Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Trong bài thơ Tre Việt Nam, tác giả Nguyễn Duy viết: Nòi tre đâu chịu mọc cong, Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường, ... Đoạn thơ trên đã sử dụng biện pháp nghệ thuật gì để miêu tả cây tre?

Trong bài thơ Tre Việt Nam, tác giả Nguyễn Duy viết :
Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường
Lưng trần phơi nắng phơi sương
Có manh áo cộc tre nhường cho con.
Đoạn thơ trên đã sử dụng biện pháp nghệ thuật gì để miêu tả cây tre?Trong đoạn thơ trên hình ảnh nào em cho là đẹp nhất? Vì sao?
2 trả lời
Hỏi chi tiết
10.242
9
14
Portgas ( Gol ) D. ...
20/02/2018 20:59:52

Mượn đặc điểm của loài cây làm hình tượng ẩn dụ nhằm thể hiện phẩm chất, cốt cách của một tầng lớp người hay một dân tộc là thủ pháp nghệ thuật thuộc hệ mỹ cảm của văn học phương Đông nói chung và văn học Việt Nam nói riêng. Nhất là trong chế độ phong kiến, con người luôn phải giấu đi cái tôi cá thể, thì thủ pháp nghệ thuật này càng được phát huy, làm nên một thời đại văn chương phi ngã. Các loài cây quí như: tùng, cúc, trúc, mai, sen, đào… trở thành hình tượng trung tâm, tượng trưng cho người quân tử, người trí thức phong kiến với phẩm chất thanh cao.

Bên cạnh dòng văn học viết, văn học dân gian cũng sử dụng lối nói ví von, so sánh loài cây với thân phận con người. Chẳng hạn, những con người nghèo khổ, yếu đuối, thấp cổ bé họng, những con người “dưới đáy” thường được ví như cỏ dại, hoa dại, khoai, sắn, lau, sậy…

Bài thơ Tre Việt Nam được Nguyễn Duy sáng tác vào những năm 1971-1972, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đang ở giai đoạn quyết liệt nhất , phải tập trung sức người, sức của, ý chí và tinh lực của toàn dân tộc để chiến đấu, giành thắng lợi cuối cùng.

Kế thừa và phát huy thủ pháp nghệ thuật thuộc hệ mỹ cảm truyền thống, bài thơ Tre Việt Nam của Nguyễn Duy đã vượt thoát khỏi quan niệm văn chương phi ngã và xác lập một tư tưởng nghệ thuật hiện đại. Chọn hình tượng cây tre Việt Nam làm đối tượng phản ánh, qua đó khái quát nên những phẩm chất tốt đẹp, quí báu của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam được chắt lọc, kết tinh trong suốt chiều dài lịch sử là một phát hiện độc đáo, một đặc trưng nghệ thuật của thi tưởng Nguyễn Duy. Trong thế giới tự nhiên bao la có muôn vàn loài cây, nhưng có lẽ chỉ có cây tre là gần gũi, thân thuộc nhất đối với con người. Tre gắn bó, hữu ích và trở thành hình ảnh thiêng liêng trong tâm thức Việt Nam tự bao đời. Không kiêu hãnh cô độc như tùng bách, không kiêu sa như các loài hoa hương sắc, không thấp thỏi, khiêm nhường như cỏ, loài tre mộc mạc, bình dị mà có sức sống mãnh liệt:

Thân gầy guộc, lá mong manh

Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi

Ở đâu tre cũng xanh tươi

Dù cho đất sỏi đất vôi bạc màu

Vượt lên những điều kiện tự nhiên khắc nghiệt đất sỏi, đất vôi, đất nghèo, đất bạc màu… tre vẫn thích nghi để xanh tươi, sinh sôi trường tồn, và dựng nên thành luỹ vững bền không sức mạnh nào có thể tàn phá, huỷ diệt. Đây là nét đặc trưng tiêu biểu nhất của phẩm chất Việt Nam. Bằng hình ảnh đối lập giữa thân gầy guộc lá mong manh với xanh tươi, nên luỹ nên thành, bài thơ khẳng định giá trị, nhân phẩm Việt Nam. Đối lập với sự nhỏ bé mong manh về thể chất/ vật chất là vẻ đẹp tâm hồn, sức mạnh tinh thần. Không chỉ dừng lại ở đó, bài thơ còn xây dựng cả một hệ thống hình ảnh giản dị mộc mạc mà cụ thể sinh động mang ý nghĩa biểu trưng cho tính cách Việt Nam.

Về đức tính cần cù, chịu thương, chịu khó, chắt chiu, nâng niu, gom góp, căn cơ của người Việt Nam, nhà thơ viết:

“Có gì đâu, có gì đâu

Mỡ màu ít chắt dồn lâu hoá nhiều

Rễ siêng không sợ đất nghèo

Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù”

Như một lời giải thích cắt nghĩa nhẹ nhàng, một chân lý giản đơn mà sâu sắc. Những chiếc rễ siêng năng nhẫn nại tự giấu mình, âm thầm vươn về phía tầng sâu, chắt dồn mỡ màu qua năm tháng là lẽ sống và kinh nghiệm tươi xanh của một dân tộc luôn phải đương đầu với những thử thách nghiệt ngã của hoàn cảnh. Vượt lên nỗi vất vả nhọc nhằn và cả những đau thương, con người Việt Nam vẫn ngời sáng, tâm hồn trong trẻo, lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống, giữ gìn “môi trường tinh thần” lành mạnh để nuôi dưỡng cái đẹp cái thiện.

“Vươn mình trong gió tre đu

Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành”

Một nét tính cách tiêu biểu khác của người Việt Nam là lòng nhân ái, vị tha, tình yêu thương đùm bọc, đoàn kết cưu mang, chia sẻ trong lao động, đấu tranh cũng như khi khó khăn hoạn nạn, nhường nhịn, hy sinh, chăm chút cho thế hệ tương lai:

“Bão bùng thân bọc lấy thân

Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm

Thương nhau tre không ở riêng

Luỹ thành từ đó mà nên hỡi người

Chẳng may thân gãy cành rơi

Vẫn nguyên cái gốc truyền đời cho măng

Lưng trần phơi nắng phơi sương

Có manh áo cộc tre nhường cho con”

Giữ “nguyên cái gốc truyền đời cho măng”, tre già măng mọc, cái ý thức về tạo dựng, giữ gìn phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc đã được các thế hệ người Việt Nam vun đắp và truyền thừa, làm nên sức mạnh bốn ngàn năm lịch sử. Cũng vì thế mà dân tộc Việt Nam luôn kiên cường chiến thắng, không quì gối, khuất phục trước kẻ thù ngoại xâm, vượt qua mọi thử thách với ý chí tự chủ tự lực, tự cường, như loài tre “Không đứng khuất mình bóng râm”, “Không chịu mọc cong”, từ khi sinh ra đã vươn thẳng và “nhọn như chông lạ thường”.

Có thể nói, hiếm có bài thơ nào khắc hoạ được tính cách Việt Nam một cách phong phú, tập trung, mang tầm khái quát như bài thơ “Tre Việt Nam” của nhà thơ Nguyễn Duy. Bài thơ sở dĩ đạt hiệu quả thẩm mỹ cao, được nhiều người yêu thích, không chỉ vì xây dựng được một hệ thống hình ảnh đặc tả, gợi cảm mà còn ở cách sử dụng ngôn ngữ, dân dã, lời ăn tiếng nói của người lao động, và đặc biệt thành công về thể thơ lục bát.

Nhiều cụm từ, thành ngữ được đưa vào thơ, hóa thành thơ thật tự nhiên nhuần nhuyễn, như: “thân gầy guộc, lá mong manh”, “đất sỏi đất vôi bạc màu”, “nắng nỏ trời xanh”, “tay ôm tay níu”, “thân gẫy cành rơi”, “có manh áo cộc tre nhường cho con”, “ tre già măng mọc”…

Thơ lúc bát có ưu thế bởi chất ngâm, điệu ru ngọt ngào, êm ái, dễ thuộc, dễ nhớ, dễ đi vào lòng người, hợp với điệu hồn của người Việt Nam. Bài thơ “Tre Việt Nam” của Nguyễn Duy đã phát huy ưu thế đó về cả ngôn ngữ hình ảnh và âm vận, góp phần khẳng định, tôn vinh và giữ gìn thể thơ dân tộc.

Tính cách phẩm chất của con người Việt Nam được hình thành phát triển trong suốt chiều dài lịch sử là tài sản, là vốn quí của dân tộc ta. Nhận diện nó là để kế thừa, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Với ý nghĩa đó, bài thơ “Tre Việt Nam” đã truyền cho chúng ta tình yêu đất nước, niềm tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm với cộng đồng, làm giàu thêm nội lực để bước tiếp con đường mà dân tộc đang đi.

 

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
7
8
Portgas ( Gol ) D. ...
20/02/2018 21:00:57
Tre Việt Nam là bài thơ kiệt tác của Nguyễn Duy được nhiều người yêu thích. Đây là một phần tiêu biểu của bài thơ ấy. Bài thơ được viết theo thể thơ lục bát; trong đó câu lục đầu bài thơ được cắt thành hai dòng (2+4) và câu lục cuối bài được cắt thành ba dòng (2+2+2). Lời thơ mượt mà, có nhiều hình ảnh đẹp, giọng thơ du dương truyền cảm.

Ba dòng thơ đầu, nhà thơ ngạc nhiên hỏi về màu xanh của tre, liên tưởng đến “chuyện ngày xưa” - chuyện người anh hùng làng Gióng dùng gộc tre đánh đuổi giặc Ân. Qua đó, tác giả thể hiện rất hay sự gắn bó lâu đời giữa cây tre với đất nước và con người Việt Nam:
Tre xanh,
Xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa... đã có bờ tre xanh.
Cây tre được nhân hoá, tượng trưng cho bao phẩm chất cao quý của con người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam. Cây tre, luỹ tre tượng trưng cho tình thương yêu đồng loại, tinh thần đoàn kết dân tộc để vượt qua bão bùng, để làm nên luỹ thành bền vững:
Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay ôm, tay níu tre gần nhau thêm.
Thương nhau, tre chẳng ở riêng
Luỹ thành từ đó mà nên hỡi người.
Nguyễn Duy có nhiều cách sáng tạo hình ảnh về cây tre, măng tre để thể hiện tính ngay thẳng, tinh thần bất khuất của nhân dân ta:
Tre xanh không đứng khuất mình bóng râm
hay:
Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lự thường.
hay:
Măng non là búp măng non
Đã mang dáng thẳng thân tròn của tre.
Cây tre được nhân hoá, tượng trưng cho đức hi sinh, tình thương con bao la của người mẹ hiền:
Lưng trần phơi nắng phơi sương
Có manh áo cộc, tre nhường cho con.
“Tre già măng mọc” là sự thật, là niềm tin về tuổi thơ, về thế hệ tương lai.

Ba chữ “xanh” trong câu cuối bài thơ cho thấy cách viết rất tài hoa của Nguyễn Duy khi ca ngợi vẻ đẹp của cây tre, ca ngợi cảnh sắc làng quê đất nước bền vững trong dòng chảy thời gian đến muôn đời mai sau:
Mai sau,
Mai sau,
Mai sau,
Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh.
Đọc bài thơ Tre Việt Nam, ta yêu thêm cây tre, luỹ tre, yêu thêm vẻ đẹp quê hương đất nước, ta thêm tự hào về bao phẩm chất cao quý của con người Việt Nam, của dân tộc

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Tiếng Việt Lớp 5 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo