Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh có nhận định về Xuân Diệu "...Và thiết tha, rạo rực, bâng khuâng như Xuân Diệu". Ý kiến của anh chị qua bài thơ "Vội vàng" của nhà thơ. Phân tích để chứng minh

2 trả lời
Hỏi chi tiết
2.958
1
1
Phương Như
31/01/2019 19:58:01
Tôi đã trót yêu cái hồn thơ Xuân Diệu, một hồn thơ luôn rộng mở, chẳng bao giờ để lòng mình khép kín, một hồn thơ “tha thiết, rạo rực, băn khoăn” ( Hoài Thanh – Hoài Thanh – Thi nhân Việt Nam ). Xuân Diệu tha thiết , rạo rực bởi niềm say mê yêu đời, yêu cuộc sống, thèm sống đến mãnh liệt và thèm yêu đến điên cuồng với niềm khát khao được giao cảm với đời. Nhà thơ băn khoăn bời cái buồn bàng bạc, bâng khuâng, miên man không dứt bởi cuộc đời chẳng đáp ứng được cách sống vội vàng của con người nhà thơ. Với ba tính từ ấy, Hoài Thanh đã xây dựng cho Xuân Diệu một bậc thang cao nhất , đưa chàng thi sĩ “say men sống” lên đứng cao hơn mọi người – “Xuân Diệu, nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới” ( Hoài Thanh). Bởi nguyên nhân Xuân Diệu là nhà thơ tiêu biểu nhất, là đại biểu đầy đủ nhất cho phong trào thơ mới, bởi cái cá tính rất riêng khó có thể trùng lặp với ai, một phong cách thơ rất Xuân Diệu, mới cả về nội dung và hình thức. “Với nững vần thơ ít lời mà nhiều ý, súc tích nhưng động lại bao nhiêu tinh hoa, Xuân Diệu là một tay thợ biết làm cho ta ngạc nhiên vì nghệ thuật dẻo day và cần mẫn” ( Thế Lữ ). Xuân Diệu tuy xuất hiện trên thi đàn thơ Mới muộn hơn so với Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông… nhưng thơ Xuân Diệu trong thời kì này đã tạo được một tiếng vang lớn có sức lay động với nhận thức và tình cảm của người đọc cũng như người sáng tác lúc bấy giờ…
“Nhà thi sĩ ấy là một chàng trai trẻ hiền hậu và say mê, tóc như mây vướng trên đài trán thơ ngây, mắt như bao luyến mọi người và miệng cười mở rộng như một tấm lòng sẵn sàng ân ái, chàng đi trên dường thơ, hái những bông hoa gặp dưới bước chân mình, những hương sắc nẩy ra bởi ánh sáng của lòng chàng…”(Thế Lữ). Vâng! Đúng thế. Một nhà thơ nhận xét một nhà thơ, không phải chuyện “mèo khen mèo dài đuôi”, mà mèo muốn nói cái đuôi kia sẽ dài hơn kia. “Như một tấm lòng sẵn sàng ân ái”, Xuân Diệu dang tay chào đón nhựa sống rạt rào của cuộc đời. Xuân Diệu là một ngừoi của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian, ông lại không trách mà còn quyến luyến cõi đời, và lời nguyện ước của ông có bao nhiêu là sức mạnh:
Ta ôm bó cánh tay ta làm rắn
Làm dây quấn quýt cả mình xuân
Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần
Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất.
Một ước muốn quá ngông cuồng, lãng mạn và dường như không thể thực hiện được! Nhưng với ai, chứ Xuân Diệu có thể thức hiện được, bởi nhà thơ:
Sống toàn tâm, toàn bích, sống toàn hồn
Bằng say mê và thức nhọn giác quan.
Nhà thơ dùng nhiều từ khiến lòng ta bỡ ngỡ, nhà thơ muốn ôm, cánh tay muốn làm rắn, muốn hóa thân thành “dây đa quấn quýt cả mình xuân” của cuộc sống. Dẫu biết mùa xuân là bất tận, Xuân Diệu biết quy luật của thời gian, biết rằng xuân qua đi rồi xuân sẽ trở lại, nhưng “tuổi trẻ chẳng bao giờ thắm lại” nên nhà thơ bâng khuâng tiếc cả dất trời, nhà thơ muốn ôm mãi mùa xuân, muốn cho mình trẻ mãi. Nhà thơ :
Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần
Chân hóa rễ để hút mùa dưới dất.
Nếu Thế Lữ còn nuôi giấc mộng lên tiên thì Xuân Diệu “đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”(Hoài Thanh). Chàng thi sĩ trẻ yêu đời nhận ra rằng, không có gì quý hơn cuộc sống thực tại này, còn gì bằng ở chốn dương trần, vườn trần xinh tươi, đất nở muôn ngàn hoa tươi thắm, thì tìm làm chi ở tận chốn cung tiên, mơ mộng “muốn làm thằng cuội”(Tản Đà) làm chi mà thủ thỉ bên chị Hằng để trốn tránh chốn trần thế?. Nơi mặt đất này, màu nắng hương say đều làm cho người ta ngây ngất, và Xuân Diệu đã:
…muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
…muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
thì cũng là một ý muốn ngông cuồng, lãng mạn…
Và ở đây, cái đẹp của vườn trần mà chỉ một mình Xuân Diệu mới phát hiện ra được:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Cùa yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi…
“Này đây”, sự lặp đi lặp lại một đại từ phím chỉ, để liệt kê, Xuân Diệu đã đưa ra cho người ta thấy, với một tâm hồn say sưa yêu sống như thế không thể hững hờ với thiên nhiên tươi đẹp, thì cớ gì mà con nguyoi72 còn đi tìm ở tận phương nào …
Cuộc sống đẹp và huyền dịu như thế nên nhà thơ không những đón nhận nó mà còn muốn hòa tan nó theo hơi thở của mình:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm của tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước và cây và cỏ rạng
Cho chếch choáng mùi thơm cho đã đấy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi!
Xuân Diệu thật thiết tha với cuộc sống. Tuổi xuân chàng thi sĩ chỉ biết làm sao cho thỏa dạ yêu đời. Cuộc sống vẫn còn đó chứ đâu? Tại sao nhà thơ lại cứ mãi suy nghĩ viễn vong rồi lại hành động ngây ngô. Không! Nhà thơ của chúng ta không ngây ngô, nhà thơ chỉ thôi thúc mọi người hãy sống sao cho xứng đáng với tuổi trẻ. Vì thế, nhà thơ “muốn ôm”, “ôm sự sống mới bắt đầu mơn mởn”, nhà thơ “muốn riết mây đưa và gió lượn”, “muốn say cánh bướm của tình yêu”, “muốn thâu trong một cái hôn nhiều”…một loạt động từ “muốn” như khẳng định hành động, làm cho chếch choáng, cho đã đầy, cho no nê thanh sắc thời tươi và cuối cùng là không thể dồn nén cảm xúc: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”. Nhà thơ muốn cắn, muốn bấu vào da thịt của mình xuân, để có thể tận hưởng tất cả dư vị ngọt ngào của cuộc sống xuân tươi đang mơn mởn…
Lòng yêu cuộc sống thiết tha ấy, đặc biệt là khát vọng sống có ích cho đời. Có thể nói đó là một trong những yếu tố tạo nên sức sống, sức hấp dẫn mạnh mẽ của thơ Xuân Diệu, góp phần tạo nên cho nhà thơ có một chỗ đứng xứng đáng trên thi đàn thơ M
Rột lúc nào đó, tâm hồn thiết tha yêu sống ấy lại rạo rực một tình yêu chân thành. Một buổi chiều thơ ấy, dưới cặp mắt choáng hơi men sống, cảnh vật cũng trở nên kì diệu:
Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu.
Đó là tình yêu của buổi đầu e ấp, thật trong sáng và đáng yêu là sao! Rồi tình yêu say đắm, nhà thơ muốn tận hưởng tình yêu sôi nổi, đam mê cuồng nhiệt như muốn trở thành điên dại:
Yêu tha thiết thế vẫn còn chưa đủ
Phải nói yêu trăm bận mấy nghìn lần
Phải mặn nồng cho mãi mãi đêm xuân
Đem ong bướm thả trong vườn tình ái
Em phải nói phải nói và phải nói
Bằng lòi riêng nơi cuối mắt đầu mài
Bằng nét vui, bằng vẻ thẹn, chiều say
Bằng đầu ngã, bằng miệng cười, tay riết
Bằng im lặng, bằng chỉ anh mới biết!...
Không phải là chuyện có yêu hay không! Cái mà Xuân Diệu muốn nói là yêu như thế nào? Nhà thơ đòi hỏi một tin hỏi một tình yêu mảnh liệt, say đắm, một tình yêu có nồng độ cao – một tình yêu mặn nồng, vô biên và tuyệt bích. Và một khi tình yêu dang dở, chỉ có Xuân Diệu nhận rõ và tuyệt vọng hơn ai:
Yêu là chết trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu
Cho rất nhiều song nhận chẳng bao nhiêu

Họ lạc lối giữa u sầu mù mịt
Những người si theo dõi dấu chân yêu
Và cảnh đời là sa mạc cô liêu
Và ái tình là sợi dây quấn quýt
Yêu là chết trong lòng một ít.
Chỉ có những người si mới theo dõi dấu chân yêu, khi tuyệt vọng rồi mới rõ ràng thấy mình đã chết…
Nhưng Xuân Diệu chẳng bao giờ chán nản, “khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết …không cần phải như là con hổ ngự trị trên rừng xanh, không cần phài là con chim đại bàng bay một lần chín vạn dặm mới là sống, sự bồng bột của Xuân Diệu có lẽ đã phát biểu ra một cách đầy đủ hơn cả trong những rung động tinh vi, sau khi đọc lại nhà thơ có tâm hồn phúc tạp này, sau khi đã tìm hiểu Xuân Diệu hoài, tôi thấy đây mới chính thật là Xuân Diệu”(Hoài Thanh).
Một nhà thơ có tâm hồn tha thiết với cuộc sống như thế, một khi cũng cô đơn trong cuộc sống đời thường. và cứ mỗi độ thu về, tâm hồn nhà thơ lại thêm một nỗi cô đơn, đấy là nỗi “băn khoăn” của thi sĩ. Và cái băn khoăn ấy là biểu hiện rõ nét và chân thành nhất của lòng yêu đời rạo rực. Đó là hai mặt của một hồn thơ Xuân Diệu, và Xuân Diệu chẳng phải đã bộc lộ tâm sự của mình trong “thơ duyên” đó sao?
Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân.
Đứng giữa cuộc đời đang đổi thay bởi cái cảnh nước mất nhà tan, là sao tâm hồn ấy có thể tha thiết rạo rực mãi? Và tâm trạng của Xuân Diệu cũng có khác gì tâm trạng của những nhà thơ bấy giờ hay nói đúng hơn dó là tâm trạng của một lớp thanh niên trí thức buổi giao thời mới cũ đổi thay! Họ chỉ biết gửi tâm sự thầm kín của mình vào thiên nhiên, dất trời, vũ trụ bao la. Chẳng thế mà Hoài Thanh trong “thi nhân Việt Nam đã nhận xét: “ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên; ta dắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say dắm vẫn bơ vơ”.
Vì thế nhà thơ Xuân Diệu vẫn còn “bơ vơ”, lắng nghe bước đi của thời giantừ hạ sang thu, lòng nhà thơ dâng lên một nỗi buồn trê tái khó tả - nỗi buồn vỡ tung ra thành tiếng khóc và đọng lại thành hàng ngàn giọt lệ:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
có lẽ không phài là rặng liễu của thiên nhiên buồn mà dường như đó là “rặng liễu tâm hồn” của tác giả. Bởi tác giả cũng có nỗi niềm “buồn ơi xa vắng mênh mông là buồn”. Xuân Diệu đã dẫn ta vào thế giới của buồn chán, cô đơn và tuyệt vọng:
Tôi là con nai giữa chiều giăng lưới
Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối.
Nhà thơ đã thực sự cô đơn, bơ vơ như con nai bị “chiều giăng lưới”, biết đi đâu về đâu? Đứng sầu tư cho đến khi bóng tối chìm nghập cả không gian. Khi thời gian trôi qua, Xuân Diệu mói ngỡ ngàn , ngơ ngẩn nhìn hạ chuyển mùa sang đông mà lòng nghe tê tái:
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Nhũng luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
Có ai quan sát được như nhà thơ? Chỉ có tâm hồn rạt rào yêu sống, quan tâm đến sự sống mới có thể vượt lên được hoàn cảnhthê lương để tâm hồn luôn sống đẹp mà mới viết lên được những cậu thơ đầy hình ảnh như thế, và mới có cách nói rất mới ấy: “hơn một” – cách dùng từ rất Tây, rất mới, không chỉ một loài jao, mà khi thu đến rồi đi, nhiều loài hoa đã rời cành. Sự quan sát càng tinh tế hơn ở câu sau : “Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh”, màu đỏ đã lấn át dần màu xanh, đấy là giai đoạn cuối thu, nên mới có hơi lạnh tràn về:
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
Chỉ những từ láy âm, nhà thơ đã gợi trong ta cái dáng yếu ớt, chao đảo, cái rùng mình thắm lạnh và cả nỗi sợ hải của những chiếc lá sắp phải lìa cành trước những cơn gió cuối thu. “Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”, bằng hình ảnh so sánh, nhân hóa đã goiợ lên cái dáng lẻ loi, cô đơn giữa đất trời, từng nhánh khô gầy khẳng khiu như chạm khắc lên bầu trời buồn cô đơn dưới con mắt buồn của thi nhân. Và nhà thơ:
Đã nghe rét mướt luồng trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò…
Cảnh thu đã tàn rồi, mùa thu đã dần nhường bước9 cho tiết trời mùa đông len qua, càng buồn càng cô đơn hơn nữa! Mùa đông đã đến trong từng ngọn gió rét mướt làm tê lạnh lòng người!...
Xuân diễu say đắm đấy, thiết tha yêu sống đấy nhưng lại rất băn khoăn. Nhà thơ đã náo nức đón chào mùa thu: “Đây mùa thu tới – mùa thu tới”. Nhưng rồi cảm giác vui mừng ấy cũng tan biến đi, khi thời gian làm bằng bước đếm vội vàng làm lòng người tê tái khi còn lại đây chỉ là mùa đông băng giá thê lương, với những cuộc chia li, với con người như biến nói trước cảnh vật:
Mây vẩn từng không chim bay đi
Khí trời u uất hận chia li
Ít nhiều thiếu nữ buốn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì.
Cả một không gian bao la giờ này đã thấm nỗi buồn của lòng người và hiện lên trên gương mặt của những cô thiếu nữ. Đó là tâm trạng của những lớp người chưa xác định được hướng đi và cũng không giải thích nổi. Nó chỉ phảng phất nỗi lòng trên cảnh vật , hiện hình lên gương mặt những cô thiếu nữ và đọng lại trên sắc thu tê tái, thấm sâu nỗi niểm băn khoăn của Xuân Diệu. và trong nỗi niềm băn khoăn đó, nhà thơ đã sử dụng được tài tình sự lựa chọn từ ngữ rất tinh vi đã bộc lộ được nỗi đau buồn của tâm trạng đang bơ vơ giữa cuộc đời.
Và trong niềm băn khoăn ấy, loiừ thơ ấy vẫn sống mãi, vẫn thiết tha và rạo rực, có buồn chăng cũng chỉ vì nhà thơ của chúng ta mang tâm trạng cô đơn và bất lực trứoc cuộc đời.
Xuân diệu là thế, lời thơ có những lúc rất Tây, nhưng vẫn mang được cái cốt cách rất đáng trân trọng, “cái dáng yêu kiều, cái cốt cách phong nhã của điệu thơ, một cái gì rất Việt Nam, đã quyến rũ lòng ta” (Hoài Thanh). Ta đến với Xuân Diệu, ngoài những vần thơ làm người ta rung động còn có cái gì đó ở Xuân Diệu mà ta rất đổi nâng niu. Đó là tâm hồn thơ kết tinh của hai nền văn học Đông và Tây đã đưa Xuân Diệu bước lên đỉnh cao nhất – “nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới” (Hoài Thanh), bởi Xuân Diệu vẫn còn giữ mình với phong cách của thơ ca dân tộc, đã làm lòng người Việt Nam yêu mến. Đến với thơ Xuân Diệu ta mới cảm nhận được hết tâm hồn của cháng thi sĩ sday men đời cuồng nhiệt này, giúp ta hiểu thêm về cuộc đời này với muôn vẻ đẹp thiên nhiên mà hâừ như ta không để ý tới. Với một chiếc lá rơi, một luồng gió lạnh, một chút nắng vàng trải rộng, một cử chỉ bâng khuâng của con người,…chỉ có Xuân Diệu mới để lòng quan tâm. Đó là phong cách của nhà thơ, nhà thơ đã từng sống, sống hết mình cho cuộc đời và cho thơ văn của mình:
Là thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây
Để cho lòng ràng buộc với muôn dây
Và san sẻ bởi trăm tình yêu mến.
Bởi thế nên hồn thơ ấy còn rộng mở mãi mặc dầu trong lòng cũng còn mang nặng bao nỗi ưu tư. Trong niềm ưu tư đó, nhà thơ vẫn sống thiết tha với đời bằng tất cả tâm hồn của mình:
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.
Vâng! Đúng thế. “Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống rạt rào chưa từng có ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuốn quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình, khi vui cũng như khi buồn, người đều nòng nàn tha thiết” (Hoài Thanh). Hơn nữa, Xuân Diệu “là một tay thợ biết làm cho ta ngạc nhiên vì nghệ thuật dẻo dai và cần mẫn…” (Thế Lữ).

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Quỳnh Anh Đỗ
01/02/2019 07:16:14
Hoài Thanh từng nhận xét trong Thi nhân Việt Nam: "Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên... và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu". Trong khi mỗi hồn thơ chỉ được nói đến bằng một tính từ, thì nhà phê bình lại đặc biệt dùng đến ba tính từ để nhận xét cái "riêng" của Xuân Diệu: một hồn thơ tha thiết, rạo rực, băn khoăn. Vì sao lại có sự ưu ái như vậy? Đơn giản chỉ vì ông là "nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới". Và điều này ta có thể dễ dàng tìm thấy qua ba bài thơ tiêu biểu: Vội vàng, Đây mùa thu tới, Thơ duyên.
Bước vào thế giới thơ ca của Xuân Diệu thật muôn hình vạn trạng. Có biết bao cái hay, cái đẹp trong cuộc sống này được nhà thơ gửi gắm trong từng bài thơ, từng câu thơ, chữ thơ của một hồn thơ "tha thiết, rạo rực, băn khoăn". Rõ ràng khi ta đọc thơ, đi sâu vào tìm hiểu thơ của thi sĩ, ta thấy thấp thoáng có một ngọn lửa khát vọng, ngọn lửa của cuộc sống đang rạo rực khát khao với đời, với người. Nhưng thoảng qua tấm lòng yôu đời lại gợn lên một chút băn khoăn buồn thảm của một thi nhân trước thời cuộc. Nỗi băn khoăn đó làm cho "nhà thơ như bị giam hãm trong một môi trường thiếu năng lượng, thiếu chất dot của lòng tin, làm sao thơ ông có đủ chất sáng? Nhưng thật đáng quý là trong nhà thơ vẫn lập lòe "ngọn lửa Đan-cô" trên thảo nguyên mịt mùng của cuộc đời: ngọn lửa của tình yêu người, yêu non sông đất nước, yêu tiếng mẹ đẻ...". Và ta biết chắc một điều là: trong thơ Xuân Diệu "khi vui cũng như khi buồn đều nồng nàn tha thiết".
Có lẽ cũng chính vì điều đó mà nhà thơ đã nhìn cuộc sống với một tình yêu trẻ trung dạt dào bằng một cặp mắt "xanh non" "biếc rờn", đem đến cho đời và cho thơ một quan niệm sống hoàn toàn mới lạ:
Sống toàn tim, toàn trí, sống toàn hồn
Sống toàn thân và thức nhọn giác quan
(Thanh niên)
Một sự ham muốn cuồng nhiệt luôn luôn được sống là mình, sống mê say, vồ vập. Cuộc sống "thiên đường" ấy hiện ra trong bài Vội vàng của nhà thơ như lung linh và đầy sức hấp dẫn. ớ đó có "ong bướm" với "tuần trăng mật", có hoa trong "đồng nội xanh rì", có "cành tơ phơ phất" rồi "khúc tình si" và cả ánh bình minh rực rỡ... Từng câu, từng chữ, từng dòng nhanh gấp như muốn hệt kê, muốn nói to lên hết thảy những cái đẹp đẽ trong cuộc sống ấy. Tiếng nói tâm tình của nhà thơ về bức tranh mùa xuân như một người dẫn chương trình. Từng bước chân của tác giả như kéo ta đến gần, khám phá ra những cái tuyệt diệu nhất của cuộc sống:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si...
Nếu Thế Lữ còn nuôi giấc mộng lên tiên thì "Xuân Diệu đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới" (Hoài Thanh). Nhà thơ đã phát hiện ra một thiên đường nơi mặt đất, ngay trong tầm tay của chúng ta. Con người cứ phải đi tìm kiếm ở tận đâu? Nó ngay trong cuộc sống quanh ta đây: những hoa thơm trái ngọt và mùa xuân rực rỡ. Vậy còn chờ gì nữa? Hãy yêu mến và gắn bó với thực tại này.
Cuộc sống đẹp và kì diệu như vậy, nên nhà thơ không nhừng đón nhận nó, mà còn muốn hòa tan nó theo từng hơi thở của mình:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn,
Ta muốn riết mây dưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều...
Có nhà thơ đã nói: "Thơ chỉ tràn ra khi cuộc sống trong tim đã ứ đầy". Có lẽ tình yêu cuộc sống của nhà thơ Xuân Diệu đã tăng lên dần theo từng từ "muốn". Rồi "ôm" đến "riết" là đã ghì chặt hơn. Và đã "say" - sự ngây ngất đến bất tỉnh vẫn chưa thỏa lòng - còn muốn "thâu" nghĩa là muôn thu hết tất cả để có sự hòa nhập làm một. Để cuôì cùng là một tiếng kêu của sự cuồng nhiệt chưa bao giờ có trong thơ:
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Đây đúng là "tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt" có lẽ chính vì "cuộc sống nơi trần thế là thiên đường tuyệt diệu nhất" của thi sĩ Xuân Diệu.
Hồn thơ yêu đời ấy lúc thì hối hả "vội vàng", khi lại dặm thắm lắng sâu, nhưng bao giờ cũng thiết tha, rạo rực. Đó là cái thiết tha rạo rực như con sóng bạc đầu trên biển cả trong Vội vàng, lại có những lượn sóng ngầm cũng không kém phần rạo rực thiết tha dưới lòng sâu. Đó là bài Thơ duyên, một sự hòa hợp tuyệt diệu giữa thiên nhiên - thời tiết - lòng người, một bức tranh thu chứa chan sức sống, rạo rực tình yêu của thi sĩ.
Một buổi "chiều mộng" với biết bao âm thanh sinh động, ảnh hình đẹp đẽ đã tác động đến tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sông của nhà thơ khiến thi nhân đã phải thốt lên những tiếng tơ lòng:
Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền.
Thi sĩ đã nhìn vạn vật bằng con mắt và tấm lòng đồng cảm của mình. Dưới con mắt ấy, cảnh thiên nhiên sao mà có duyên đến thế, đẹp đến thế. Đọc lên câu thơ thứ nhất ta đã thấy như có một sự gắn bó vô hình nào đó của chiều thu, của thơ và của "nhánh duyên". Thiên nhiên cùng cảnh vật đều mang một sức sông sinh động và tươi vui: cây thì như đang "ríu rít" cùng cặp chim chuyền, lá thì như tan ra trong sắc màu xanh trong như ngọc của bầu trời, âm thanh du dương "tiếng huyền" của mùa thu như hòa thành một bản nhạc kì lạ và tấu lên một khúc tương giao gắn bó của thiên nhiên đất trời. Đúng là nhờ có một tâm hồn nghệ sĩ khát khao giao cảm với đời đã giúp Xuân Diệu khám phá được nhiều biến thái tinh vi của tự nhiên và thể hiện nó trên những vần thơ đậm sắc màu lãng mạn. Ta như nghe thấy cái thiết tha rạo rực của lòng thi nhân đang dâng đầy ăm ắp trong cảnh "chiều mộng", trong "tiếng huyền" của mùa thu. Bức tranh thiên nhiên đã được khúc xạ qua tấm lòng yêu đời của thi sĩ. Tấm lọng yêu đời ấy lại càng rạo rực thiết tha trong mối tình đầu e ấp. Ớ đây có sự giao hòa tuyệt đẹp giữa cảnh và tình, giữa thiên nhiên và lòng người:
Con đường nho nhỏ gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu
Và càng đẹp hơn là sự hòa hợp của hai trái tim đang yêu như "một cặp vần" trong "bài thơ dịu", càng rạo rực hơn trong làn mây biếc "bay gấp gấp", càng thiết tha cháy bỏng hơn trong "chim nghe trời rộng giang thêm cánh". Làn mây và cánh chim của tình yêu trong thơ Xuân Diệu thật mới lạ, mãnh liệt và táo bạo - nó là sản phẩm của một hồn thơ yêu đời, thiết tha với cuộc sống. Hồn thơ ấy luôn mở rộng, giao hòa với con người và vạn vật giống như "một cây đàn Bá Nha nhưng không muốn chỉ có một Chung Tử Kì mà khát khao hàng vạn hàng triệu tri âm tri kỉ".
Một hồn thơ yêu đời như thế nhưng sao nhà phê bình lại ghi thêm hai chừ "băn khoăn" tiếp liền với "thiết tha, rạo rực"? Đây là hai tâm trạng dường như trái ngược nhau nhưng thực ra lại có mốì liên quan nhân quả với nhau: chính vì yêu đời thiết tha nên mới băn khoăn khi chưa được cuộc đời đền đáp ("Cho rất nhiều song nhận chẳng bao nhiêu"), và băn khoăn lại là biểu hiện rõ nét và chân thành nhất của lòng yêu đời rạo rực. Đó là hai mặt của một hồn thơ thông nhất Xuân Diệu, và phải chăng, chính thi sĩ đã tự bộc lộ mình trong Thơ duyên:
Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân.
Nhưng vì sao lại có nỗi "bản khoăn" ấy? Vì sao cuộc đời đáng yêu như thế, đầy hương sắc như thế mà nhà thơ lại buồn? Phải chăng là sông trong xã hội hỗn loạn, nước mâ't nhà tan, những con người "chưa đủ dũng khí để chống lại chế độ thực dân" đà mang một nỗi lòng u hoài và thường tìm đến thiên nhiên tâm sự. Thật là đúng khi Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam đã nói: "Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ".
Hiện thực cuộc sông của các nhà thơ mới đáng sợ làm sao! Nó ngăn chặn mọi ước mơ tốt đẹp về cuộc sống của con người. Nó không thể làm cho người ta sông đẹp lên, vì hiện thực của đất nước là đang trong vòng lầm than nô lệ. Ta hiểu vì sao Xuân Diệu "say đắm" mà vẫn "bơ vơ". Lắng nghe bước đi của thời gian chuyển từ hạ sang thu, lòng nhà thơ dâng lên một nỗi buồn tê tái thê lương - nỗi buồn đã vỡ ra thành tiếng 'khóc và đọng lại thành hàng ngàn giọt lệ:
Rặng liễu dìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Một bức tranh thu tuyệt đẹp với rặng liễu thu buồn. Song có lẽ không phải "rặng liễu thiên nhiên" buồn mà dường như đó chính là "rặng liễu tâm hồn" của tác giả. Bởi chính tác giả cũng đã từng có một nỗi niềm: "Buồn ơi xa vắng mênh mông là buồn". Xuân Diệu đã dẫn hồn ta vào thế giới cô đơn buồn chán tuyệt vọng:
Tôi là con nai bị chiều giăng lưới
Không biết di dâu dứng sầu bóng tối...
(Khi chiều giăng lưới)
Hai câu thơ mà chứa đựng biết bao tâm trạng của kẻ thiết tha yêu đời nhưng lại như đang phải tự giam mình trong cô đơn sầu thảm. Đến nỗi trước cảnh mùa thu ào đến, nhà thơ đầ phải thốt lên những tiếng reo mừng khe khẽ: "Đây mùa thu tới, mùa thu tới" nhưng rồi cảm giác vui mừng lại bị xóa nhòa đi, nhường chỗ cho cảm giác buốt lạnh cô đơn. Thu đến chỉ thấy có gió rét luồn lách qua từng ngọn cỏ nhành cây, chỉ thấy cảnh vật mang một nỗi buồn tâm trạng trước thời cuộc, nó lan tỏa ra không gian và đọng lại trong khí uất của bầu trời và lòng người:
Mây vẩn từng không chim bay đi
Khí trời u uất hận chia li
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì
Cả một không gian bao la lúc này đã thấm đẫm nỗi buồn của lòng người và hiển hiện lên khuôn mặt của các cô thiếu nữ. Đúng là tâm trạng trước cảnh "nước mất nhà tan" của những lớp người chưa xác định được hướng đi cho mình và dường như cũng không thể giải thích nổi. Nó chỉ phảng phất trên cảnh vật, vương vấn hiện hình lên gương mặt những người thiếu nữ và đọng lại trên sắc thu tê tái, thấm sâu nỗi niềm băn khoăn của thi sĩ.
Như chúng ta đã biết, Xuân Diệu khát khao ước mơ nhiều. Nhưng khát khao sống bình thường hạnh phúc mà cũng chẳng được. Có lẽ vì vậy mà nhà thơ đã đưa mình đến với những thế giới đầy xuân sắc và tình tứ, cố tạo ra những mộng mơ để tự huyễn hoặc mình? Nhà thơ cũng đã một lần ao ước:
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm
(Giục giã)
Nhà thơ yêu đời, tha thiết gắn bó với đời, nhưng thực tế cuộc sống xã hội lại không được như ý nguyện, nhà thơ ĩĩluôn tìm đến những tám hồn đồng điệu cũng không được, muốn san sẻ ước muốn với người khác cũng không xong. Trách chi nhà thơ chẳng buồn, chẳng cô đơn lẻ loi như cánh chim chiều thu đang phân vân đôi cánh trong bài Thơ duyên:
Con cò trên ruộng cánh phân vân
Phân vân không biết bay đi hay đậu, bay cao hay thấp, tâm trạng của nhà thơ cũng vậy, cũng bôì rối, "băn khoăn" trước ngã ba của cuộc đời. Điều này đã làm cho ta hiểu thêm về nỗi đau của một trái tim say đắm, nồng nhiệt mà không được đền đáp xứng đáng. Đó là cảm giác cô đơn giá lạnh trước thái độ nhạt nhẽo của cuộc đời.
Ta hiểu vì sao trong thế giới nghệ thuật của Xuân Diệu mùa xuân và bình minh đi liền với những chiều thu tàn và những đêm trăng lạnh. Sự nồng nàn đi với cảm giác bơ vơ. Cái hạt nhân cơ bản để tạo ra cái đẹp trong hồn thơ Xuân Diệu chính là nỗi "yêu đời" và "đau đời". Phải chăng vì thế nên thơ ông đã tồn tại qua bao lớp bụi của thời gian?
Nhà phê bình Hoài Thanh quả đá rất tinh tế khi nhận xét hồn thơ Xuân Diệu bằng sáu chữ: "tha thiết, rạo rực, băn khoăn". Sáu chữ nói lên hai mặt đồng thời cũng là hai vẻ đẹp của hồn thơ lãng mạn ấy. Hai vẻ đẹp này tưởng như tách rời nhau nhưng lại kết hợp biện chứng thống nhất với nhau, bổ sung cho nhau để làm nên vẻ đẹp riêng của hồn thơ Xuân Diệu. Hồn thơ ấy đã hơn nửa thế kỉ trôi qua vẫn có biết bao lớp người đang say và ngẩn ngơ!

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 11 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500K