em chỉ nhìn thấy con ngữa ngoài đời một lần duy nhất, đó chính là khi cùng ông sang làng bên cạnh để thăm người bà con. Ở làng bên cũng sản xuất nông nghiệp nên về cơ bản không có mấy khác biệt so với làng của em. Nhưng ngay khi bước chân sang làng bên cạnh, điều khiến em vô cùng thích thú và hào hứng, đó là ở đây có rất nhiều ngựa. Ngựa ở đây được thả thành bầy, đang từ tốn nhai cỏ ở vệ cỏ ven đường. Đây là lần đầu tiên em nhìn thấy con ngựa mà không phải nhìn thấy trên ti vi.
Những con ngựa có màu lông đen, trắng, xám rất đa dạng, con nào cũng cao lớn, có vẻ rất khỏe mạnh, trên cổ của mỗi chú ngựa lại có những bờm lông dài, mượn dựng lên nhìn rất đẹp. Đôi mắt của ngựa dẹt và dài, đen láy, trên miệng của những chú ngựa còn gắn thêm một sợi dây cương, nó được người chủa của những chú ngựa buộc vào để có thể dễ dàng điều khiển những chú ngựa. Đôi chân của chú ngựa rất dài và khỏe mạnh, em đã hiểu được vì sao những chú ngựa có thể chạy nhanh như vậy, dưới bốn chân của ngựa được gắn thêm những chiếc móng ngựa bằng kim loại, mà theo như ông em giải thích thì con ngựa thường xuyên phải làm việc nặng nên gắn móng cho ngựa là để giảm bớt cho chúng những đau đớn, do đó mà làm việc cũng hiệu quả hơn.
Thân mình của những chú ngựa thon dài, nhìn hình dáng của những con ngựa như vậy em không nghĩ chúng lại có kết quả phi thường như vậy. Đuôi của những chú ngựa cũng rất dài với lông đuôi dài mượt. Trong các cuộc chiến tranh của ông cha ta xưa, ngựa chính là phương tiện di chuyển và là người bạn đồng hành cùng những người lính, vì vậy mà hình ảnh của những người anh hùng, những người chinh phu luôn gắn liền với yên ngựa.
Không chỉ trong các cuộc đấu tranh, hình ảnh của những chú ngựa cũng xuất hiện trong rất nhiều những bài đồng dao của trẻ em khi xưa như trong bài đồng dao “chi chi chành chành”
“Chi chi chành chành
Cái chanh đổ lửa
Con ngựa chết trương
Ba vương ngũ đế
Bắt dế đi tìm
Ùa à ù ập
Sập cửa đi tìm”
Hay:
“Nhông nhông nhông
Ngựa ông đã về
Cắ cỏ bồ đề
Cho ngựa ông ăn”
Qua những bài đồng giao ấy ta có thể thấy được mối quan hệ thân thiết giữa con ngựa đối với cuộc sống của con người, vì nó không chỉ là một loài vật nuôi mà còn là một người bạn đồng hành, hình ảnh của những con ngựa cũng đã có đời sống lâu bền trong đời sống tinh thần của người Việt Nam.
1
0
N. V. H 8b
25/12/2017 20:02:03
Thuyết minh về con cá chép
Cá chép là loài cá nước ngọt, thường sống ở sông, hồ hoặc được nuôi trong đầm, ao…Cá chép có mặt ở
nhiều nơi trên thế giới. Người phương Đông coi cá chép là loài cá quí…
Màu đặc trưng của cá chép là màu vàng đen, sẫm dần về phía vây lưng. Mấy năm gần đây xuất hiện loài
cá chép có màu đỏ rất đẹp. Vảy cá chép tròn và to, xếp chồng lên nhau như ngói lợp.
Thân cá chép hình thoi, thon dài. Đầu gồm hai mắt, hai đôi lỗ mũi, hai đôi râu, miệng nhỏ. Chỗ giáp với
thân là hai nắp mang, bên trong có mấy lớp mang màu hồng. Khúc đuôi bắt đầu từ đuôi vây hông và tận
cùng là vây đuôi.
Cá chép có một đôi vây ngực, một đôi vây hông là các vây chẵn và vây đuôi, vây lưng, vây hậu môn là
những vây lẻ. Mỗi vây gồm nhiều tia vây được nối liền với nhau bằng một nếp da mỏng, mở ra, thu vào
dễ dàng. Khi cá uốn mình, hai thùy của vây đuôi uốn theo hình số tám, đẩy cá tiến lên phía trước. Vây
đuôi còn có tác dụng điều chỉnh hướng bơi của cá.
Ngoài nhiệm vụ giữ thăng bằng cho cá khi bơi đứng một chỗ, đôi vây ngực và đôi vây hông còn giúp cá
bơi theo hướng lên trên hoặc xuống dưới, rẽ phải hoặc rẽ trái, giảm vận tốc bơi, dừng lại hoặc bơi giật lùi.
Khi cá bơi nhanh, các đôi vây chẵn áp sát vào thân để giảm sức cản của nước.
Cá chép thường sống trong suối, sông, hồ, đầm, ao, ruộng, …Chúng thích kiếm ăn ở tầng nước giữa và
tầng đáy. Cá chép là loại ăn tạp. Chúng ăn giun, ốc, ấu trùng, côn trùng và cỏ nước. Trong ao nuôi, cá
chép còn ăn cả phân xanh, cám, bã đậu, thóc lép… Cá chép dễ nuôi, ít bệnh nhưng tốc độ tăng trưởng
không nhanh bằng các loài cá khác. Sau sáu tháng, cá chép có trọng lượng nửa kí trở lên.
Thịt cá chép dai, ngọt và thơm, được nhiều người ưa thích. Cá chép nấu cháo, cá chép rán, hấp, nấu canh
chua hoặc sốt với cà, nấm, lẩu cá chép…là những món ăn ngon và bổ. Người ốm, người phụ nữ mới sinh
con thường được nấu cháo cá chép ăn để tẩm bổ, mau khỏe lại.
Hiện nay, cá chép được nuôi ở nhiều nơi, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, mang lại nguồn lợi kinh tế đáng
kể cho người nông dân. Trong dân gian, cá chép là biểu tượng cho sự may mắn và nghị lực vươn lên của
con người. Câu chuyện “Cá chép vượt vũ môn hóa rồng” làm mọi người xúc động và tranh Cá chép Đông
Hồ thường được người Việt mua về treo trong nhà ngày Tết.
Cá chép ở Việt Nam còn là một loài cá gắn liền với văn hóa truyền thống của dân tộc. Cứ đến ngày 23
tháng Chạp cuối năm, vào dịp Tết ông Táo, nhà nhà lại thả cá chép ra sông, hồ để đưa ông Công, ông Táo
lên Trời báo cáo tình hình gia đình
1
0
Trịnh Quang Đức
25/12/2017 20:02:48
Đề 11: giới thiệu trò chơi dân gian chi chi chành chành
Phong tục văn hóa Việt Nam vô cùng phong phú, đa dạng. Đa dạng không chỉ ở những tập tục sinh hoạt, những bản sắc văn hóa của cộng đồng mà cái đặc sắc của văn hóa Việt Nam còn nằm ở chính những trò chơi dân gian của ông cha ta xưa. Trò chơi dân gian là những trò chơi do cha ông ta thế hệ trước sáng tạo ra nhằm tổ chức sinh hoạt cộng đồng, đó là những trò chơi của tập thể, gồm nhiều người cùng chơi. Qua những trò chơi đó vừa mang tính giải trí sau những giờ lao động mệt mỏi, mặt khác nó có vai trò thắt chặt mối quan hệ tình cảm giữa con người với con người, thể hiện được đời sống tâm hồn phong phú của con người Việt Nam. Bên cạnh nhiều trò chơi dân gian dành cho những người đã trưởng thành như: đá cò, kéo co, cầu kiều…. thì cũng có rất nhiều trò chơi dành cho các em thiếu nhi nông thôn xưa, một trong số những trò chơi đó có trò chơi “Chi chi chành chành”.
Chi chi chành chành là trò chơi dân gian đã có mặt rất sớm trong nền văn hóa dân gian của Việt Nam xưa. Trẻ em nông thôn xưa thường tụ tập và chơi với nhau nhiều trò chơi thú vị đầy sáng tạo và một trong những trò chơi mà các em yêu thích nhất, đó chính là trò chi chi chành chành. Tên gọi chi chi chành chành khá độc đáo, bởi đó là cách gọi hợp âm giữa hai từ láy “chi”, “chành”, những từ ngữ này hoàn toàn không có ý nghĩa nào đặc biệt mà chỉ là cách gọi quen thuộc, dễ phát âm của các em nhỏ khi chơi. Về thực tế, trò chơi không hề có tên gọi chính thức, tên gọi chi chi chành chành chỉ là một câu nói phổ biến trong lời bài hát đồng dao mà các em hát khi chơi trò chơi này.
Tuy nhiên, về tên gọi không có điều gì đáng bàn cãi, bởi đó chỉ là một tên gọi giúp người ta phân biệt trò chơi dân gian này với trò chơi dân gian khác. Điều quan trọng đó chính là trò chơi hữu ích và thu hút được sự yêu thích của đông đảo trẻ em không chỉ ở thế hệ trước mà cả ở thời điểm hiện đại ngày nay nó cũng không hề mất đi sức hút của mình. Nói về cách thức chơi, ta có thể điểm qua những điểm chính như sau: Trò chơi chi chi chành chành là một trò chơi tập thể, thường được chơi ít nhất từ hai người đến nhiều người. Nhưng nếu càng có nhiều người thì trò chơi càng trở nên thú vị hơn vì trò chơi đề cao tình đoàn kết, tính tập thể.
Trò chơi chi chành chành chia thành hai phe, một phe làm người đi bắt, phe này chỉ bao gồm một người, những người con lại sẽ là những người chơi. Trò chơi sẽ là sự tương tác giữa hai phe, người tổ chức chơi, tức là người đảm nhận nhiệm vụ đi bắt thì sẽ cố gắng làm sao để nắm được tay của một người nào đó trong phe người chơi. Còn người chơi thì phải làm sao tập chung chú ý để khi lời hát kết thúc thì không để cho người đi bắt bắt được cánh tay của mình. Không gian diễn ra trò chơi rất đơn giản, có thể là trong không gian văn hóa sinh hoạt cộng động, hoặc cũng có thể là một không gian hẹp như như nhà ở, trường học vì trò chơi này không yêu cầu khoảng trống quá rộng.
Bắt đầu trò chơi, người đi bắt sẽ xòe lớn bàn tay của mình ra, để cho những người chơi khác để một ngón tay của mình vào lòng bàn tay ấy, sau khi đã hoàn thành bước chuẩn bị thì mọi người bắt đầu cùng nhau hát nên bài đồng giao chi chi chành chành quen thuộc:
“Chi chi chành chành
Cái chanh đổ lửa
Con ngựa chết trương
Ba vương ngũ đế
Bắt dế đi tìm
Ùa à ù ập
Sập cửa đi tìm”
Đây là lời đồng giao đã trở nên vô cùng quen thuộc đối với các em nhỏ, vì những câu đồng giao rất vần và dễ nhớ nên ai tham gia trò chơi cũng đều thuộc lòng lòng. Khi trò chơi bắt đầu thì không chỉ người đi bắt mà cả những người đi tìm đều cùng nhau hát bài đồng giao này. Bắt đầu lời ca ai cũng hào hứng và vô cùng thoải mái hát nhưng đến câu “sập cửa đi tìm” thì mọi người đều phải hết sức tập trung chú ý để thực hiện phần tiếp theo của trò chơi. Vì ngay sau khi bài đồng giao kết thúc, người tổ chức chơi sẽ nắm bàn tay mình lại một cách bất ngờ, người chơi phải rút tay của mình ra một cách nhanh nhạy sao cho tay của mình không bị người tổ chức nắm lại.
Nếu người chơi không kịp rút tay ra mà bị người tổ chơi nắm lại thì sẽ là người tiếp theo làm người đi bắt, tức là người đi tìm, và ngược lại người bắt đước sẽ chuyển về vị trí của người chơi và trò chơi bắt đầu lại một lần nữa. Nếu như nhiều người đều không rút tay ra kịp và bị nắm lại thì sẽ dùng trò chơi oẳn tù tì để tìm ra người tổ chức chơi tiếp theo. Thường là những người chơi oẳn tù tì thua thì sẽ làm người đi bắt.
Những trò chơi dân gian vô cùng đơn giản nhưng lại vô cùng lí thú đã thu hút được sự yêu thích của đông đảo trẻ em nhiều thế hệ. Chi chi chành chành dễ chơi, dễ nhớ, và thể hiện được sự hồn nhiên trong tâm hồn của trẻ thơ.
1
0
Hà Thanh
25/12/2017 20:03:04
Đề 18: Giới thiệu về con chó:
Trong chúng ta, chắc hẳn ai cũng biết chó là một con vật đáng yêu và rất hữu ích đối với con người. Nhiều người xem chúng như dũng sĩ giữ nhà, một số người còn xem chó là một người bạn trung thành. Nhưng chúng ta có biết rõ về chó chưa? Chúng mình hãy cùng tìm hiểu về con vật đáng yêu này!
Chó là giống vật nuôi đầu tiên được con người thuần hóa được cách đây 12.000 năm vào thời kì đồ đá.Tổ tiên cũa loài chó bao gồm cả cáo và chó sói, còn loài chó như chúng ta thấy ngày nay được tiến hóa từ một loài chó nhỏ màu xám.
Chó là loài động vật 4 chân, ăn tạp. Kích thước trung bình của chó là dài 40-160 cm.Mắt chó có đến 3 mí: một mí trên, một mí dưới và mí thứ 3 nằm ỡ giữa, hơi sâu vào phía trong, giúp bảo vệ mắt khõi bụi bẩn. Tai của chúng rất thính, có thể nhận được 35000 âm rung chỉ trong một giây. Khứu giác của chúng cũng rất thính như tai. Người ta có thể ngửi thấy mùi thức ăn ở đâu đó trong nhà bếp nhưng chó thì có thể phân biệt từng gia vị trong nồi, thậm chí những chú chó săn còn tìm ra những cây nấm con nằm sâu trong rừng, vì chúng có thể phân biệt gần 220 triệu mùi. Chi kiểu có ngón : chi trước 5 ngón, chi sau 4 ngón. Ngón có vuốt nhưng không co rút được, vì vậy nên nó không leo trèo và khó giữ mồi lâu. Chó chạy xa và mềm nhở chân dài. Não chó rất phát triển. Chó phân biệt vật thể đầu tiên là dựa vào chuyển động rồi sau đó đến ánh sáng và cuối cùng là hình dạng . Vì thế thị giác của chúng rất kém, chỉ nhìn thấy 2 màu đen-trắng . Ta có thấy vào mùa đông lạnh, thỉnh thoảng chó hay đuôi che lấy cái mũi ướt át , đấy là cách chúng giữ ấm cho mình. Màu sắc lông đa dạng. Chó có đến 2 lớp lông : lớp bên ngoài như chungt1 ta đã thấy, còn lớp lót bên trong giúp cho chúng giữ ấm, khô ráo trong những ngày mưa rét, thậm chí còn có nhiệm vụ “ hạ nhiệt” trong những ngày oi bức.
Chó con mới sinh ra thì nhắm mắt, sau một tháng nó mới mở mắt và bắt đầu đi đứng được. Lúc mới ra đời, chó kh6ong có răng nhưng chĩ sau 4 tuần tuổi đã có thể có 28 chiếc răng.Bộ hàm đầy đủ của loại thú này là 42 chiếc.
Chúng ta phải thừa nhận một cách chắc chắn rằng chó là một con vật “ đa năng”: chó giữ nhà, chó cảnh, chó săn bắt, chó thể thao, chó nghiệp vụ….. Chó nghiệp vụ lại được đào tạo chuyên sâu hơn như chó phất hiện, phòng ngừa mối sử dụng trong ngành nghiên cứu hộ đê điều; chó cảnh sát giúp phát hiện ma túy, săn bắt tội phạm ; chó làm các dịch vụ bảo vệ ; chó cứu hộ trong các tình trạng khẩn cấp như động đất, thiên tai, bão lũ….; chó săn bắt mồi, chim choc…. Không thể kể hết những công việc mà chó có thể giúp đỡ hoặc thay thế con người.
Nhờ trí thông minh, sự nhanh nhẹn …Chó có thể tiếp thu mọi tín hiệu, hiệu lệnh của người điều khiển rồi làm theo sau khi nhìn con người làm mẫu. Trí thong minh của chó chỉ đứng sau khỉ nhưng xếp trên cá heo. Tuy nhiên theo Pavlop , có thể huấn luyện được một con chó thong minh chứ khó dạy dỗ được nó như con khĩ. Điều đó cho thấy chop là loài vật biết tiếp thu, nghe lời. Nhờ các cơ quan khứu giác, thính giác cực kì phất triển nên chó có khả năng nhận biết, phát triển các vật thể , dấu hiệu lạ từ xa để thong báo cho con người đề phòng.
Trong văn hóa, tâm linh của một số dân tộc, chó được thờ cúng tại các đền thờ, miếu mạo. tục thờ chó kah1 phổ biến ở nhiều dân tộc trên thế giới (ĐNÁ, TNÁ, Đông Á).Trong thần thoại vùng Địa Trung Hải và Cận Đông, hỉnh tượng chó, kẻ canh giữ gia súc đã sớm trở thành kẻ canh giữ thế giới âm phủ.
Chó có rất nhiều loại & từ đó người ta đặt tên cho chúng. Khi nhắc đến những loại chó được huấn luyện để tìm giấu vết tội phạm, phát hiện ma túy thì không thể nói đnế một loaị điển hình, đó là chó Béc-giê. Chó Béc-giê là giống chó thuần chủng của Đức. Loại chó này thường có chân cao bụng thon, tai to và dựng đứng giống như chó sói. DB chó Béc-giê rất thong minh, khứu giác và thính giác rất phát triển . Chính vì vậy mà người ra thường duy trì chó Béc-giê truy tìm giấu vết tội phạm, phát hiện ma túy hay những công việc khác cũng đòi hỏi sự thông minh nhanh nhạy.
Còn khi nhắc đến chó cảnh thì ta cũng hiểu đó chính là chó nhà. Những con chó này thường được nuôi làm cảnh đồng thời kiêm cả nhiệm vụ giữ nhà. Có rất nhiều lại chó cảnh như : chó xù, chó Nhật, chó mini, chó Bắc Kinh, chó Chihuahua Pox. Nếu như long chó Béc-giê ngắn và mượt thì chó cảnh thường có bộ long dài và có thể mượt hay xù.
Chó hữu ích và rất gần gũi với con người, do đó chúng ta cần chăm sóc tốt cho chúng. Chăm sóc chó cũng khá đơn giản, công việc này khong phức tạp và việc luyện tập cũng vậy. Với tính hiền lành của chúng thì thật dễ hòa đồng và nhanh hiểu được những điều mà gia đình bạn cần ở chúng , chỉ cần bạn có sự quan tâm đến chúng và dắt đi dạo thường xuyên, mỗi một tuần thì tắm cho nó một lần và đôi khi bạn cũng cần chãi lông cho con vật yêu của mình. Tiêm vắc-xin phòng bệnh cho chúng định kì theo chỉ định của bác sĩ thú y giúp chú chó khỏe mạnh .
Chó là loài động vật rất có ích trong mọi lĩnh vực. Chó còn là bạn của con người bởi sự thông minh, lanh lợi, trung thành và nhiều tác dụng của nó. Chó được coi là loài động vật rất quan trọng và giúp việc đắc lực cho con người.
1
0
Trịnh Quang Đức
25/12/2017 20:03:50
Đề 12: giới thiệu về trò chơi dân gian nhảy dây
Việt Nam ngoài những phong tục tập quán đa dạng, phong phú, nền văn hiến ngàn năm tuổi thì còn có một hệ thống đồ sộ những trò chơi dân gian, đó là những trò chơi được ông cha ta sáng tạo ra trong quá trình sinh hoạt tập thể. Đó là những trò chơi mang tính giải trí, tính cộng đồng cao bởi nó không phải là trò chơi cá nhân mà đòi hỏi mọi người tập trung lại mới có thể chơi. Vì vậy mà Việt Nam luôn nổi tiếng với bạn bè thế giới bởi tính cố kết cộng động vô cùng cao. Tính đoàn kết thể hiện trong nhiều lĩnh vực của đời sống nhưng chỉ cần nhìn qua những khía cạnh nhỏ hơn, thông thường hơn của cuộc sống là có thể thấy rõ được điều này. Một trong những trò chơi dân gian khá phổ biến ở Việt Nam, chính là trò chơi nhảy dây.
Nhảy dây là một trò chơi dân gian vô cùng quen thuộc, đặc biệt là ở những vùng quê, vùng nông thôn ở Việt Nam, giống như trò chơi chi chi chành chành hay chơi xóc hòn thì trò nhảy dây cũng vô cùng đơn giản, chỉ cần một sợi dây là mọi người có thể tham gia. Một trong những đặc trưng riêng biệt của các trò chơi dân gian đó chính là tính cộng đồng cao. Bởi vậy mà bất kể trò chơi dân gian nào cũng đòi hỏi sự tham gia của cả tập thể, nó giúp gắn kết quan hệ giữa người với người trong một cộng đồng. Mang tính giải trí cao bởi thời gian lễ hội diễn ra các trò chơi dân gian thường là vào khoảng thời gian nông nhàn trong sản xuất nông nghiệp, vào cuối những mùa vụ, khi những người nông dân đã hoàn thành công tác mùa vụ, đang trong thời gian chờ bước vào mùa vụ mới.
Trò chơi dân gian nhảy dây cũng có rất nhiều phiên bản và nhiều hình thức chơi,bởi ở những nơi khác nhau thì con người lại có xu hướng chơi những hình thức mà mình cho là thú vị nhất, phù hợp nhất với mình. Trước hết, nói đến trò nhảy dây truyền thống, đây chính là trò chơi đòi hỏi sự nhạy bén, tinh tế và sự khéo léo của đôi chân. Theo đó, sợ dây sẽ dùng trong trò chơi dân gian này chính là dây thừng, dây chão, đây đều là những thứ rất dễ tìm trong cuộc sống xưa, bởi nó là thứ dùng để trói, buộc đồ đạc của người nông dân.
Người chơi sẽ bao gồm từ năm đến mười người, chia ra làm hai nhóm, một nhóm sẽ đảm nhận nhiệm vụ quất dây, nhiệm vụ này cần có hai người, mỗi người đứng ở một đầu của sợi dây, cùng ăn ý cùng quất sợi dây theo hướng xuôi kim đồng hồ. Nghe có vẻ dễ dàng nhưng nhiệm vụ này đòi hỏi sự nhịp nhàng của bàn tay, sự ăn ý của đồng đội, bởi nếu một người quất nhanh, một người quất chậm thì sợi dây thừng sẽ bị rối, người chơi sẽ không thể nhảy vào sợi dây được. Sợi dây thừng được quất lên sẽ tạo thành một vòng cung, có bán kính cao hơn đầu một người, bởi chỉ có như vậy người chơi mới có thể nhảy vào sợi dây, tương tác cùng với nó.
Nhóm còn lại sẽ là nhóm người chơi, nhóm này thì có thể có trên hai người, càng đông càng vui. Nhưng ngược lại, càng đông thì trò chơi càng trở nên khó khăn hơn, bởi đông người sẽ khó trong việc tương tác, nhịp nhàng nhảy. Người chơi sẽ nghe theo nhịp đếm một, hai, ba của người quất dây mà nhảy vào sợ dây, khi sợi dây chạm xuống mặt đất thì người chơi sẽ phải nhảy lên cao, sao cho đôi bàn chân của mình không làm vướng dây, người nhảy được càng nhiều thì sẽ là người chiến thắng. Trò chơi thú vị hơn ở chỗ, đó chính là không phải từng người nhảy một mà sẽ gồm bốn người nhảy một lượt, hai người bên này, hai người bên kia.
Khi có hiệu lệnh để nhảy thì sẽ cùng nhau nhảy vào sợi dây làm sao cho đồng đều nhất, khi có nhiều người cùng nhảy thì sẽ khó có thể điều khiển đôi chân của mình hơn, nhưng nếu hiểu ý của đồng đội, nhịp nhàng nhảy lên được thì sẽ vô cùng đều đặn, đẹp mắt. Đây cũng là mục đích quan trọng của trò chơi, gắn kết mọi người lại với nhau, sau trò chơi mọi người sẽ hiểu nhau hơn, sẽ hiểu hơn quá trình hợp tác để hoàn thành một nhiệm vụ. Thế mới nói, trò chơi dân gian tuy đơn giản, dễ chơi nhưng bao giờ nó cũng ẩn chứa trong đó những ý nghĩa nhân văn cao cả của ông cha ta.
Ở những dị bản khác thì trò chơi nhảy dây không phải dùng dây thừng, dây chão để chơi mà dùng một loại dây khác có độ đàn hồi, co gián cao hơn, như dây chun, dây nịt… và cùng với đó thì hình thức của trò chơi cũng hoàn toàn khác biệt. Thay vì sợi dây được quất cao lên để người chơi có thể nhảy vào thì trò chơi nhảy dây này sẽ do hai người đứng hai bên, để sợi dây vào chân của mình, người chơi phải nhảy vào khoảng trống của hai sợi dây, theo nhịp độ là: nhảy vào, xoạng ra, bắt chéo, nhảy vào và nhảy ra. Quan trọng là hoạt động nhảy vào nhảy ra phải diễn ra thật nhanh, không được gián đoạn. Hoàn thành xong một phần thì sẽ có phần thi khó khăn hơn, mà người ta gọi là các bàn, thấp nhất là bàn gối, sau đó đến bàn đùi, bàn hông, bàn nách và cao nhất chính là bàn cổ. Cùng với đó là độ cao ngày càng được nâng lên.
Trò chơi dân gian nhảy dây tuy có nhiều phiên bản, ở mỗi phiên bản thì hình thức chơi có sự khác biệt, nhưng điểm chung chính là sự thú vị ở trò chơi, bởi nó đề cao tính cộng đồng, tính gắn kết giữa con người với nhau chứ không đơn giản là một trò chơi nhằm mục đích giải trí.
1
0
Hà Thanh
25/12/2017 20:05:55
Đề 18: Giới thiệu về con mèo:
Trong các con vật nuôi trong gia đình em thì em yêu thương chú mèo nhỏ lông mượt mà. Nhưng không phải ai cũng biết được loài mèo có những điều gì thú vị, hôm nay em sẽ kể cho các bạn những điều hay về những chú mèo.
Mèo chính là động vật thuộc lớp thú, có bốn chân. Và hơn nữa thì trên mình phủ một bộ lông dày, mượt mà. Mèo nhà thì thường rất hiền, khác hẳn với những con mèo mà theo bố em nói là chưa được thuần nên nó vẫn cắn phá.
Hiện nay thì trên thị trường có rất nhiều loại mèo, đó là những con mèo lông xù, mèo mướp, mèo mun, … Thật không khó để nhận ra được trên mặt mèo có bộ ria mép, đó chính là trợ thủ đắc lực của mèo. Ta như thấy được có những lúc đuổi chuột, chuột chạy vào hang, mèo lại như muốn đuổi theo thì ria mép không được chạm vào cửa hang. Và còn nếu như mà không may ria mép chạm vào thì mèo không thể đuổi theo được. Khi chúng ta quan sát sẽ thấy được vì chiều dài của ria đúng bằng chiều rộng thân. Đặc biệt hơn nữa đó chính là tai mèo rất thính và mắt mèo rất tinh. Tai mèo dường như có thể nghe mọi cử động của chuột, dù là nhỏ nhất. Mắt mèo có cấu tạo đặc biệt, có thể co giãn, ban ngày mắt mèo nhu lại bị co lại, bạn đêm mắt mèo giãn ra, có thể nhìn được trong bóng tối đem như mực nữa đó.
 
Thêm một điều để có thể giải thích vì sao mèo hay bắt chuột vào ban đêm. Những chú mèo nói chung luôn luôn sợ lạnh, chúng thích ngủ ở những nơi ấm áp, thích cuộn tròn người và vuốt ve bộ lông mượt mà của nó. Khi vào mùa đông, mèo hay ngủ cạnh bếp lò, chúng cứ chui vào trong chăn ấm mà có thể ngủ những giấc thật ngon lành. Còn khi mà vào những ngày nắng, mèo hay nhảy lên mái bếp hoặc nằm ngoài sân để sưởi nắng. Qủa thật bộ lông mèo rất đặc biệt, khi được hiếu sáng sẽ tổng hợp thành vitamin D, và những chúng mèo lấy vitamin bằng cách liếm lông, chúng rất hay nhầm tưởng mèo tự làm sạch cho mình là vì thế đó. Và cả dưới chân mèo có một đệm thịt dày, bộ đẹm này dù nhảy trên cao xuống cũng không phát ra tiếng động được giúp cho chúng bắt chuột được nhiều hơn. Chúng bắt chuột vì thức ăn chính của mèo là chuột, ngoài ra mèo còn ăn thêm cơm, cá và rau.
Chân những chú mèo có móng vuốt đàn hồi, bình thường móng cụp lại, khi tự vệ hay vồ mồi thì móng duỗi ra như khoe cả những bộ vuốt sắc nhọn.
Nhưng cho đến hiện nay con người dường như rất ít nuôi mèo để bắt chuột như trước. Những quán nhậu thịt mèo lại được mọc lên nhiều nên bạn và tôi phải bảo vệ loaig mèo trước nguy cơ tuyệt chủng.
Qủa thực rằng những chú mèo đáng yêu giúp cho con người rất nhiều việc. đó chính là từ việc bắt chuột trừ hại cho mùa màng, đến việc bắt gián cho tủ quần áo chũng ta thơm tho. Em cũng luôn luôn rất yêu quý mèo và luôn bảo vệ chúng.
1
0
N. V. H 8b
25/12/2017 20:06:25
Đi khắp đất nước Việt Nam, nơi đâu ta cũng gặp những bụi chuối, vườn chuối xanh um trước ngõ, sau vườn. Chuối là loài cây dễ thích nghi, có thể sống được trên nhiều vùng đất khác nhau, từ miền núi, trung du đến đồng bằng châu thổ. Ở nông thôn, hầu như nhà nào cũng trồng chuối, không nhiều thì ít.
Cây chuối gồm các bộ phận: củ, thân, lá, hoa và quả.
Củ chuối là thân chính, mọc ngầm dưới đất, xung quanh có rễ, làm nhiệm vụ hút chất dinh dưỡng và sinh sản ra các cây chuối con. Thân chuối là thân giả, do các bẹ ốp lại mà thành, giữa có lõi dẫn chất dinh dưỡng nuôi cây. Thân chuối nhẵn bóng, hình trụ, cao khoảng vài mét trở lên. Lá chuối mọc ở đầu mỗi bẹ, xung quanh ngọn. Mỗi tàu gồm một cuống lá dài chạy dọc giữa bản lá rộng cỡ bốn đến năm tấc, dài gần hai mét.
Khi cây chuối trưởng thành, hoa chuối trổ từ chính giữa ngọn. Cuống hoa lớn, búp hoa thon dài, có nhiều cánh màu nâu đỏ. Dưới mỗi cánh là một nải non, gồm hai tầng quả, đầu mỗi quả có túi phấn vàng, hơi dính. Một hoa có thể cho một buồng từ năm đến mười nải, mỗi nải khoảng trên chục quả. Quả chuối lúc non màu xanh nhạt, lúc già xanh đậm. Sau vài tháng, cắt xuống ủ chín, quả sẽ có màu vàng.
Nước ta có rất nhiều giống chuối. Phổ biến nhất là chuối tiêu, được trồng nhiều ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ (còn gọi là chuối già). Chuối tiêu ưa đất thịt pha cát, nhất là đất bãi bổi ven sông. Chuối tiêu chín có vị thdm ngọt, đậm đà. Người miền Bắc rất ưa chuộng chuối tiêu, nhất là chuối trứng cuốc (vỏ có những đốm nâu giống như trứng chim cuốc), ăn chung với cốm Vòng, là một món quà ngon tuyệt của mùa thu. Chuối tiêu còn làm mứt để xuất khẩu, dùng chung với nước trà nóng rất ngon. Chuối tây (còn gọi là chuối sứ), thích hợp với đất trung du và miền núi, mọc nhiều ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Quả chuối ngắn và to, chất lượng không bằng chuối tiêu.
Chuối cau ít được trồng vì cây nhỏ, trái nhỏ, năng xuất thấp. Tuy thế chuối cau lại quý hiếm vì thường được dùng để cúng trong dịp ngày rằm, mùng một Âm lịch hằng tháng. Ngày xưa, người ta còn gọi chuối cau là chuối tiến vua.Chuối hột cây cao từ bốn đến năm mét, lá dài và rộng, xanh thẫm. Quả ngắn hình lục lăng, chứa nhiều hạt. Lúc non bào mỏng ăn kèm với các loại rau thơm, rau sống trong các món nướng, món gỏi, thịt luộc, tôm chua… làm tăng hương vị. Quả già phơi khô, sao vàng rồi đem ngâm rượu, thành một vị thuốc chữa bệnh nhức mỏi khá công hiệu.
0
0
Bùi Nhung
25/12/2017 20:29:11

Trong nền văn học đồ sộ của Việt Nam,để làm nên các tác phẩm có giá trị không thể kể đến công lao của các hình thức thơ mà các nhà thơ,nhà văn đã lựa chọn làm chất liệu cho tác phẩm của mk.Nếu nói nội dung là phần hồn của bài thơ,bài văn là hình thức thơ lại đc xem là phương tiện truyền tải để những nội dung ấy,quan niệm củ ấtc giả có thể đến đc với bạn đọc.Một (.) những thể thơ đc xem là mang đậm màu sắc dân tộc VN, có thể kể đến là thể thơ Lục Bát.

So với nền văn học lâu đời như nền văn học Trung Hoa,nền văn học VN có thể coi là non trẻ hơn.Nhưng qua bao thế hệ người VN luôn có ý thức trong việc tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại,sau đó tiếp thu,chọn lộc 1 cách có sáng tạo vào VN,sự chọn lọc này hoàn toàn sáng tạo,bởi vì người VN ta chỉ tiếp thu những cái phù hợp nhất vs quốc gia,dân tộc của mk,và sự kế thừa đó ko pải sao chép mà là sáng tạo.Nhìn lại quá trình tiếp thu ấy ta có thể thấy đc bản lĩnh dân tộc của con ng VN.

Xét về thể thơ và các hình thức thơ (.) văn học,người VN bên cạnh tiếp thu của người Trung Hoa như thể thơ Cổ Phong hay thơ Đường Luật.Bên cạnh đó,ông cha ta cx sáng tạo riêng cho dân tộc mk những thể thơ độc đáo,mang đậm màu sắc,văn hoá của dân tộc VN như thể thơ Song Thất Lục Bát hay thơ Lục Bát đã trở nên vô cùng quen thuộc (.) văn hoá VN.Trong đó, thể thơ Lục Bát là thể thơ phổ biến đc nhiều nhà thơ lựa chọn làm chất liệu để xây dựng nên các tác phẩm văn chương của mk,cx là xd nên những bài văn mang đậm tinh thần dân tộc nhất.

Thể thơ Lục Bát là thể thơ bao gồm có hai phần:câu sáu là câu lục,câu tám là câu bát nối tiếp nhau.Thông thườg 1 bài thơ Lục Bát thường đc mở đầu bằng câu lục và kết thúc bằng câu bát.Về số lượng câu trong 1 bài thơ Lục Bát ko hề bị giới hạn nghiêm ngặt như các bài thơ Đường Luật hay thể thơ Song Thất Lục Bát.Một bài thơ Lục Bát có thể bao gồm hai hoặc bốn câu như:

''Anh đi anh nhớ quê nhà

Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương

Nhớ ai dãi nắng dầm sương

Nhớ ai tát nc bên đường hôm nao''

Hoặc cx có thể kéo dài ra hàng nghìn câu thơ,mà điển hình nhất mà ta có thể kể đến,đó chính là kiệt tác''Đoạn Trường Tân Thanh''(Truyện Kiều) của đại thi hào Nguyễn Du( gồm 3253 câu,trong đó gồm 1627 câu lục và 1627 câu bát).Số lượng câu thơ hoàn toàn phụ thuộc vào nội dung và ý đồ mà nhà văn muốn truyền tải đến nhữung độc giả.

0
0
Bùi Nhung
25/12/2017 20:31:28
mk chưa viết xong còn 1 ít nx xíu nx viết tiếp nha.<3
1
0
Ngọc Trâm
26/12/2017 09:23:17
Đề bài: Em hãy thuyết minh về một trò chơi dân gian- trò chơi thả diều.
Việt Nam là một vùng quê của những truyền thống lịch sử, truyền thống văn hóa. Trong suốt quá trình phát triển của một nghìn năm lịch sử, trong đời sống sinh hoạt lâu đời của người dân, không chỉ những phong tục tập quán, những bản sắc văn hóa mang dấu ấn của Việt Nam được hình thành mà những trò chơi dân gian cũng vô cùng phong phú và độc đáo, những trò chơi này cũng góp phần thể hiện được những nét đẹp về văn hóa cũng như những nét đẹp về tinh thần, tâm hồn của con người Việt Nam. Một trong những trò chơi dân gian tiêu biểu mà ta có thể kể đến, đó chính là trò chơi thả diều.
Thả diều là một trò chơi dân gian độc đáo của con người Việt Nam, trò chơi này được hình thành trong quá trình sinh hoạt và lao động của người Việt Nam. Xuất hiện từ rất sớm và trò chơi độc đáo này vẫn được duy trì và phát triển cho đến tận ngày hôm nay. Khi xưa, cùng với nhịp độ của cuộc sống sinh hoạt thường ngày, ông cha ta không chỉ lo lao động, làm ăn sinh sống mà còn rất chú trọng đến đời sống tinh thần của mình, mà cụ thể nhất có thể kể đến, đó chính lá sự sáng tạo các trò chơi dân gian, một trong số đó là thả diều. Đây là cách thức giải trí độc đáo của ông cha cha sau mỗi giờ lao động đầy mệt mỏi, là cách lấy lại sức lực sau những lo toan của cuộc sống, của áp lực cơm – áo – gạo –tiền.
Thả diều là trò chơi mà trong đó người chơi sẽ dựa vào sức gió của tự nhiên, đưa những cánh diều bay lên cao, sự kết nối của người chơi đối với con diều là thông qua một sợi dây dù đủ dài để đưa con diều bay lên tận trời xanh. Sợi dây sẽ giúp con người điều khiển con diều của mình bay đến độ cao nào hay bay đến nơi nào mình mong muốn. Khi thu diều lại thì người chơi cũng cuộn từ từ sợi dây dù này lại, con diều sẽ gần mặt đất hơn, và cuối cùng sẽ hạ cánh để được người chơi xếp lại, mang về nhà. Nguyên lí sử dụng của các con diều này là dựa váo sức gió. Vì vậy mà hôm nào trời không có gió thì không thể chơi thả diều.
Nhưng nếu trời có gió nhưng người chơi không có kĩ năng thả, không biết cách đưa con diều bay ngược chiều gió để lên không trung thì con diều cũng không bay được như mong muốn của chúng ta.Về cấu tạo của chiếc diều thì bao gồm phần khung diều, thường thì những phần khung diều này sẽ được làm bằng tre hoặc bằng gỗ, đây là phần chống đỡ cho con diều, giúp con diều có những hình dáng nhất định và có thể bay lên. Những chiếc tre hay gỗ dùng để làm khung diều này phải thật mảnh, dẻo dai bởi nếu quá nặng, to thì sẽ làm cho con diều trở nên nặng nề, từ đó khó có thể bay lên, hoặc bay được nhưng cũng không cao. Còn nếu như phần khung này có mềm, không có độ dẻo dai thì khi có gió lớn thì con diều sẽ bị gió thổi làm cho gãy khung.
Loading... Bộ phận thứ hai của diều đó là phần nguyên liệu phụ để trang trí cho con diều cũng là bộ phận giúp con diều có thể đón được gió và bay lên cao. Thông thường, phần áo diều này thường được làm bằng giấy báo, vải mỏng hoặc có thể bằn ni lông. Ngày nay, sự phát triển của đời sống tinh thần đã đòi hỏi tính thẩm mĩ cao hơn, do đó mà những con diều được trang trí với những màu sắc vô cùng bắt mắt, hình dáng con thuyền cũng được chế tạo thành nhiều kiểu khác nhau, có thể là diều hình con chim, con bươm bướm, chim phượng hoàng… Bộ phận không thể thiếu đó chính là dây dù. Dây dù buộc vào con diều để những người chơi có thể điều khiển con diều, nâng lên hay hạ xuống theo ý thích của mình, dây dù có thể làm bằng những sợi dây gai mỏng nhưng có độ bền cao, độ dài của dây này cũng từ tám đến mười mét.
Những con diều thường được mang đi thả vào những buổi chiều có gió, nhưng gió này chỉ vừa đủ để diều bay lên, không quá lớn, bởi nếu vậy con diều sẽ bị gió thổi cuốn đi mất. Thời điểm người ta đi thả diều đông nhất, đó chính là tầm chiều tà, vì lúc này thời tiết sẽ rất mát mẻ, lại có gió. Đặc biệt ở những vùng nông thôn, cứ buổi chiều đến là mọi người sẽ tụ tập nhau lại đến một khu đất trống, hút gió để cùng nhau thả diều. hình ảnh những cậu bé chăn trâu thổi sáo, thả diều có lẽ đã quen thuộc đối với người dân Việt Nam. Sự sáng tạo của con người là không có giới hạn, cùng là con diều dùng để thả nhưng người ta có thể tạo cho nó rất nhiều màu sắc, hình dáng, thậm chí những con diều này còn phát ra những âm thanh du dương, êm ái. Con diều này được người ta gọi là diều sáo, theo đó thì những chiếc sáo nhỏ được thiết kế đặc biệt sẽ gắn lên thân của mỗi con diều. Để khi diều bay lên cao, có gió thì những con diều này sẽ tự động phát ra tiếng sáo.
Trò chơi thả diều là một trò chơi dân gian đã có từ rất lâu đời, người ta có thể chơi thả diều vào những lúc rảnh rỗi, giúp giải tỏa những căng thẳng sau những giờ làm việc mệt mỏi. Đặc biệt, ngày nay diều vẫn thu hút đông đảo sự yêu thích của rất nhiều người, hàng năm vẫn có rất nhiều các hội thi thả diều lớn được tổ chức, được rấ nhiều người lựa chọn, tham gia.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 8 mới nhất
Trắc nghiệm Ngữ văn Lớp 8 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư