Sau buổi tiễn đưa, người chinh phụ trở về, tưởng tượng ra cảnh chiến trường đầy hiểm nguy, chết chóc mà xót xa, lo lắng cho chổng. Một lẩn nữa, nàng ti/ hỏi vỉ sao đôi lúa uyên ương lại phải chia lia ? Vì sao mình lại rơi vào tình cảnh lẻ loi? Bấy nhiêu câu hỏi đều không có lời đáp. Tâm trạng bân khoăn, day dứt của người chinh phụ được tác giả thể hiện sinh động bằng nghệ thuật'miêu tả tấm lí tinh tế. Có thể nói, sáu và nhớ là cảm xúc chủ đạo trong đoạn thơ này.
Trong phẩn đẩu, hành động và tâm trạng của người chinh phụ dã được ngòi bút sắc sảo của tác giả khắc hoạ rõ nét:
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng ?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết ?
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khả thương!
Nàng lăng lẽ Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước trong nỗi cô đơn dang tràn ngập tâm hồn. Nhịp thơ chậm gợi cảm giác như troi gian ngưng đọng. Giữa không gian tịch mịch, tiếng bước chân như gieó vào lòng người âm thanh lẻ loi, cô độc. Nỗi nhớ nhung sầu muộn và khắc khoải mong chờ khiến bước chân người chinh phụ trở nên nặng trĩu. Nàng bổn chồn đứng ngồi không yên, hết buông rèm xuống rồi lại cuốn rèm lên, sốt ruột mong một tiếng chim thước báo tin vui mà chẳng thấy.
Nàng khát khao có người đồng cảm và chia sẻ tâm tình. Không gian im ẳng, chỉ có ngọn đèn đổi diện với năng. Lúc đầu, nàng tưởng như ngọn đèn biết tâm sự của mình, nhưng rồi lại nghĩ: Đèn có biết dường bằng chẳng biết, bởi nó là vật vô tri vô giác. Nhìn ngọn đèn chong suốt năm canh, dầu đã cạn, bấc đã tàn, náng chợt liên tưởng đến (ình cảnh của minh và trong lỏng rưng rưng nỗi thường thân tủi phận: Hoa đèn kia với bóng người khá thương.
Hình ảnh người chinh phụ thầm gieo từng bước ngoài hiên vắng và suốt năm canh ngồi một mình bên ngọn đèn chong, không biết san sẻ nỗi niềm tâm sự cùng ai đã miêu tả được tâm trạng cô đơn tột độ của người chinh phụ.
Tác giả đặc tả cảm giác cô đơn của người chinh phụ trong tám cảu thơ. Đó là cảm giác lúc nào và ở đâu cũng thấy lẻ loi: ban ngày, ban đêm, ngoài hiên vắng, trong phòng lạnh... Nỗi cô đơn tràn ngập không gian và kéo dài vô tận theo thời gian luôn đeo đẳng, ám ảnh nàng.
Cảnh vật xung quanh không thể san sẻ mà ngược lại như cộng hưởng với nỗi sầu miên man của người chinh phụ, khiến nàng càng đớn đau, sầu tủi:
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khấc giờ đàng đảng như niên,
Mối sầu dàng dặc tựa miền biển xa.
Tiếng gà gáy báo sáng làm tăng thêm vẻ tĩnh mịch, vắng lặng. Những cây hoè phất phơ rủ bóng gợi cảm giác buồn bà, u sầu. Giữa không gian ấy, người chinh phụ cảm thấy mình nhỏ bé, cô độc biết chừng nào! Ở các khổ thơ tiếp theo, nổi ai oán hiện rõ trong từng chữ, từng cảu, dù tác giả không hề nhắc đến hai chữ chiến tranh:
Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.
Người chinh phụ cố gắng tìm mọi cách để vượt ra khỏi vòng vây của cảm giác cô đơn đáng sợ nhưng vẫn không sao thoát nổi. Nàng gắng gượng điểm phấn tô son và dạo đàn cho khuây khoả nhưng càng lún sâu bơn vào sự tuyệt vọng. Chạm đến đâu cũng là chạm vào nỗi đau, chạm vào tinh cành lẻ loi đơn chiếc. Khi Hương gượng đốt thi hổn nàng lại chìm đắm vào nỗi thấp thỏm lo âu. Lúc Gương gượng so/ thì nàng lại không cầm được nước mắt bởi vì nhớ gương này mình cùng chổng đã từng chung bóng, bởi vì phải đối diện với hình ảnh đang tàn phai xuân sắc của mình. Nàng cố gảy khúc đàn loan phượng sum vầy thì lại chạnh lòng vì tình cảnh vợ chổng đang chia Ra đôi ngả, đầy những dự cảm chẳng lành : Dây uyên kinh đứt, phim loan ngại chùng. Rốt cuộc, người chinh phụ đành ngẩn ngơ trở về với nỗi cô đơn đang chất ngất trong lòng minh vậy.
Sắt cầm, uyên ương, loan phụng là những hình ảnh ước lệ tượng trưng cho tình yêu nam nữ, tinh nghĩa vợ chổng. Nay vợ chổng xa cách, tất cả đều trở nên vô nghĩa. Dường như người chinh phụ không dám đụng tới bất cứ thứ gì vì chúng nhắc nhở tới những ngày đoàn tụ hạnh phúc đã qua và linh cảm đến sự chia lìa đôi lứa trong hiện tại. Tâm thế của nàng thật chông chênh, chơi vơi, khiến cho cuộc sống trở nên khổ sở, bất an. Mong chờ chồng trong nỗi sợ hãi và tuyệt vọng, nàng chỉ còn biết gửi nhớ thương theo ngọn gió:
Lòng này gửi gió đông có tiện ?
Nghìn vàng xin gũi đến non Yên.
Sau những day dứt của một trạng thái bế tắc cao độ, người chinh phụ chợt nảy ra một ý nghĩ rất chần thành mà cũng rất nên thơ: nhờ ngọn gió xuân gửi lòng minh tới người chồng ở chiến trường xa, dang đối đẩu từng ngày từng giờ với cái chết để mong kiếm chút tước hẩu. Chắc chắn, chàng cũng sống trong tâm trạng nhớ nhung mái ấm gia đinh cùng với bóng dáng thân yêu của người vợ trẻ:
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Không gian xa cách giữa hai đầu nỗi nhớ được tác giả so sánh với hình ảnh vũ trụ vò biên: Nhớ chàng thảm thẳm đường lên bằng trời. Thăm thẳm nỗi nhổ người yêu, thăm thẳm con đường đến chỗ người yêu, thăm thẳm con dường lên tròi. Câu thơ hàm súc vể mặt ý nghĩa và cô đọng về mặt hình thức. Cách bộc lộ tâm trạng cá nhân trực tiếp như thế này cũng là điều mới mẻ, hiếm thấy trong văn chương nước ta thời trung đại:
Trời thăm thẳm xa vài khôn thấu,
Nỗi nhở chàng đau đáu nào xong.
Hai câu thất ngôn chứa đựng sự tương phản sâu sắc tạo nên cảm giác xót xa, cay đắng. Đất trời thì bao la, bát ngát, không giới hạn, liệu có thấu nỗi sinh //đau đớn đang giày vò ghê gớm cõi lòng người chinh phụ hay chăng? Nói như người xưa: trời thì cao, đất thì dày, nỗi niềm uất ức biết kêu ai? biết ngỏ cùng ai? Bởi vậy nên nó càng kết tụ, càng cuộn xoáy, gây nên nỗi đau đớn khôn nguôi:
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cày sương đượm tiếng trùng mưa phun.
Giữa con người và cảnh vật dường như có sự tương đổng khiến cho nỗi sầu thương trở nên da diết, bất tận. Cảnh vật xung quanh người chinh phụ đã chuyển thành tâm cảnh bởi được nhìn qua đôi mắt đẫm lệ buồn thương. Sự giá lạnh của tâm hổn làm tăng thêm sự giá lạnh của cảnh vật. Cũng
giọt sương ấy đọng trên cành cây, cũng tiếng trùng ấy rả rích trong đêm mưa gió, nhưng cảnh ấy tinh này lại gợi nên bao sóng gió, bao nỗi đoạn trưởng trong lòng người chinh phụ. Tình cảnh ấy, tâm trạng ấy tự nó đã nói lên bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa kia. Ý thơ đi từ tinh đến cảnh rổi lại từ cảnh trở về tinh, cứ lặp đi lặp lại như vậy nhằm thể hiện rõ tinh cảnh lẻ loi và tâm trạng cô đơn của người chinh phụ. Dù ở đâu, lúc nào, làm gì... nàng cũng chỉ lầm lũi, vò võ 1 minh 1 bóng mà thôi!
Bầu trời bát ngát không cùng và nỗi nhớ cũng không cùng, nhưng suy tưởng thì có hạn; người chinh phụ lại trở về với thực tế cuộc sống nghiệt ngã của mình. Ý thơ chuyển từ tinh sang cảnh. Thiên nhiên lạnh lẽo như truyền, như ngấm cái lạnh lẽo đáng sợ vào tận tâm hồn người chinh phụ cô đơn: Sương như búa, bổ mòn gốc liễu,
Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô.
Hình như người chinh phụ đã thấm thìa sức tàn phá ghê gớm của thời gian chờ đợi. Tuy nhiên đến câu: Sâu tường kêu vắng chuông chùa nện khơi thi không khí đã dễ chịu hơn, cũng bởi người chinh phụ chỉ mới thất vọng mà chưa tuyệt vọng.
Tám câu cuối là bức tranh tả cảnh ngụ tính đặc sắc nhất trong Chinh phụ ngâm:
Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc,
Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên.
Lá' màn lay ngọn gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.
Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thám từng bông.
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau!
Ý thơ đi từ tinh đến cảnh rồi lại từ cảnh trở về tinh, cử dội qua dội lại như vậy nhằm thể hiện rõ tâm trạng ở đâu, lúc nào, làm gì... người chinh phụ cũng chỉ vò võ một mình một bóng mà thôi!
Từ thốc rất mạnh trong càu Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên báo hể- chuyển sang một tâm trạng mới ở người chinh phụ. Cảnh hoa - nguyệt giao hoà khiến lòng người rạo rực, khao khát hạnh phúc lứa đối. Những động từ dãi, lồng toát lên cái ý lửa đôi quấn quýt gần gũi, âu yếm nồng nàn mà vẫn tế nhị, kín đáo.
Tác giả lựa chọn và dùng từ rất kĩ, rất đắt, đặc biệt là các tính từ là từ láy làm nổi bật tinh chất của sự vật : eo óc, phất phơ, đàng đàng, dàng dặc, mê mải, châu chan, thăm thẳm, đau đáu... về nhạc điệu, tác giả đã khai thác và phát huy một cách tài tình âm hưởng trầm bổng, du dương của thể thơ song thất lục bát để diễn tả cảm xúc giống như những đợt sóng dạt dào trong tâm trạng người chinh phụ, hết nhớ lại thương, hết lo lắng lại trông mong, hết hi vọng lại tuyệt vọng... trong tinh cảnh lẻ loi đơn chiếc.
Bằng bút pháp nghệ thuật điêu luyện, tác giả đã diễn tả được những diễn biến phong phú, tinh vi các cung bậc tình cảm của người chinh phụ. Cảnh cũng như tinh được miêu tả rất phù hợp với diễn biến của tâm trạng nhân vật. Thông qua tâm trạng đau buồn của người chinh phụ đang sống trong tình, cảnh lẻ loi vì chổng phải tham gia vào những cuộc tranh giành quyển lực của vua chúa, tác giả có chủ ý để cao hạnh phúc lứa đôi và thể hiện thái độ bất binh, phản kháng đối với chiến tranh phi nghĩa. Tác phẩm Chinh phụ ngẫm đã toát lên tư tưởng chủ dạo trong văn chương một thời, đó là tư tưởng đòi quyền sống, quyến dược hưởng hạnh phúc rất chính đáng của con người.