LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Tinh thần dân tộc được thể hiện trong đoạn trích Nước Đại Việt ta của Nguyễn Trãi. Hãy làm sáng tỏ tinh thần dân tộc đó

3 trả lời
Hỏi chi tiết
2.372
3
0
Huyền Thu
06/02/2018 13:02:22
Trong lịch sử văn học dân tộc, áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai. Đó là áng văn tràn đầy lòng tự hào dân tộc. Chỉ qua đoạn trích “Nước Đại Việt ta” (Sách giáo khoa Ngữ văn 8 tập 2) ta đã thấy rõ điều đó.
“Bình Ngô đại cáo” ra đời sau khi Lê Lợi cùng nghĩa quân Lam Sơn đánh tan bè lũ xâm lược nhà Minh. Bài cáo ra đời bố cáo với toàn thiên hạ chiến thắng của dân tộc, khẳng định nền độc lâp tự chủ của nước nhà đồng thời cảnh tỉnh ý thức của binh lính nhà Minh về cuộc chiến tranh phi nghĩa xâm lược nước ta.
Văn bản Nước Đại Việt ta là phần mở đầu của bài cáo. Tuy ngắn gọn nhưng đoạn trích nêu lên những tiền đề cơ bản, làm nổi bật những quan điểm tích cực, có ý nghĩa then chốt đối với nội dung của toàn bài. Những tiền đề đó là chân lí về nhân nghĩa và chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt.
Văn bản được mở đầu bằng những lời văn đầy nhân nghĩa:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là “yên dân”, “trừ bạo”. Yên dân là làm cho dân được hưởng thái bình, hạnh phúc. Mà muốn yên dân thì trước hết phải diệt trừ bọn tàn bạo. Người dân mà tác giả nói đến ở đây là những người dân Đại Việt đang phải chịu bao đau khổ dưới ách thống trị của giặc Minh. Như vậy khái niệm nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn liền với lòng yêu nước, gắn liền với quốc gia, dân tộc. Những kẻ bạo ngược mà tác giả nói đến ở đây không phải ai khác, đó chính là bọn giặc Minh nói riêng và bề lũ xâm lược nói chung.
Đoạn trích được nối tiếp bằng những dòng văn đầy tự hào:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cỡi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu Đinh Lí Trần bao đời xây nên độc lập
Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Để khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc, Nguyễn Trãi đã dựa vào các yếu tố như: nền văn hiến lâu đời, cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, lịch sử riêng, chế độ riêng. Với những yếu tố căn bản này, tác giả đã đưa ra một khái niệm khá hoàn chỉnh về quốc gia, dân tộc.
Sức thuyết phục của văn chính luận Nguyễn Trãi là ở chỗ kết hợp chạt chẽ giữa lí lẽ và thực tiễn. Quả đúng như vậy! Người anh hùng Nguyễn Trãi đã tự tin khẳng định truyền thống văn hiến lâu đời của nước Việt ta. Và quả thực chúng ta rất tự hào bởi trên thực tế:
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Nhân dân ta có chủ quyền, có thuần phong mỹ tục riêng làm nên hai phương Bắc - Nam khác biệt. Ta có nền độc lập vững vàng được xây bằng những trang sử vẻ vang. Hùng cứ cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên ở phương Bắc là các triều Triệu, Đinh, Lý, Trần ở phương Nam. Hơn thế nữa, bao đời nay:
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
So với ý thức về quốc gia dân tộc trong bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc - bài thơ “Sông núi nước Nam” - thì ở tác phẩm này của Nguyễn Trãi, ta thấy nó vừa có sự kế thừa lại vừa có sự phát huy và hoàn thiện. Ý thức về nền độc lập của dân tộc thể hiện trong bài Sông núi nước Nam được xác định ở hai phương diện: lãnh thổ và chủ quyền; còn trong bài: Nước Đại Việt ta, ý thức dân tộc đã phát triển cao, sâu sắc và toàn diện. Ngoài lãnh thổ và chủ quyền, ý thức về độc lập dân tộc còn được mở rộng, bổ sung thành các yếu tố mới: đó là nền văn hiến lâu đời, đó là phong tục tập quán riêng, truyền thống lịch sử anh hùng. Có thể nói, ý thức dân tộc đến thế kỉ XV đã phát triển sâu sắc, toàn diện hơn nhiều so với thế kỉ X.
Trong phần văn bản “Nước Đại Việt ta”, tác giả sử dụng nhiều lớp từ ngữ diễn đạt tính chất hiển nhiên, vốn có lâu đời của nước Đại Việt ta. Các từ như: từ trước, vốn xưng, đã lâu, đã chia, cũng khác,... Bên cạnh đó, biện pháp so sánh kết hợp với liệt kê cũng tạo cho đoạn văn hiệu quả cao trong lập luận (tác giả đặt nước ta ngang hàng với Trung Hoa về nhiều phương diện như: trình độ chính trị, văn hoá,...). Đặc biệt, những câu văn biền ngẫu, chạy song song liên tiếp với nhau cũng giúp cho nội dung nghệ thật và chân lí mà tác giả muốn khẳng định chắc chắn và rõ ràng hơn.
Với tư cách là phần văn bản mở đầu áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, văn bản “nước Đại Việt ta” đã khẳng định lí tưởng yêu nước, thương dân của những nhà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Hơn thế, đoạn trích còn khẳng định vị thế dân tộc trên nhiều phương diện, từ đó thể hiện lòng tự hào dân tộc vô bờ của tác giả.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
2
1
Nguyễn Thị Thu Trang
06/02/2018 13:02:51
Trong lịch sử văn học dân tộc, áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai. Đó là áng văn tràn đầy lòng tự hào dân tộc. Chỉ qua đoạn trích “Nước Đại Việt ta” (Sách giáo khoa Ngữ văn 8 tập 2) ta đã thấy rõ điều đó.
“Bình Ngô đại cáo” ra đời sau khi Lê Lợi cùng nghĩa quân Lam Sơn đánh tan bè lũ xâm lược nhà Minh. Bài cáo ra đời bố cáo với toàn thiên hạ chiến thắng của dân tộc, khẳng định nền độc lâp tự chủ của nước nhà đồng thời cảnh tỉnh ý thức của binh lính nhà Minh về cuộc chiến tranh phi nghĩa xâm lược nước ta.
Văn bản Nước Đại Việt ta là phần mở đầu của bài cáo. Tuy ngắn gọn nhưng đoạn trích nêu lên những tiền đề cơ bản, làm nổi bật những quan điểm tích cực, có ý nghĩa then chốt đối với nội dung của toàn bài. Những tiền đề đó là chân lí về nhân nghĩa và chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt.
Văn bản được mở đầu bằng những lời văn đầy nhân nghĩa:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là “yên dân”, “trừ bạo”. Yên dân là làm cho dân được hưởng thái bình, hạnh phúc. Mà muốn yên dân thì trước hết phải diệt trừ bọn tàn bạo. Người dân mà tác giả nói đến ở đây là những người dân Đại Việt đang phải chịu bao đau khổ dưới ách thống trị của giặc Minh. Như vậy khái niệm nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn liền với lòng yêu nước, gắn liền với quốc gia, dân tộc. Những kẻ bạo ngược mà tác giả nói đến ở đây không phải ai khác, đó chính là bọn giặc Minh nói riêng và bề lũ xâm lược nói chung.
Đoạn trích được nối tiếp bằng những dòng văn đầy tự hào:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cỡi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu Đinh Lí Trần bao đời xây nên độc lập
Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Để khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc, Nguyễn Trãi đã dựa vào các yếu tố như: nền văn hiến lâu đời, cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, lịch sử riêng, chế độ riêng. Với những yếu tố căn bản này, tác giả đã đưa ra một khái niệm khá hoàn chỉnh về quốc gia, dân tộc.
Sức thuyết phục của văn chính luận Nguyễn Trãi là ở chỗ kết hợp chạt chẽ giữa lí lẽ và thực tiễn. Quả đúng như vậy! Người anh hùng Nguyễn Trãi đã tự tin khẳng định truyền thống văn hiến lâu đời của nước Việt ta. Và quả thực chúng ta rất tự hào bởi trên thực tế:
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Nhân dân ta có chủ quyền, có thuần phong mỹ tục riêng làm nên hai phương Bắc - Nam khác biệt. Ta có nền độc lập vững vàng được xây bằng những trang sử vẻ vang. Hùng cứ cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên ở phương Bắc là các triều Triệu, Đinh, Lý, Trần ở phương Nam. Hơn thế nữa, bao đời nay:
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
So với ý thức về quốc gia dân tộc trong bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc - bài thơ “Sông núi nước Nam” - thì ở tác phẩm này của Nguyễn Trãi, ta thấy nó vừa có sự kế thừa lại vừa có sự phát huy và hoàn thiện. Ý thức về nền độc lập của dân tộc thể hiện trong bài Sông núi nước Nam được xác định ở hai phương diện: lãnh thổ và chủ quyền; còn trong bài: Nước Đại Việt ta, ý thức dân tộc đã phát triển cao, sâu sắc và toàn diện. Ngoài lãnh thổ và chủ quyền, ý thức về độc lập dân tộc còn được mở rộng, bổ sung thành các yếu tố mới: đó là nền văn hiến lâu đời, đó là phong tục tập quán riêng, truyền thống lịch sử anh hùng. Có thể nói, ý thức dân tộc đến thế kỉ XV đã phát triển sâu sắc, toàn diện hơn nhiều so với thế kỉ X.
Trong phần văn bản “Nước Đại Việt ta”, tác giả sử dụng nhiều lớp từ ngữ diễn đạt tính chất hiển nhiên, vốn có lâu đời của nước Đại Việt ta. Các từ như: từ trước, vốn xưng, đã lâu, đã chia, cũng khác,... Bên cạnh đó, biện pháp so sánh kết hợp với liệt kê cũng tạo cho đoạn văn hiệu quả cao trong lập luận (tác giả đặt nước ta ngang hàng với Trung Hoa về nhiều phương diện như: trình độ chính trị, văn hoá,...). Đặc biệt, những câu văn biền ngẫu, chạy song song liên tiếp với nhau cũng giúp cho nội dung nghệ thật và chân lí mà tác giả muốn khẳng định chắc chắn và rõ ràng hơn.
Với tư cách là phần văn bản mở đầu áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, văn bản “nước Đại Việt ta” đã khẳng định lí tưởng yêu nước, thương dân của những nhà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Hơn thế, đoạn trích còn khẳng định vị thế dân tộc trên nhiều phương diện, từ đó thể hiện lòng tự hào dân tộc vô bờ của tác giả.
4
0
Nguyễn Thị Thu Trang
06/02/2018 13:03:54
  • Mở bài:
Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược thắng lơi, thừa lệnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi bắt tay khảo soạn Bình Ngô đại cáo, bố cáo cùng thiên hạ toàn bộ cuộc chiến đấu gian nan mà hào hùng, lẫm liệt. Đoạn tríchNước Đại Việt ta là đoạn mở đầu bài cáo. Với lời văn hào hùng, thống thiết, Nước Đại Việt ta đã thể hiện sâu sắc niềm tự hào, khẳng định độc lập chủ quyền và tự cường dân tộc.
  • Thân bài:
Hơn mười năm trường kì kháng chiến, nghĩa quân Lam sơn đã trải qua biết bao gian khổ, đau thương. Biết bao xương máu đã đổ xuống để chống giặc và bảo vệ đất nước. Với Bình Ngô đại cáo, nước ta đã mở ra một kỉ nguyên mới. Đó là kỉ nguyên hòa bình, độc lập, tự chủ. Từ đây, đất nước bước vào vận hội mới. Từ đây muôn dân no ấm, xã hội thái bình, thịnh trị. Khắp nơi rộn vang tiếng hát ngợi ca bậc minh quân.
Nền hòa bình ấy có được là bởi ta có lòng nhân nghĩa, muôn người biết hợp lực cùng nhau, hết lòng vì nước quên thân, không ngại hi sinh, mất mát. Bởi thế, mở đầu bài đại cáo, Nguyễn Trãi nêu cao lập trường nhân nghĩa của dân tộc với những câu văn hết sức sắc bén trong niềm tự hào lớn lao:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
Nhân nghĩa vốn là một tư tưởng đã có từ lâu đời. Nhưng ở mỗi thời đại lại có một quan niệm khác nhau. Các thời đại trước chỉ đưa ra một khái niệm chung chung, chưa thực sự rõ ràng.
Với nguyễn Trãi, nhân nghĩa là một khái niệm rất rộng lớn và thiết thực. Ông khẳng định “nhân nghĩa” trước hết là cốt ở “yên dân”, làm cho đời sống nhân dân được yên ổn, ấm no, hạnh phúc. Dân có yên thì xã hội mới thái bình, đất nước hùng mạnh.
Vượt lên trên tất cả, Nguyễn Trãi lấy dân làm cội gốc. Nhà nước vì dân mà phục vụ. Đó là một tư tưởng rất tiến bộ trong thời đại của ông. Nếu đời Đường thấy được vai trò của dân chúng rất quan trọng đối với nền thể chính:
“Vua là thuyền, dân là nước. Nước có thể nâng thuyền lên. Nước cũng có thể làm lật thuyền”. (Đường Minh Hoàng)
Nhưng đó chỉ mới là nhìn thấy chứ chưa thực sự đề cao và xem trọng. Nguyễn Trãi không chỉ bằng lời nói. Ông thực sự thực hành tư tưởng của mình trong cuộc đời làm quan của ông.
Thấy được vai trò lịch sử của dân chúng, Nguyễn Trãi cũng xác định rõ trách nhiệm của triều đình. Chiến tranh là điều không ai mong muốn. Việc xuất quân trước hết là lo diệt trừ kẻ tàn bạo, bảo vệ kẻ yếu, đem lại công bằng cho muôn người, kỉ cương cho đất nước.
Đó đồng thời cũng là lời khuyên giải đối với Lê Lợi khi lên nắm quyền điều hành đất nước. Quan điểm của Nguyễn Trãi rất rõ ràng là hạn chế chiến chinh, tăng cường sức dân. Kế sách ấy vừa lấy được lòng dân, không lo bạo loạn, vừa làm cho tiềm lực đất nước trở nên hùng mạnh đủ sức gìn giữ hòa bình dài lâu.
Có thể nói tư tưởng nhân nghĩa vốn đã có từ lâu. Nhưng đến thời Nguyễn Trãi, tư tưởng ấy đã nâng cao hơn một bước sáng chói. Ông gắn tư tưởng nhân nghĩa với tinh thần yêu nước chống giặc bảo vệ tổ quốc. Câu văn khảng khái, tràn đầy niềm tự haò về truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Nó không phải nằm trên lí thuyết suông mà đã được thực chứng trong cuộc kháng chiến vừa qua.
Tiếp đến, niềm tự hào ấy bùng lên như một lời ca sảng khoái khi ông khẳng định nền độc lập, chủ quyền và sức mạnh tự cường của dân tộc ta trong mấy nghìn năm qua:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc, Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”.
Với lời văn rắn rỏi, dẫn chứng thuyết phục, lí lẽ sắc bén, hào hùng, Nguyễn Trãi nêu cao sức mạnh nguồn cội làm nên chiến thắng của đan tộc ta. Suốt mấy trăm năm, thời kì nào đất nước ta cũng bị giặc phương Bắc xâm lược và đặt ách đô hộ. Song, chưa bao giờ dân tộc ta bị khuất phục, chịu kiếp nô lệ. Biết bao cuộc khỡi nghĩa đã nổ ra. Và từng bước ta đã gây dựng được nền độc lập. Nguyễn Trãi khẳng định tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau, song hào kiệt anh hùng đời nào cũng có. Các anh hùng hào kiệt lập nên chiến công hiển hách, làm cho quân thù khiếp nhược, tháo chạy bao lần. Đó là niềm tự hào lớn, không thể nào phủ nhận được.
Nền độc lập ấy được duy trì với quốc hiệu Đại Việt, với lịch sử, văn hiến, văn hóa, phong tục tập quán lâu đời, được tôn trọng và gìn giữ. Giặc phương Bắc với âm mưu đồng hóa thâm độc thế nhưng bản sắc dân tộc Việt vẫn âm thầm tồn tại và trỗi dậy mỗi khi đất nước hào bình. Sức mạnh tự cường dân tộc chưa bao giờ bị dập tắt. Càng trong đau thương, dân tộc ta càng tỏa sáng và khẳng định mình mạnh mẽ hơn. Ta cũng có những triều đại vững mạnh nắm quyền điều hành đất nước cùng song song tồn tại với bắc triều.
Đó là niềm tự hào không sao chối cãi được. Không phải là kiêu ngạo, khoe khoang, mà đó là lòng tự hào về sức sống bất diệt. Sức mạnh ây trở thành điểm tựa tinh thần đến muôn đời.
Cuối cùng, ông khẳng định sự thất bại của kẻ thù như một quy luật tất yếu:
“Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cớ còn ghi”.
Kẻ thù tham lam, tàn bạo, lập trường phi nghĩa vốn đã đi ngược lại với đạo lí. Chúng còn viện cớ mà xâm lược cướp bóc nước ta thì nhất định thất bại, diệt vong. Ta vì muôn dân, thuận với ý trời, lập trường chính nghĩa mà kháng chiến, giành lấy thắng lợi vẻ vang. Đó cũng là một lời cảnh tỉnh đanh thép, nhắc nhở, răn dạy kẻ thù chớ vì lòng tham mà trái với mệnh trời, làm điều phi nghĩa.
So với Sông núi nước Nam của Lý Thường Kiệt, ở Nước Đại Việt ta, quan niệm đất nước đã được nâng cao lên nhiều bậc. Chủ quyền đất nước không những gắn với biên cương, lãnh thổ mà còn gắn với lịch sử, văn hóa, phong tục, tập quán và sức mạnh cội nguồn dân tộc. Nó nằm trong tổng hòa các giá trị thiêng liêng, được gìn giữ và phát triển qua nhiều thời đại. Những giá trị quý báu ấy không thể để quân giặc xúc phạm, coi thường và xâm phạm đến. Công việc kháng chiến, tiêu diệt kẻ thù, quét sạch bọn tham tàn ra khởi biên cương, bờ cõi cũng là để khẳng định sức mạnh bất khả khuất phục và lấy lại tôn nghiêm của dân tộc vậy.
Sức mạnh thuyết phục của đoạn trích chính là ở chỗ nhận rõ lập trường của hai bên. Tiếp theo đó là lói lập luận sắc bến, hùng hồn đầy sức mạnh của Nguyễn Trãi. Ông vận dụng ngôn ngữ như đang chỉ đạo một đoàn quân. Mỗi câu, mỗi chữ là một đạo quân tinh nhuệ, thiện chiến tấn công trực diện vào nhân tâm kẻ thù. Trong cuộc chiến này, Nguyễn Trãi là một vị tướng oai dũng phi thường. Kẻ thù dù có gian xảo nhưng cũng không thể nào ngụy biện cho hành động phi nghĩa của mình được.
  • Kết bài:
Đoạn trích Nước Đại Việt ta là một khúc ca hào hùng, sảng khoái ca ngợi thắng lợi, khẳng định lập trường dân tộc. Đồng thời thể hiện niềm tự hào lớn lao của dân tộc ta về lịch sử dân tộc và sức mạnh chiến thắng kẻ thù. Với giá trị về lịch sử và văn chương, đoạn trích Nước Đại Việt ta vàbản hùng ca Bình Ngô đại cáo mãi mãi còn vang vọng đến ngàn năm sau.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 8 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư