câu 2.
Sinh ra trong một vùng đất giàu truyền thống văn hoá, tại một làng quê vừa đẹp vừa thơ mộng là làng Phù Lưu thuộc Bắc Ninh xưa, Kim Lân sớm hiểu làng, yêu làng và viết về làng quê bằng cái nhìn tinh tế, sắc sảo. Truyện ngắn Làng là một trong những truyện ngắn có vị trí nổi bật, truyện nói về lòng yêu nước của ông Hai - nhân vật chính của truyện là một người yêu làng, yêu nước. Tình yêu làng ở ông có những nét đặc sắc, riêng biệt, được thể hiện thành một cá tính đáng quý.
Ông Hai yêu nước và tự hào về làng Dầu, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi quê cha đất tổ của ông. Tình cảm ấy thể hiện trước hết ở cái tính hay khoe về làng, lấy làm hãnh diện về làng của mình. Đọc xong truyện, người ta có thể gọi ông Hai là ông Hai làng chợ Dầu hoặc ông Hai khoe đều được. Tên gọi thứ nhất dùng để chỉ nguồn gốc, còn tên gọi thứ hai dùng để chỉ đặc điểm. Mà thực ra thì có ai biết làng chợ Dầu của ông như thế nào. Người ta chỉ biết nó qua lời kể của ông là chính. Rồi qua từng thời kì khác nhau, lời kể, lời khoe của ông cũng thay đổi. Duy chỉ có tình yêu làng của ông vẫn thế, không hề thay đổi, không hề lay chuyển.
Vì yêu làng nên ông Hai không muốn xa làng, nhất là làng ông đang trong thờ kì chuẩn bị đánh giặc. Là một người nông dân hay lam hay làm, gặp lúc nhong nhong ngồi ăn, lại sống một nơi khác với cái làng yêu quý, ông Hai cảm thấy tù túng, bức bối, Để khuây khỏa, ông lại đi chơi. Mà lại đi chơi thì ông lại khoe! Ông khoe say sưa đến mức không đế ý đến người tiếp chuyện. Điều này cũng thật dễ hiểu. Buồn vui của làng trở thành buồn vui của chính ông lúc nào không rõ.
Trước Cách mạng tháng Tám, mỗi bận đi đâu xa ông thường khoe cái sinh phần của viên tổng đốc làng ông hoặc khi có khách bên họ ngoại ở dưới tỉnh Nam lên chơi, thế nào ông cũng dắt ra xem lăng cụ Thượng cho kì được... Ông có vẻ hãnh diện cho làng có được cái sinh phần ấy lắm. Chết! Chết tôi chưa thấy được cái dinh cơ nào mà lại được như cái dinh cụ Thượng làng tôi. Có lắm lắm là của, vườn hoa cây cảnh nom như động ấy!...
Từ chỗ say sưa, ông nhận vơ vào mình, ông thấy cái lăng ấy một phần như có ông. Muốn hay không, ông Hai đã khoe nhầm, tình yêu làng của ông khiến cho ông có phần mù quáng. Sau Cách mạng, nhờ giác ngộ chính trị, tuyệt nhiên người ta không thấy ông nhắc đến điểm son mà ông thường hay đem ra khoe trước đây. Thậm chí, ông còn bảo ông thù nó vì chính cái làng ấy làm khổ ông, làm khổ bao nhiêu người làng này nữa. Đối tượng khoe của ông Hai giờ là làng chợ Dầu đang trong khí thế sôi nổi, hào hùng thời khởi nghĩa: Trẻ, già, trai, gái tham gia cướp chính quyền, tập tự vệ, đào hào, đắp ụ chuẩn bị chống Pháp. Tất cả những chuyện này được ông Hai kể rành rọt từng cái một, cứ y như ông là người trong cuộc. Ông còn khoe làng ông có cái phòng thông tin thoáng mát nhất vùng với cái chòi phát thanh cao, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy.
Mồi lần kể chuyện về làng, ông nói một cách say sưa, náo nức lạ thường, hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển hoạt động. Tóm lại, ở ông, việc khoe làng đã trở thành một cái tật, một thứ nghiện. Ông nói về làng ông cho sướng cái miệng, cho đỡ nhớ cái làng. Ta hiểu đằng sau cái tật đó chính là tấm lòng chân thật gắn bó của ông với làng, là niềm tự hào chân chính của ông với quê hương.
Ông Hai say sưa kể những thành tích của làng, càng say sưa hơn khi nhớ lại những thành tích đó có một phần đóng góp của ông. Ông tự hào nhớ lại thuở ông gia nhập phong trào từ thời kỳ còn bóng tối, vác gậy đi tập một, hai. Khi dân làng tản cư, ông ở lại, cùng anh em đi đào đường, đắp ụ, công việc bộn bề, ông mải mê làm chẳng còn kịp nghĩ đến vợ con, nhà cửa nữa.
Ông là người nói được, làm được. Công việc chung của làng, ông nói say sưa mà làm cũng say sưa.
Vì ông yêu mến làng nên mọi đau khổ hay niềm vui sướng đều gắn với cái làng quê yêu dấu đó.
Khi bất đắc dĩ phải tản cư, ông buồn khổ lắm. Tiếc nhất là không được góp phần gánh vác công việc chung của những người còn lại.
Lòng yêu nước, yêu làng của ông Hai được thể hiện một cách cảm động qua diễn biến tâm trạng của ông. Tác giả đã sáng tạo ra một tình huống (có tin thất thiệt về làng chợ Dầu đã đi theo giặc) ông Hai vô cùng đau xót cổ ông nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được, ông cúi gầm cái mặt xuống mà đi. Về đến nhà, ông nằm vật ra giường không dám ló ra khỏi nhà. Ông buồn, ông xấu hổ. Ông tự tranh luận với mình, tự dằn vặt mình hoặc đâm cáu gắt với vợ con. Nhiều lúc nước mắt ông lão cứ chực tràn ra. Đêm, ông trằn trọc không sao ngủ được. Ông hết trở mình bên này, trở mình bên kia thở dài. Có lúc ông lão lặng hẳn đi, chân tay nhũn ra, tưởng chừng như không cất lên được. Tiếng đồn loang ra, cả gia đình ông vô cùng buồn khổ. Mụ chủ nhà đuổi khéo vợ chồng con cái ông ra khỏi nhà. Ông Hai rơi vào bế tắc, tuyệt đường sinh sống. Không thể trở về làng, vì về làng là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ. Cũng không thể đi đâu, vì ở đâu người ta cũng đuổi người làng chợ Dầu... Mâu thuẫn đến đây đã phát triển với cao trào, với tâm trạng của ông Hai được bộc lộ sâu sắc và cảm động hơn bao giờ hết.
Nhưng rồi cái tin thất thiệt về làng ông được cải chính. Đến lúc này, mọi nỗi đau của ông Hai biến mất. Mới đến ngõ, chưa kịp vào nhà, ông đã hô bỏ, rồi lật đật sang nhà bác Thứ, lật đật bỏ lên nhà trên, lật đật đi nơi khác để khoe. Vừa khoe vừa múa tay lên. Ông vui vì làng ông vẫn kiên gan đi theo kháng chiến, vui đến mức chuyện nhà ông bị Tây đốt nhẵn trở thành nhỏ bé, không đáng lưu lâm. Chi tiết này khiến người đọc cảm thấy cảm động hơn, trân trọng hơn tình yêu làng, tình yêu Tổ quốc, yêu kháng chiến của ông Hai. Giờ đây, tình yêu lớn lao sâu sắc ấy đã khiến ông quên mọi thứ ưu phiền, ông lại te tái đi khắp nơi để khoe. Mà lần này, ông khoe rành rọt, tỉ mỉ như chính ông vừa dự trận đánh ấy xong thật.
Đây lại là những lúc ông Hai lấy làm vinh dự về làng, tự hào về làng quê mình, anh dũng phá càn, thắng giặc.
Ông Hai là người gắn bó thiết tha với quê hương. Vì quê hương nên ông yêu nước, kính yêu cụ Hồ, hăng hái tham gia kháng chiến.
Văn hào I-li-a E-ren-bua có nói: lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu đồng quê trở nên lòng yêu Tổ quốc. Ông hai đúng là một con người như thế. Niềm vui, nỗi buồn của ông đều gắn với làng. Lòng yêu làng của ông chính là cội nguồn của lòng yêu nước.
Kim Lân đã từng được đánh giá là một cây bút hàng đầu về đề tài phong tục. Trong truyện Làng, sự thông hiểu về lề thói, phong tục của làng quê được ông vận dụng hết sức khéo léo vào xây dựng tâm lí, hành động, ngôn ngữ nhân vật. Cốt truyện đơn giản, sức nặng lại dồn cả vào mạch diễn biến tâm trạng, vào lời thoại của nhân vật nên câu chuyện có sức hấp dẫn riêng, ấn tượng riêng, độc đáo. Trong số rất nhiều những nhân vật nông dân khác, người đọc khó có thể quên ông Hai một người nông dân thuần phác, yêu làng, yêu quê tha thiết. Số phận của ông gắn liền với thăng trầm của làng quê. Nhà văn Kim Lân đã diễn tả được diễn biến tâm lí của người nông dân bằng một thứ ngôn ngữ bình dị gắn liền với lời ăn tiếng nói của quần chúng. Truyện Làng là một trong những truyện ngắn hay nhất của văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám.