Cuộc sống vốn chứa đựng những bề bộn, ngổn ngang. Giữa vòng quay tất bật của cuộc mưu sinh bận rộn ta dễ dàng lãng quên những giá trị vĩnh hằng được lắng kết từ những điều bình dị, thân thuộc. Truyện ngắn Buổi học mối cùng (A.Đô-đê) là một truyện ngắn giản dị và cảm động viết về một trong những giá trị vĩnh hằng ấy. Đó chính là tình yêu tiếng nói dân tộc. Giá trị ấy được nén dồn trong một buổi học cuối cùng, lắng lại trong tâm can những nhân vật trong truyện cũng như bao độc giả những xúc cảm khó gọi tên và khó nói nên lời. Trong cái giây phút xót xa, nghẹn ngào mà bồi hồi, xao xuyến ấy, nhân vật thay Ha-men đã nói với học sinh của mình câu nói để lại nhiều ý nghĩa sâu sắc: “Khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khoá chốn lao tù!”
Câu nói của thay Ha-men đã có tác dụng khơi sáng những tâm hồn của một con người về vai trò của tiếng nói dân tộc. “Một dân tộc rơi vào vòng nô lệ nghĩa là họ bị trói buộc, bị cầm tù về mặt thể xác cũng như tinh thần. Thông thường, trong nếp cảm, nếp nghĩ của ta – một khi dân tộc ấy rơi vào cơn bĩ cực như thế thì chỉ có một con đường duy nhất, một con đường cuối cùng để vượt thoát nó. Ấy là con đường tranh đấu, vùng dậy. Nhưng bằng sự sâu sắc của một con người từng trải, thầy Ha-men đã phát hiện ra được một sức mạnh nội tại có tác động ghê gớm, có khả năng thay đổi được cục diện tình hình – biến một dân tộc từ bị trói buộc trong vòng nô lệ đến nắm được chìa khoá chốn lao tù. Sức mạnh ấy có từ tiếng nói dân tộc.
Tiếng nói – đó là linh hồn của một quốc gia, một dân tộc. Nó mang bản sắc riêng không thể hoà trộn giữa dân tộc này với dân tộc khác. Với mỗi ngưòi, đó chính là “tiếng mẹ đẻ”. Tiếng nói ấy thật thiêng liêng, thành kính mà cũng thật gần gũi, thân quen. Lúc bình thường, nó có thể là “Tiếng mẹ gọi trong hoàng hôn khói sẫm / Cánh đòng xa cò trắng rủ nhau về”, có thể là “Tiếng cha gọi khi vun cành nhóm lửa / Khi chèo thuyền, gieo mạ, lúc đưa nôi"… Đến lúc nguy nan nhất, tiếng nói ấy trở thành một thứ vũ khí sắc bén để chống lại kẻ thù, để cởi trói mọi gông cùm, xiêng xích. Nhưng để làm nên điều kì diệu này, đâu phải chỉ là sự lên tiếng của một cá nhân, một con người, nó đòi hỏi phải là sự tổng hợp nhiều tiếng nói tạo thành nguồn sức mạnh lớn lao. Đó chính là tiếng nói của cả một dân tộc. Vậy, vì sao, tiếng nói dân tộc lại có được sức mạnh to lớn đến thế? Như ta đã biết, đối với mỗi con người khi ta cất tiếng nói là biểu hiện của một tâm hồn đang vui sống – nghĩa là chứa đựng sự yêu ghét, giận hờn. Khi ta cất tiếng nói là trái tim đang đập nhịp cộng hưởng với cuộc đời bao la rộng lớn. Với một dân tộc, lúc gian nguy, giữ vừng tình yêu đối với tiếng nói dân tộc là một biểu hiện cụ thể, sâu sắc của tình yêu đất nước. Bởi sự “giữ vững” ấy là một niềm tin sắt son, là tấm lòng thuỷ chung với tổ quốc. Hơn nữa, tiếng nói dân tộc còn là cội nguồn, gốc tích để ta khẳng định sự tồn tại của một quốc gia.
Hẳn mỗi chúng ta còn nhớ đến bài thơ thần Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt được ngâm to trong hai ngôi đền Trương Hống và Trương Hát đã làm rệu rã tinh thần quân Tống. Đó chẳng phải là biểu hiện của tình yêu nước, tình yêu tiếng nói dân tộc hay sao? Đó chẳng phải là dân tộc ấy đã nắm được chìa khoá chốn lao tù rồi hay sao?
Câu nói của thầy Ha-men đưa ta trở về với hiện thực một lớp học nhỏ, nơi đó có cậu bé Phơ-răng và những người bạn. Thật xa xót biết bao khi những con dân của một đất nước lại không giữ được tiếng mẹ đẻ của dân tộc mình. Càng xa xót hơn khi họ lại phải học thứ tiếng của chính kẻ đang thống trị trên đất nước họ. Vậy, một khi tình yêu tiếng nói dân tộc bị đánh mất, một khi những thường dân của đắt nước ấy không còn định hình trong tâm thức mình tiếng mẹ đẻ nghĩa là dân tộc đó đang tự đem mình vào vòng nô lệ. Phải chăng, tư tưởng cốt lõi của An-phông-xơ Đô-đê đã bắt gặp quan điểm của Nguyễn An Ninh trong Tiếng mẹ đẻ – Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức: “Tiếng nói là người bảo vệ quý báu nhất nền độc lập của các dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giúp giải phóng các dân tộc bị thống trị… Vứt bỏ tiếng nói dân tộc đương nhiên là khước từ niềm hi vọng giải phóng giống nòi…. Chối từ tiếng mẹ đẻ đồng nghĩa với từ chối sự tự do của mình”.
Tình yêu tiếng nói dân tộc đâu chỉ là thước đo tâm hồn tình cảm và ý thức của con người trước vận mệnh của đất nước, tình yêu ấy còn là một thứ tình cảm bền chặt, thường trực, phập phồng và đau đáu trong tâm can và huyết quản của mỗi người. Ai đã từng là một lữ khách tha hương sau bao nhiêu năm trở lại quê cũ, hẳn sẽ không quên hai câu thơ xúc động của Hạ Tri Chương: “Khi đi trẻ, lúc về già / Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu”. Cái quý giá nhất còn lại của quê hương, đó chính là giọng quê, ấy là phần hồn cốt, phần máu thịt trong tâm hồn con người mà họ giữ được vẹn nguyên. Tình yêu ấy đâu chỉ biểu hiện ở mỗi cá nhân, mà nó còn có một sức lan toả sâu xa tới đông đảo nhiều lớp người. Thế hệ các nhà thơ thuộc phong trào Thơ mới chẳng phải là “đã yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông”, chẳng phải là “họ đã dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt”.
Suy đến cùng, “giữ vững tiếng nói của mình” nghĩa là ta đang giữ gìn bản sắc văn hoá của dân tộc. Cái bản sắc ấy vốn được dệt nên từ những gì bình dị, gần gũi nhỏ nhặt, từ những cái giản đơn mộc mạc. Thực tế, ta khó có thể phát hiện ra được nó, một khi ta đang hít thở bầu khí quyển tinh thần của nó, quá quen với nó. Bởi vậy, mỗi chúng ta phải biết giữ gìn sự trong sáng của tiếng mẹ đẻ, của tiếng nói dân tộc. Giữ gìn nghĩa là ta không làm cho nó bị thui chột, bị pha tạp, bị lạm dụng một cách quá mức. Bởi sự thật, trong những người trẻ thế hệ 8X, 9X ở nước ta hiện đang tồn tại nếp nghĩ “sùng ngoại”, đang có những biểu hiện làm xấu đi sự “giàu và đẹp” của tiếng Việt. Nhưng “giữ gìn” tiếng nói dân tộc không đồng nghĩa với việc “Ta về ta tắm ao ta / Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn ” Ngược lại, ta cần học tập tiếng nước ngoài, làm giàu cho ngôn ngữ nước mình. Nghĩa là học tập duới tấm lưới của sự sàng lọc, tuyển chọn. Tựu chung, nghĩa là ta không được khinh miệt tiếng nói mẹ đẻ của mình, không được li khai với truyền thống văn hoá quý báu của dân tộc, nhưng đồng thời cũng không được hằn ghét những cái hay của văn hoá thế giới.
Đối với lịch sử oai hùng của dân tộc ta, câu nói trên như một chân lí hùng hồn. “Giữ vững tiếng nói của mình ”, dân tộc ta đã vuợt qua sự xâm lăng về mặt lãnh thổ, biên giới. Trong xu thế “toàn cầu hoá” hiện nay, việc “giữ vững tiếng nói của mình” lại càng được đặt ra với chúng ta cấp thiết hơn bao giờ hết. Bởi vì lẽ đó, mỗi chúng ta hãy tự trau dồi cho mình một vốn ngôn ngữ dân tộc, giữ vững tình yêu tiếng nói dân tộc, giữ gìn phát huy sự giàu và đeo của tiếng nói dân tộc mình.
Không hiểu sao khi nhắc đến tình yêu đối với tiếng nói dân tộc, với tiếng mẹ đẻ, tôi không thể quên được những câu thơ gan ruột của nhà thơ Lưu Quang Vũ.
Trái đất rộng giàu sang bao thứ tiếng
Cao quý thâm trầm rực rỡ, vui tươi
Tiếng Việt rung rinh nhịp đập trái tim người…
Như tiếng sáo như dây đàn máu nhỏ…
Ai phiêu bạt nơi chân trời góc bể
Có gọi thầm tiếng Việt mỗi đêm khuya…
(Tiếng Việt – Lưu Quang Vũ).