Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Văn bản "Bàn về đọc sách" gợi cho em những suy nghĩ gì về việc đọc sách của bản thân? Viết 1 bài văn nghị luận khoảng 300 từ trình bày về vấn đề này

Câu 1. Văn bản bàn về đọc sách của tác giả CQTiem gợi cho em những suy nghĩ gì về việc đọc sách của bản thân ? hãy viết 1 bài văn nghị luận khoảng 300 từ trình bày về vấn đề này ?
Câu 2. Phân tích nét tính cách nổi bật của nhân vật ông hai trong phần trích bn truyện ngắn Làng của kim ngân ?
giúp mi mik với mai mình phải nộp r
6 trả lời
Hỏi chi tiết
4.899
10
5
Trịnh Quang Đức
29/01/2019 18:19:21
Câu 1

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
3
1
Trịnh Quang Đức
29/01/2019 18:22:26
Câu 2:
Ông Hai yêu nước và tự hào về làng Dầu, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi quê cha đất tổ của ông. Tình cảm ấy thể hiện trước hết ở cái tính hay khoe về làng, lấy làm hãnh diện về làng của mình. Đọc xong truyện, người ta có thể gọi ông Hai là ông Hai làng chợ Dầu hoặc ông Hai khoe đều được. Tên gọi thứ nhất dùng để chỉ nguồn gốc, còn tên gọi thứ hai dùng để chỉ đặc điểm. Mà thực ra thì có ai biết làng chợ Dầu của ông như thế nào. Người ta chỉ biết nó qua lời kể của ông là chính. Rồi qua từng thời kì khác nhau, lời kể, lời khoe của ông cũng thay đổi. Duy chỉ có tình yêu làng của ông vẫn thế, không hề thay đổi, không hề lay chuyển.
Vì yêu làng nên ông Hai không muốn xa làng, nhất là làng ông đang trong thờ kì chuẩn bị đánh giặc. Là một người nông dân hay lam hay làm, gặp lúc nhong nhong ngồi ăn, lại sống một nơi khác với cái làng yêu quý, ông Hai cảm thấy tù túng, bức bối, Để khuây khỏa, ông lại đi chơi. Mà lại đi chơi thì ông lại khoe! Ông khoe say sưa đến mức không đế ý đến người tiếp chuyện. Điều này cũng thật dễ hiểu. Buồn vui của làng trở thành buồn vui của chính ông lúc nào không rõ.
Trước Cách mạng tháng Tám, mỗi bận đi đâu xa ông thường khoe cái sinh phần của viên tổng đốc làng ông hoặc khi có khách bên họ ngoại ở dưới tỉnh Nam lên chơi, thế nào ông cũng dắt ra xem lăng cụ Thượng cho kì được... Ông có vẻ hãnh diện cho làng có được cái sinh phần ấy lắm. Chết! Chết tôi chưa thấy được cái dinh cơ nào mà lại được như cái dinh cụ Thượng làng tôi. Có lắm lắm là của, vườn hoa cây cảnh nom như động ấy!... Từ chỗ say sưa, ông nhận vơ vào mình, ông thấy cái lăng ấy một phần như có ông. Muốn hay không, ông Hai đã khoe nhầm, tình yêu làng của ông khiến cho ông có phần mù quáng. Sau Cách mạng, nhờ giác ngộ chính trị, tuyệt nhiên người ta không thấy ông nhắc đến điểm son mà ông thường hay đem ra khoe trước đây. Thậm chí, ông còn bảo ông thù nó vì chính cái làng ấy làm khổ ông, làm khổ bao nhiêu người làng này nữa. Đối tượng khoe của ông Hai giờ là làng chợ Dầu đang trong khí thế sôi nổi, hào hùng thời khởi nghĩa: Trẻ, già, trai, gái tham gia cướp chính quyền, tập tự vệ, đào hào, đắp ụ chuẩn bị chống Pháp. Tất cả những chuyện này được ông Hai kể rành rọt từng cái một, cứ y như ông là người trong cuộc. Ông còn khoe làng ông có cái phòng thông tin thoáng mát nhất vùng với cái chòi phát thanh cao, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy.
Mồi lần kể chuyện về làng, ông nói một cách say sưa, náo nức lạ thường, hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển hoạt động. Tóm lại, ở ông, việc khoe làng đã trở thành một cái tật, một thứ nghiện. Ông nói về làng ông cho sướng cái miệng, cho đỡ nhớ cái làng. Ta hiểu đằng sau cái tật đó chính là tấm lòng chân thật gắn bó của ông với làng, là niềm tự hào chân chính của ông với quê hương.
Ông Hai say sưa kể những thành tích của làng, càng say sưa hơn khi nhớ lại những thành tích đó có một phần đóng góp của ông. Ông tự hào nhớ lại thuở ông gia nhập phong trào từ thời kỳ còn bóng tối, vác gậy đi tập một, hai. Khi dân làng tản cư, ông ở lại, cùng anh em đi đào đường, đắp ụ, công việc bộn bề, ông mải mê làm chẳng còn kịp nghĩ đến vợ con, nhà cửa nữa.
Ông là người nói được, làm được. Công việc chung của làng, ông nói say sưa mà làm cũng say sưa.
Vì ông yêu mến làng nên mọi đau khổ hay niềm vui sướng đều gắn với cái làng quê yêu dấu đó.
Khi bất đắc dĩ phải tản cư, ông buồn khổ lắm. Tiếc nhất là không được góp phần gánh vác công việc chung của những người còn lại.
Lòng yêu nước, yêu làng của ông Hai được thể hiện một cách cảm động qua diễn biến tâm trạng của ông. Tác giả đã sáng tạo ra một tình huống (có tin thất thiệt về làng chợ Dầu đã đi theo giặc) ông Hai vô cùng đau xót cổ ông nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được, ông cúi gầm cái mặt xuống mà đi. Về đến nhà, ông nằm vật ra giường không dám ló ra khỏi nhà. Ông buồn, ông xấu hổ. Ông tự tranh luận với mình, tự dằn vặt mình hoặc đâm cáu gắt với vợ con. Nhiều lúc nước mắt ông lão cứ chực tràn ra. Đêm, ông trằn trọc không sao ngủ được. Ông hết trở mình bên này, trở mình bên kia thở dài. Có lúc ông lão lặng hẳn đi, chân tay nhũn ra, tưởng chừng như không cất lên được. Tiếng đồn loang ra, cả gia đình ông vô cùng buồn khổ. Mụ chủ nhà đuổi khéo vợ chồng con cái ông ra khỏi nhà. Ông Hai rơi vào bế tắc, tuyệt đường sinh sống. Không thể trở về làng, vì về làng là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ. Cũng không thể đi đâu, vì ở đâu người ta cũng đuổi người làng chợ Dầu... Mâu thuẫn đến đây đã phát triển với cao trào, với tâm trạng của ông Hai được bộc lộ sâu sắc và cảm động hơn bao giờ hết.
Nhưng rồi cái tin thất thiệt về làng ông được cải chính. Đến lúc này, mọi nỗi đau của ông Hai biến mất. Mới đến ngõ, chưa kịp vào nhà, ông đã hô bỏ, rồi lật đật sang nhà bác Thứ, lật đật bỏ lên nhà trên, lật đật đi nơi khác để khoe. Vừa khoe vừa múa tay lên. Ông vui vì làng ông vẫn kiên gan đi theo kháng chiến, vui đến mức chuyện nhà ông bị Tây đốt nhẵn trở thành nhỏ bé, không đáng lưu lâm. Chi tiết này khiến người đọc cảm thấy cảm động hơn, trân trọng hơn tình yêu làng, tình yêu Tổ quốc, yêu kháng chiến của ông Hai. Giờ đây, tình yêu lớn lao sâu sắc ấy đã khiến ông quên mọi thứ ưu phiền, ông lại te tái đi khắp nơi để khoe. Mà lần này, ông khoe rành rọt, tỉ mỉ như chính ông vừa dự trận đánh ấy xong thật.
Đây lại là những lúc ông Hai lấy làm vinh dự về làng, tự hào về làng quê mình, anh dũng phá càn, thắng giặc.
Ông Hai là người gắn bó thiết tha với quê hương. Vì quê hương nên ông yêu nước, kính yêu cụ Hồ, hăng hái tham gia kháng chiến.
Văn hào I-li-a E-ren-bua có nói: lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu đồng quê trở nên lòng yêu Tổ quốc. Ông hai đúng là một con người như thế. Niềm vui, nỗi buồn của ông đều gắn với làng. Lòng yêu làng của ông chính là cội nguồn của lòng yêu nước.
Kim Lân đã từng được đánh giá là một cây bút hàng đầu về đề tài phong tục. Trong truyện Làng, sự thông hiểu về lề thói, phong tục của làng quê được ông vận dụng hết sức khéo léo vào xây dựng tâm lí, hành động, ngôn ngữ nhân vật. Cốt truyện đơn giản, sức nặng lại dồn cả vào mạch diễn biến tâm trạng, vào lời thoại của nhân vật nên câu chuyện có sức hấp dẫn riêng, ấn tượng riêng, độc đáo. Trong số rất nhiều những nhân vật nông dân khác, người đọc khó có thể quên ông Hai một người nông dân thuần phác, yêu làng, yêu quê tha thiết. Số phận của ông gắn liền với thăng trầm của làng quê. Nhà văn Kim Lân đã diễn tả được diễn biến tâm lí của người nông dân bằng một thứ ngôn ngữ bình dị gắn liền với lời ăn tiếng nói của quần chúng. Truyện Làng là một trong những truyện ngắn hay nhất của văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám.
3
0
Suny Sunny
29/01/2019 18:47:06
Cảm ơn bn nhiều ak
2
0
doan man
29/01/2019 19:02:45
câu 2.
Sinh ra trong một vùng đất giàu truyền thống văn hoá, tại một làng quê vừa đẹp vừa thơ mộng là làng Phù Lưu thuộc Bắc Ninh xưa, Kim Lân sớm hiểu làng, yêu làng và viết về làng quê bằng cái nhìn tinh tế, sắc sảo. Truyện ngắn Làng là một trong những truyện ngắn có vị trí nổi bật, truyện nói về lòng yêu nước của ông Hai - nhân vật chính của truyện là một người yêu làng, yêu nước. Tình yêu làng ở ông có những nét đặc sắc, riêng biệt, được thể hiện thành một cá tính đáng quý.
Ông Hai yêu nước và tự hào về làng Dầu, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi quê cha đất tổ của ông. Tình cảm ấy thể hiện trước hết ở cái tính hay khoe về làng, lấy làm hãnh diện về làng của mình. Đọc xong truyện, người ta có thể gọi ông Hai là ông Hai làng chợ Dầu hoặc ông Hai khoe đều được. Tên gọi thứ nhất dùng để chỉ nguồn gốc, còn tên gọi thứ hai dùng để chỉ đặc điểm. Mà thực ra thì có ai biết làng chợ Dầu của ông như thế nào. Người ta chỉ biết nó qua lời kể của ông là chính. Rồi qua từng thời kì khác nhau, lời kể, lời khoe của ông cũng thay đổi. Duy chỉ có tình yêu làng của ông vẫn thế, không hề thay đổi, không hề lay chuyển.
Vì yêu làng nên ông Hai không muốn xa làng, nhất là làng ông đang trong thờ kì chuẩn bị đánh giặc. Là một người nông dân hay lam hay làm, gặp lúc nhong nhong ngồi ăn, lại sống một nơi khác với cái làng yêu quý, ông Hai cảm thấy tù túng, bức bối, Để khuây khỏa, ông lại đi chơi. Mà lại đi chơi thì ông lại khoe! Ông khoe say sưa đến mức không đế ý đến người tiếp chuyện. Điều này cũng thật dễ hiểu. Buồn vui của làng trở thành buồn vui của chính ông lúc nào không rõ.
Trước Cách mạng tháng Tám, mỗi bận đi đâu xa ông thường khoe cái sinh phần của viên tổng đốc làng ông hoặc khi có khách bên họ ngoại ở dưới tỉnh Nam lên chơi, thế nào ông cũng dắt ra xem lăng cụ Thượng cho kì được... Ông có vẻ hãnh diện cho làng có được cái sinh phần ấy lắm. Chết! Chết tôi chưa thấy được cái dinh cơ nào mà lại được như cái dinh cụ Thượng làng tôi. Có lắm lắm là của, vườn hoa cây cảnh nom như động ấy!...
Từ chỗ say sưa, ông nhận vơ vào mình, ông thấy cái lăng ấy một phần như có ông. Muốn hay không, ông Hai đã khoe nhầm, tình yêu làng của ông khiến cho ông có phần mù quáng. Sau Cách mạng, nhờ giác ngộ chính trị, tuyệt nhiên người ta không thấy ông nhắc đến điểm son mà ông thường hay đem ra khoe trước đây. Thậm chí, ông còn bảo ông thù nó vì chính cái làng ấy làm khổ ông, làm khổ bao nhiêu người làng này nữa. Đối tượng khoe của ông Hai giờ là làng chợ Dầu đang trong khí thế sôi nổi, hào hùng thời khởi nghĩa: Trẻ, già, trai, gái tham gia cướp chính quyền, tập tự vệ, đào hào, đắp ụ chuẩn bị chống Pháp. Tất cả những chuyện này được ông Hai kể rành rọt từng cái một, cứ y như ông là người trong cuộc. Ông còn khoe làng ông có cái phòng thông tin thoáng mát nhất vùng với cái chòi phát thanh cao, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy.
Mồi lần kể chuyện về làng, ông nói một cách say sưa, náo nức lạ thường, hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển hoạt động. Tóm lại, ở ông, việc khoe làng đã trở thành một cái tật, một thứ nghiện. Ông nói về làng ông cho sướng cái miệng, cho đỡ nhớ cái làng. Ta hiểu đằng sau cái tật đó chính là tấm lòng chân thật gắn bó của ông với làng, là niềm tự hào chân chính của ông với quê hương.
Ông Hai say sưa kể những thành tích của làng, càng say sưa hơn khi nhớ lại những thành tích đó có một phần đóng góp của ông. Ông tự hào nhớ lại thuở ông gia nhập phong trào từ thời kỳ còn bóng tối, vác gậy đi tập một, hai. Khi dân làng tản cư, ông ở lại, cùng anh em đi đào đường, đắp ụ, công việc bộn bề, ông mải mê làm chẳng còn kịp nghĩ đến vợ con, nhà cửa nữa.
Ông là người nói được, làm được. Công việc chung của làng, ông nói say sưa mà làm cũng say sưa.
Vì ông yêu mến làng nên mọi đau khổ hay niềm vui sướng đều gắn với cái làng quê yêu dấu đó.
Khi bất đắc dĩ phải tản cư, ông buồn khổ lắm. Tiếc nhất là không được góp phần gánh vác công việc chung của những người còn lại.
Lòng yêu nước, yêu làng của ông Hai được thể hiện một cách cảm động qua diễn biến tâm trạng của ông. Tác giả đã sáng tạo ra một tình huống (có tin thất thiệt về làng chợ Dầu đã đi theo giặc) ông Hai vô cùng đau xót cổ ông nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được, ông cúi gầm cái mặt xuống mà đi. Về đến nhà, ông nằm vật ra giường không dám ló ra khỏi nhà. Ông buồn, ông xấu hổ. Ông tự tranh luận với mình, tự dằn vặt mình hoặc đâm cáu gắt với vợ con. Nhiều lúc nước mắt ông lão cứ chực tràn ra. Đêm, ông trằn trọc không sao ngủ được. Ông hết trở mình bên này, trở mình bên kia thở dài. Có lúc ông lão lặng hẳn đi, chân tay nhũn ra, tưởng chừng như không cất lên được. Tiếng đồn loang ra, cả gia đình ông vô cùng buồn khổ. Mụ chủ nhà đuổi khéo vợ chồng con cái ông ra khỏi nhà. Ông Hai rơi vào bế tắc, tuyệt đường sinh sống. Không thể trở về làng, vì về làng là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ. Cũng không thể đi đâu, vì ở đâu người ta cũng đuổi người làng chợ Dầu... Mâu thuẫn đến đây đã phát triển với cao trào, với tâm trạng của ông Hai được bộc lộ sâu sắc và cảm động hơn bao giờ hết.
Nhưng rồi cái tin thất thiệt về làng ông được cải chính. Đến lúc này, mọi nỗi đau của ông Hai biến mất. Mới đến ngõ, chưa kịp vào nhà, ông đã hô bỏ, rồi lật đật sang nhà bác Thứ, lật đật bỏ lên nhà trên, lật đật đi nơi khác để khoe. Vừa khoe vừa múa tay lên. Ông vui vì làng ông vẫn kiên gan đi theo kháng chiến, vui đến mức chuyện nhà ông bị Tây đốt nhẵn trở thành nhỏ bé, không đáng lưu lâm. Chi tiết này khiến người đọc cảm thấy cảm động hơn, trân trọng hơn tình yêu làng, tình yêu Tổ quốc, yêu kháng chiến của ông Hai. Giờ đây, tình yêu lớn lao sâu sắc ấy đã khiến ông quên mọi thứ ưu phiền, ông lại te tái đi khắp nơi để khoe. Mà lần này, ông khoe rành rọt, tỉ mỉ như chính ông vừa dự trận đánh ấy xong thật.
Đây lại là những lúc ông Hai lấy làm vinh dự về làng, tự hào về làng quê mình, anh dũng phá càn, thắng giặc.
Ông Hai là người gắn bó thiết tha với quê hương. Vì quê hương nên ông yêu nước, kính yêu cụ Hồ, hăng hái tham gia kháng chiến.
Văn hào I-li-a E-ren-bua có nói: lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu đồng quê trở nên lòng yêu Tổ quốc. Ông hai đúng là một con người như thế. Niềm vui, nỗi buồn của ông đều gắn với làng. Lòng yêu làng của ông chính là cội nguồn của lòng yêu nước.
Kim Lân đã từng được đánh giá là một cây bút hàng đầu về đề tài phong tục. Trong truyện Làng, sự thông hiểu về lề thói, phong tục của làng quê được ông vận dụng hết sức khéo léo vào xây dựng tâm lí, hành động, ngôn ngữ nhân vật. Cốt truyện đơn giản, sức nặng lại dồn cả vào mạch diễn biến tâm trạng, vào lời thoại của nhân vật nên câu chuyện có sức hấp dẫn riêng, ấn tượng riêng, độc đáo. Trong số rất nhiều những nhân vật nông dân khác, người đọc khó có thể quên ông Hai một người nông dân thuần phác, yêu làng, yêu quê tha thiết. Số phận của ông gắn liền với thăng trầm của làng quê. Nhà văn Kim Lân đã diễn tả được diễn biến tâm lí của người nông dân bằng một thứ ngôn ngữ bình dị gắn liền với lời ăn tiếng nói của quần chúng. Truyện Làng là một trong những truyện ngắn hay nhất của văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám.
8
0
Quỳnh Anh Đỗ
04/02/2019 14:03:12
C1:
Đọc sách đúng là nhu cầu không thể thiếu được trong xã hội hiện đại. Đó là con đường để tích lũy tri thức, kĩ năng, chuẩn bị cho sự hòa nhập cộng đồng, thích ứng với môi trường và cống hiến cho xã hội. Bài "Bàn về đọc sách" của Chu Quang Tiềm đã cho ta thấy rõ điều đó. Bài học tư tưởng thấm thía, đáng để ta học tập. Đó là bài học làm người, muốn mau trưởng thành thì phải thường xuyên học tập, rèn luyện tu dưỡng. Để có được học vấn thì phải thường xuyên đọc sách, nhưng đọc sách cũng cần phải có cách đọc đúng. Đọc sách cần phải đọc sao để hiểu cho sâu, nhớ cho kĩ, tránh cách đọc lướt qua. Đọc sách cần có sự chọn lọc, đọc từ những quyển cơ bản rồi đọc đến nâng cao, đọc nhiều đọc rộng đọc bao quát kiến thức rồi tóm lược lại, có như thế mới nắm chắc kiến thức.
Ngày nay, có nhiều phương tiện thu nhận thông tin. Người ta có thể xem Ti vi, nghe đài phát thanh và đón nhận nguồn thông tin rất đa dạng, phong phú qua mạng Internet, nhưng đọc sách vẫn là cách thu nhận thông tin không thể thay thế.Từ xưa đến nay, bất luận trong hoàn cảnh nào, sách vẫn là một công cụ, một phương tiện hữu ích đối với loài người; trên thế giới cũng như ở Việt nam, nhiều bậc hiền tài, nhiều chí sỹ yêu nước, nhiều nhà khoa học, nhiều bác học uyên thâm, lỗi lạc cũng trưởng thành nhờ khổ luyện “dùi mài kinh sử” mà nên, với nhiều người, sách được coi là “gối đầu giường”, và thậm chí nhiều người còn được ví là “con mọt sách”. Ngày nay, dù xã hội phát triển ngày càng văn minh, phồn thịnh, loài người vẫn một mực trung thành, tôn vinh sách và lấy ngày 23 tháng 4 hàng năm làm “ngày đọc sách thế giới”.
Chúng ta phải công nhận rằng sách có vai trò vô cùng quan trọng đối với đời sống con người. Những năm gần đây, cùng với sự phát tiển như vũ bảo của kinh tế - xã hội, sự bùng nổ của công nghệ thông tin, sự đột phá ngoạn mục của khoa học kỷ thuật; Internet phát triển, sự học-sự đọc của nhân dân nói chung và của học sinh - sinh viên nói riêng mở ra nhiều cơ hội và kênh thông tin để chọn lựa, tuy nhiên, cho đến nay loài người vẫn không thể phủ nhận được vai trò, chức năng vị thế của sách, báo, tạp chí nhằm cung cấp cho xã hội lượng tri thức khổng lồ mà loài người đã dày công sáng tạo và đúc kết, nhiều tri thức khoa học được chuyển tải, nhiều phát minh, sáng chế được cập nhật; nhiều sự kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đến được với nhân loại qua sự đọc, sự tự học và tìm kiếm của mỗi một chủ thể - con người.
V.I Lê Nin đã từng nói: “Không có sách thì không có tri thức, không có tri thức thì không có Chủ nghĩa xã hội”. Đọc để biết, để biến lý luận thành thực tiễn, biến những kiến thức từ sách vở thành hiện thực trong đời sống và từ những kinh nghiệm thực tế làm phong phú hơn, sâu sắc hơn vốn hiểu biết cũng như kho tàng lý luận...
Đọc để giúp ta mở mang tầm hiểu biết, nó còn là phương tiện cần thiết nhất, hiệu quả nhất để đào tạo cho mình một cơ sở học vấn vững vàng, qua đó nuôi dưỡng tâm hồn con người ta được thăng hoa, gieo vào lòng người những ước mơ tốt đẹp, giúp con người đủ bản lĩnh, trí tuệ để chinh phục những đỉnh cao của vinh quang bởi sách chính là kho tàng tri thức nhân loại, do đó đọc sách không chỉ đơn thuần là món ăn tinh thần, là khâu giải trí. Sách còn là công cụ quan trọng nhất giúp cho việc tự học và tự tu dưỡng.
Đọc sách, báo là cần thiết, có ý nghĩa lớn trong việc nâng cao trình độ, tự hoàn thiện bản thân. Song không phải ai đọc sách cũng thu được kết quả như mong muốn, để nâng cao chất lượng và hiệu quả đọc sách, cần phải có phương pháp và kỹ năng đọc. Cần hiểu rằng: phương pháp và kỹ năng đọc do kết quả học tập, rèn luyện và kinh nghiệm rút ra của từng người từ thực tế mà hình thành nên, bởi kết quả của kỹ năng và phương pháp đọc phụ thuộc vào khả năng nhận thức, tình hình sức khỏe, thói quen lao động của mỗi người là khác nhau. Nhưng nếu tự bản thân mỗi người cố gắng và luyện tập thì sẽ đọc tốt thu được nhiều kết quả…Mục đích chung của việc đọc sách là nâng cao nhận thức, hiểu biết về những vấn đề nào đó trong đời sống, chính trị xã hội …. Ngoài mục đích chung, có mục đích riêng do nhu cầu của từng người đọc. Vì vậy việc xác định mục đích giúp người đọc tập trung được chú ý vào những vấn đề mình cần khai thác.
Một trong số những vấn đề mà chúng ta đang rất quan tâm là việc lựa chọn sách tốt. Trong tình hình hiện nay, sách vở ngày càng nhiều thì việc chọn sách lại càng không dễ. Sách nhiều khiến người ta không chuyên sâu, dễ sa vào lối “ăn tươi nuốt sống”, không kịp tiêu hoá. Sách nhiều khiến người đọc khó chọn lựa, lãng phí thời gian. Vì vậy, chúng ta phải có cách lựa chọn sách phù hợp. Đó là phải cân nhắc kĩ để chọn cho mình những quyển sách thực sự có giá trị, có lợi cho mình, cần đọc kỹ cuốn sách thuộc lĩnh vực chuyên môn, chuyên sâu của mình, cần đảm bảo nguyên tắc “vừa chuyên vừa rộng”, trong khi đọc tài liệu chuyên sâu, cần chú ý các loại sách thường thức, kế cận với chuyên môn.
Cần phải hiểu rằng: Quỹ thời gian làm việc của mỗi người trong ngày có hạn, trong khi đó khối lượng công việc cũng như khối lượng sách cần đọc của chúng ta lại rất nhiều. Vì vậy, mỗi người cần phải có phương pháp đọc sách khoa học để tiết kiệm thời gian đạt hiệu quả cao khi đọc sách. Một số phương pháp đọc hiệu quả như: Không đọc lấy số lượng. Không nên đọc lướt qua, đọc để trang trí bề mặt mà phải vừa đọc vừa suy ngẫm: “trầm ngâm - tích luỹ - tưởng tượng"; đọc có kế hoạch, có hệ thống, không đọc tràn lan theo kiểu hứng thú cá nhân; ý nghĩa của việc đọc sách đối với việc rèn luyện nhân cách, tính cách con người. Đọc sách còn là một công việc rèn luyện, một cuộc chuẩn bị âm thầm và gian khổ cho tương lai.Đọc sách không chỉ là việc học tập tri thức mà còn là chuyện rèn luyện tính cách, chuyện học làm người. Chu Quang Tiềm đã ví việc đọc sách giống như đánh trận: Cần đánh vào thành trì kiên cố, đánh bại quân tinh nhuệ, chiếm cứ mặt trận xung yếu, mục tiêu quá nhiều, che lấp mất vị trí kiên cố. Chỉ đá bên đông đấm bên tây hoá ra thành lối đánh “tự tiêu hao lực lượng”. Cách nói ví von, lập luận chặt chẽ của tác giải đã làm tăng sức thuyết phục đối với chúng ta.
Tóm lại, việc đọc sách có ý nghĩa to lớn với tất cả mọi người, thông qua đọc sách giúp mỗi người nâng cao trình độ nhận thức, kiến thức để tự hoàn thiện bản thân hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Không như các phương tiện thông tin khác tuy nhanh nhạy và kịp thời, nhưng sách báo lại tạo điều kiện cho người đọc hiểu cặn kỳ và sâu sắc hơn về nội dung thông tin. Chính vì vậy, dù ngày nay có nhiều phương tiện thông tin hiện đại nhưng không thể thay thế được các loại sách báo rất phong phú đa dạng về mọi lĩnh vực hoạt động trong đời sống xã hội.
2
0
Quỳnh Anh Đỗ
04/02/2019 14:05:49
C2:

Ông Hai là một nông dân ở làng Chợ Dầu. Ông rất yêu làng của mình với một tình cảm rất sâu sắc. Ông luôn hào hứng khi nói tất cả những gì liên quan đến cái làng Chợ Dầu. Và một ngày, ông nghe tin làng theo giặc, ông đau đớn, tủi hổ không dám nhìn mặt ai, cũng không dám bước chân ra khỏi nhà mà chỉ tâm sự với đứa con nhỏ trong nhà về một niềm tin tuyệt đối vào cách mạng và Bác Hồ. Sau đó, tin làng Chợ Dầu theo giặc được cải chính. Ông Hai mừng rỡ, hân hoan đi khắp nơi khoe về điều đó mặc dù nhà ông đã bị Tây đốt. Trong câu chuyện, Kim Lân đã tạo nên một tình huống éo le làm bộc lộ rõ tâm trạng của ông Hai. Đọc bài “Làng” thì hẳn ai cũng biết ông Hai là một người rất yêu và tự hào về làng Chợ Dầu của mình. Vậy mà trong lúc đi dạo ông lại nghe tin làng mình làm Việt gian theo Tây từ những người tản cư từ dưới làng lên. Đó là tình huống bất ngờ làm tổn thương tình yêu làng của ông Hai và khiến ông hết sức đau khổ, đau xót.

Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của tác giả rất tinh tế và sâu sắc. Kim Lân đã miêu tả rất cụ thể các diễn biến nội tâm qua ngoại hình, cử chỉ, ý nghĩa của nhân vật ông Hai. Hay hơn nữa là nhà văn miêu tả tâm lý nhân vật ông Hai không phải trong một khắc, một đoạn mà là cả một quá trình diễn biến hợp lí qua các chặng.

Nỗi bất hạnh lớn đổ xuống đầu ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc khiến ông sững sờ, choáng váng: “Cổ ông lão nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân…” Lúc về đến nhà, ông nằm trên giường, nửa tin nửa ngờ: “Chả lẽ ở làng lại đốn đến thế chăng?”. Ông không dám ló mặt ra ngoài, suốt ngày chỉ ở trong nhà mà thôi. Hễ nghe thấy hai từ “Việt gian” là ông lại tự nhủ: “Thôi lại chuyện đấy rồi” Khi mụ chủ nhà biết chuyện làng chợ Dầu theo giặc thì lại có ý đuổi khéo gia đình ông đi. Ông Hai đã rơi vào trạng thái bế tắc hoàn toàn: “Biết đi đâu bây giờ. biết ở đâu có bố con ông mà đi bây giờ?”. Ông đã có ý nghĩ trở về làng nhưng ngay lập tức ông gạt phăng cái ý nghĩ ấy đi.

– Làng đã theo Tây, về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ, cam chịu trở về với kiếp sống vô lệ.

Chính vì vậy ông đã không còn cách nào khác ngoài tâm sự cùng đứa con út bé bỏng.

– Nhà ta ở đâu?

– Ở làng Chợ Dầu

– Con ủng hộ ai?

– Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm!

Ôi yêu làng, ông muốn khắc sâu vào trái tim bé bỏng của con tình cảm đối với làng, đối với kháng chiến, với Cụ Hồ. Đó cũng chính là tấm lòng yêu nước chung thuỷ với cách mạng của ông.

Khi tin đồn đưọc cải chính, thái độ buồn thiu thường ngày của ông biến mất hẳn, ông rạng rỡ hẳn lên. Ông vội vàng chia quà cho các con, chạy khắp nơi để khoe: “Tây nó đốt nhà tôi rồi. Đốt nhẵn! Ông chủ tịch… làng chợ Dầu chúng tôi đi Việt gian. Láo! Toàn là sai cả!” Ở đây, nhà văn Kim Lân đã để cho nhân vật cùa mình cứ hả hê sung sướng trước cái sự lẽ ra phải đau khổ, tác giả đã rất hiểu cái tâm lí thông thường của con người rất tinh tế.

Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân có một nghệ thuật xây dựng nhân vật và miêu tả tâm trạng nhân vật hết sức đặc sắc. Truyện đã ca ngợi tình yêu làng, yêu nước của những con người Việt Nam trong kháng chiến. Tâm trạng của ông Hai cũng là tâm trạng cùa biết bao người nông dân trên mọi nẻo đường của Tổ quốc. Vừa gợi sự thân thuộc vừa gây ấn tượng mạnh mẽ, để lại cho người đọc những cảm xúc khó quên.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 9 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư