Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Viết đoạn văn nêu lên cảm nghĩ của em về một nhân vật mà em đã học trong học kì I

3 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
416
1
0
Mei Dee
11/11/2018 20:48:21
Cảm nhận về nhân vật văn học: Lão hạc
Bài làm
Nhà văn Nam Cao là nhà văn của phong trào hiện thực. Những tác phẩm của nhà văn Nam Cao đều có giá trị nhân văn sâu sắc. Mỗi tác phẩm đều là một bản tuyên ngôn nghệ thuật của tác giả Nam Cao.
Qua những tác phẩm của mình tác giả Nam Cao đã thể hiện cái nhìn nhân sinh quan của mình với thời cuộc, với những mảnh đời nông dân bất hạnh chịu nhiều éo le trong cuộc sống.
Tác phẩm Lão Hạc của Nam Cao lấy bối cảnh trong những năm 1945 khi mà nước ta đang lâm vào nạn đói trầm trọng, người nông dân khốn khổ bởi chế độ một cổ hai tròng.
Truyện ngắn Lão Hạc được tác giả Nam Cao viết lại qua lời kể của thầy giáo Thứ một nhân vật trong truyện. Thể hiện sự tinh tế của tác giả, đồng thời thể hiện sự công bằng khách quan hơn trong cách kể về nhân vật Lão Hạc.
Qua những lời kể mộc mạc, giản dị của tác giả Nam Cao đã khắc họa lên một người nông dân gầy gò khắc khổ, nhưng hiền lành, lương thiện. Ông có tấm lòng yêu thương con bao la vĩ đại, một tình cảm thương con vô bờ bến.
Thông qua những lời văn của mình Nam Cao đã tái hiện lại một xã hội Việt Nam với những mảnh đời bất hạnh vì nghèo khổ, túng quẫn, thể hiện tinh thần nhân văn, nhân hậu của tác giả khi ông đồng cảm với những số phận của người nông dân bần cùng.
Cuộc đời Lão Hạc có nhiều bất hạnh, vợ lão mất sớm lão có chỉ có người con trai là người thân duy nhất, là nguồn sống của lão. Nhưng sau khi con trai lão bị người yêu phụ tình vì quá nghèo. Nên nó sinh chán đời xin đi đồn điền cao su làm phu cao su. Con trai lão trước khi ra đi có lời thề nguyền rằng bao giờ có tiền mới về nhà.
Nhưng, đồn điền cao su là nơi nổi tiếng vất vả, bóc lột sức lao động của con người. Những người đi đồn điền cao su khi đi thì to khỏe, lực lưỡng, lúc về thì ai cũng gầy gò, bủng beo, bệnh tật. Nhiều người đi nhưng không còn mạng để trở về vì những khắc khổ, ở vùng đó.
Trước khi ra đi con trai lão có mang về một con chó. Con trai lão đi rồi lão nuôi con chó và coi nó như là con trai mình. Lão thương nó như tình cảm của người cha dành cho con trai mình lão ăn gì thì nó ăn đó. Lão Hạc thường âu yếm gọi con chó của mình là Cậu Vàng. Lão kể cho nó nghe đủ thứ chuyện vui buồn trong cuộc sống của mình. Nó giống như đứa con nhỏ của lão vậy.
Những ngày tháng cô đơn lẻ loi, lão Hạc chỉ có con chó là niềm vui là nguồn tâm sự, là niềm vui của cuộc đời mình. Nhưng trong thời buổi đói kém, khó khăn, đến nuôi thân còn không nổi, lại nuôi thêm con chó, nên lão không còn cách nào khác phải bán con chó của mình đi.
Lão Hạc chính là hình ảnh đại diện của người nông dân trong bối cảnh nghèo khó tũng quẫn đó. Một người nông dân bị dồn tới đường cùng của sự nghèo khó, chèn ép, cô đơn… Nhưng dù thế nào lão cũng vẫn giữ được phẩm hạnh, đạo đức làm người của mình, lão nhất định không để cái xấu, cái ác thao túng tâm hồn mình.
Lão Hạc có một mảnh vườn là tài sản của vợ lão để lại cho con trai trước khi bà ấy qua đời. Nhưng con trai lão đi mãi không về. Gia đình của Bá Kiến nhiều lần nhăm nhe, tìm cách gạ gẫm lão bán rẻ mảnh vườn cho gia đình lão Bá Kiến nhưng lão Hạc cương quyết không bán. Gạ mua không được gia đình Bá Kiến đang âm mưu cướp không mảnh vườn của lão Hạc.
Chúng định dùng thủ đoạn vu oan giá họa cho lão Hạc tôi ăn cắp chưa chấp đồ quốc cấm rồi tống lão vào tù thế là buộc lòng lão Hạc phải gán nợ mảnh vườn cho gia đình Bá Kiến để không phải chịu cảnh tù đày oan ức. Một xã hội mà người xấu, kẻ ác làm chủ xã hội khiến cho những người nông dân nghèo khổ như lão Hạc đã nghèo khổ càng nghèo khổ hơn.
Lão Hạc biết âm mưu của Bá Kiến nên ông đã nhanh hơn một bước. Ông mang hết giấy tờ nhà đất, rồi tiền bạc dành dụm được sang nhà anh giáo Thứ gửi ở bên đó, nhờ anh khi nào con trai lão về thì đưa cho con trai lão. Còn tiền lão gửi để chẳng may lão có mệnh hệ nào không sống được thì nhờ anh giáo và bà con làng xóm làm ma chay giúp mình.
Lão Hạc là người nông dân lương thiện có tấm lòng thương con vô bờ bến, thà chết chứ nhất định không để mất tài sản danh dụm cho con. Lão chết rồi cũng không muốn làm phiền tới hàng xóm, một người có lòng tự trọng, đến chết vẫn còn tự trọng.
Cái chết của lão Hạc là một tình tiết nhiều bi kịch nó lấy đi của người đọc rất nhiều nước mắt. Nó chính là hành động tố cáo tội ác của xã hội cũ một cách sâu sắc. Một xã hội thối nát chà đạp lên quyền sống, quyền làm người của những người nông dân khốn khổ, cơ cực.
Một xã hội nhiều bất công đẩy những người hiền lành lương thiện vào chỗ đường cùng phải tự tìm tới cái chết để giải thoát chính mình

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
doan man
11/11/2018 20:50:22
Lão Hạc là một nông dân bình thường, phải sống trong áp bức bóc lột của xã hội phong kiến. Vợ mất, con trai vì không cưới được vợ mà phẫn chí đi làm đồn điền cao su. Lão thương con, mong muốn con được hạnh phúc… nhưng lão cũng không biết làm cách nào để chu toàn hạnh phúc cho con, chỉ biết khóc mà nhìn con đi. “Đồn điền cao su đi dễ khó về”. Lão biết chứ, nhưng cũng có thể nào cản được?! Hằng ngày, lão chỉ biết quanh quẩn với con chó Vàng – kỉ vật duy nhất của người con. Lão thương yêu, chăm sóc nó cẩn thận đến mức chia cho nó từng miếng ăn, cho nó ăn vào bát và trò chuyện với nó như người bạn. Lão cưng chiều nó không phải vì nó là một con chó đẹp, cho khôn. Lão thương nó vì nó như mối ràng buộc duy nhất còn sót lại của lão và con trai lão. Lão xem nó như con, và khi lão nhìn nó, lão lại nhớ con trai mình…

Lão thương con, vâng, và thà rằng dù chết đói lão cũng không muốn bán đi một sào vườn. Lão sợ nếu lão bán, mai này con trai lão có trở về thì nó sẽ ở đâu mà sống? Ở đâu mà lập nghiệp sinh nhai?! Một sự thật hiển nhiên, rằng nếu lão bán đi mảnh vườn thì lão sẽ vượt qua được giai đoạn khốn khó. Nhưng lão không bán! Vì sao? Vì, lão-thương-con.

…Tuổi già, cô đơn và nghèo đói!...

Cuộc đời đau khổ dồn ép lão đến bên bờ vực thẳm, không còn cách nào khác, lão đánh phải đứt ruột mà bán đi con chó Vàng lão hằng yêu thương; để rồi khi bán xong, lão lại hu hu khóc như con nít vì đã trót lòng lừa gạt một con chó…

Rồi lão sang nhà ông Giáo, gửi ông ba mươi đồng bạc và nhà trông coi hộ mảnh vườn. Kể từ sau hôm đó, lão Hạc chỉ ăn khoai. Khi khoai hết thì lão chế được món gì, ăn món ấy; rồi đến chuối, sung luộc, rau má,…

Dù đói nghèo là vậy, nhưng lão cũng tuyệt không bị tội lỗi cám dỗ. Lão không theo Binh Tư ăn trộm hay cố nương nhờ vào ai để sống. Thử hỏi một người dù chết cũng không muốn làm phiền hàng xóm làm sao dám làm gánh nặng cho ai? Thời đó khổ lắm, lão khổ, láng giềng cũng đâu thua gì… Ông Giáo âm thầm giúp lão, lại bị lão từ chối một cách gần như là “hách dịch” đấy thôi…!

Rồi … cái gì đến cũng phải đến. Cái chết đến bất ngờ và hơi đột ngột, lão chết trong đau đớn, tủi hờn. Chết vì ăn bả chó! Lão có thể lựa chọn cho mình cái chết nhẹ nhàng hơn, nhưng lão vấn lựa chọn cách chết như một con chó. Là … lão hận mình đã lừa chết “cậu” Vàng sao?
0
0
nguyễn trà my
11/11/2018 22:09:56

Cảm nghĩ của em về nhân vật chị Dậu của nhà văn Ngô Tất Tố qua tác phẩm Tắt đèn.

BÀI LÀM

Ngô Tất Tố là nhà văn của nông dân và là một trong những tác giả tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán. Ông có vị trí tương đối vẻ vang trong lịch sử văn học Việt Nam trước Cách mạng.

Tắt đèn là tác phẩm có giá trị hiện thực và sức mạnh tố cáo sâu sắc. Viết về nạn thuế thân, tập trung vào mấy ngày thu thuế, Ngô Tất Tố đã phản ánh hiện thực nông thôn đương thời một cách tập trung và điển hình. Qua mấy ngày “sưu thuế giới kỳ” này, tình cảnh thảm thương của người nông dân cũng như bản chát tham lam tàn ác của bọn thống trị phơi bày ra rõ nét hơn lúc nào hết.

Với số trang hạn chế, Tắt đèn mô tả khá đủ mặt những lực lượng thống trị ở nông thôn trước Cách mạng. Đấy là bọn cường hào tàn nhẫn đè nén ức hiếp nông dân, chỉ chờ có dịp “đục nước” để được “béo cò”. Chúng nịnh bợ quan trên bòn hút của người nghèo. Đây là bọn địa chủ “đầu trâu mặt ngựa ăn thịt người không biết tanh”, vừa dốt nát, vừa keo kiệt ti tiện, mà điển hình là Nghị Quế. Hắn làm giàu một cách rất “cổ điển” là cho vay nặng lãi và chiếm đoạt ruộng đất của nông dân. Luôn luôn tỏ ra “am hiểu thời thế”, “cái gì cũng nhắc đến Tây”. Là nghị viện hẳn hoi, nhưng hắn có đức “không thèm biết chữ”. Đó là bọn quan lại bỉ ổi dùng vợ làm một phương tiện thăng quan tiến chức như tri phủ Tư Ân. Đằng sau chúng. Ngô Tất Tô bằng ngòi bút thâm thúy của mình vẫn cho người đọc hình dung ra ít nhiều hình ảnh đen tối của bọn thực dân - tác giả của những tấm thẻ sưu. Bằng một ngòi bút hiện thực sắc sảo, chỉ cần một vài nét, nhà văn đã vạch trần bản chất xấu xa của chúng, mặc dù mỗi đứa lại có một dáng vẻ riêng.

Tuy vậy, giá trị to lớn độc đáo của tác phẩm Tắt đèn không phải ở chỗ phê phán xã hội đương thời, mà ở chỗ nhà văn đã xây dựng được một hình tượng chân thực đẹp đẽ về người phụ nữ nông dân. Xây dựng thành công nhân vật chị Dậu, Ngô Tất Tố đã góp vào văn học Việt Nam một nhân vật hấp dẫn. Nói như Nguyễn Tuân, chị Dậu xứng đáng là “tất cả của Tắt đèn".

Chị Dậu có thể tiêu biểu cho hàng triệu phụ nữ Việt Nam trước Cách mạng. Hai vợ chồng chị “đầu tắt mặt tối không dám chơi ngày nào” mà vẫn “cơm không đủ no, áo không đủ mặc”, gia đình “lên đến bậc nhì, bậc nhất trong hạng cùng đinh”. Thế rồi, anh Dậu đau ốm, vụ thuế đến cùng với biết bao tai họa... Viết về số phận của người phụ nữ nông thôn, Ngô Tất Tố đã đặt ra được một vấn đề bức thiết nhất: cơm áo quyền sống của con người. Hình tượng chị Dậu có sức khái quát cao chính ở điểm này.

Giống như nhiều nhân vật phụ nữ trong văn chương truyền thống, chị Dậu vốn là một phụ nữ xinh đẹp nết na... Gặp hoàn cảnh hoạn nạn, nhân vật này trở thành “đốm sáng đặc biệt” (Nguyễn Tuân) khiến người đọc cảm thương trân trọng.

Chị Dậu một phụ nữ có tinh thần vị tha yêu chồng, thương con tha thiết. Việc chị tìm mọi cách đổ cứu chồng ra khỏi cảnh cùm kẹp, chị ân cần săn sóc anh Dậu, đặc biệt hành động dũng cảm lấy thân mình che chở cho người chồng đau ốm trước thái độ hung hãn của hai tên tay sai... cũng làm cho người đọc yêu mến và khâm phục. Chính tình yêu thương chồng đã tạo nên ở chị một sức mạnh quyết liệt bất ngờ.

Cũng như nhiều bà mẹ Việt Nam khác, chị Dậu rất mực thương con, chiều con. Cùng quẫn, buộc phải bán đứa con đầu, chị như đứt từng khúc ruột, lúc nào cũng nghĩ “còn có ngày nào đem được nó về nữa không”. Ngay đến khi bị giải lên huyện, nhịn đói với “sợi dày thừng gò ở hai cánh tay”, chị vẫn nghĩ đến cái Tỉu, thằng Dần, cái Tý.

Đứng trước khó khăn bất ngờ, tưởng chừng không thể vượt qua - phải nộp "một lúc hai suất sưu, anh Dậu thì đau ốm, đàn con thì bé dại... tất cả trông chờ vào sự chèo chống của chị. Trên thực tế, chị thành chỗ dựa của cả gia đình.

Đây cũng là một phụ nữ có ý thức sâu sắc về nhân phẩm. Chị đã từng phải : "chịu đứng vì số" tiền nộp sưu, nhưng chị vẫn đủ can đảm ném thẳng nắm giấy vào mặt tên tri phủ Tư Ân. Hai lần bị cưỡng hiếp, chị đều thoát ra được. Đây chính là những biểu hiện đẹp đẽ của nhân phẩm, của tinh thần tự trọng.

Thông minh sắc sảo, có tinh thần quật khởi, ý thức sâu sắc về nhân phẩm... nhân vật chị Dậu còn toát lên vẻ đẹp mộc mạc của người phụ nữ nông thôn. Chị vống ở nơi tăm tối bị ức hiếp đè nén, nhưng tâm hồn vẫn sáng trong như đóa hoa sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.

Tóm lại, bằng thái độ trân trọng và sự hiểu biết sâu sắc về nông thôn và nông dân, Ngô Tất Tố đã xây dựng thành công nhân vật chị Dậu, với tất cả những nỗi khổ sở đau xót, và đặc biệt với những phẩm cách trong sạch. Chính những yếu tố tích cực này khiến cho chị Dậu trở thành một “chân dung lạc quan”, luôn muốn “tung ra, khỏi bóng tối” (Nguyễn Tuân), vượt qua cái nhìn bi quan bế tắc của tác giả về tiền đồ của người nông dân.

Về mặt nghệ thuật, tác phẩm Tắt đèn ghi nhận một thành tựu xuất sắc của tiểu thuyết truyền thống.

Tắt đèn có cốt truyện rõ ràng, tình tiết mạch lạc, chặt chẽ, lời văn gọn gàng. Giống như các tiểu thuyết truyền thống, hệ thống nhân vật được chia thành hai tuyến hoàn toàn đốì lập nhau: chính diện và phản diện. Nhân vật chính diện thường có ngoại hình đẹp với tư tưởng tình cảm trong sáng. Ngược lại nhân vật phản diện thường có ngoại hình xấu, hành vi tàn ác với tư tưởng tình cảm xấu xa.

Trong Tắt đèn, Ngô Tất Tố đã khác họa được một số tính cách gần như những thuộc tính chung cho một giai cấp, một tầng lớp. Chị Dậu là nhân vật chính diện đẹp người, đẹp nết., tiêu biểu cho những người nông dân lao động. Nghị Quế là nhân vật phản diện ngu dốt, thô lỗ, tham lam, tàn nhẫn... tiêu biểu cho tầng lớp bóc lột. Nhân vật trong Tắt đèn ít khi có sự xung đột nội tâm và hầu như không biên đổi qua hoàn cảnh (chị Dậu trước sau vẫn là một người vị tha, đảm đang, chung thủy, thông minh...).

Nhân vật trong Tắt đèn, phần nhiều có sức khái quát cao, tuy vậy, các nhân vật này cũng khó tránh khỏi tình trạng công thức, lược đồ.

(Trước đây một số sách cho rằng: Qua Tắt đèn, Ngô Tất Tố đã xây dựng được một nhân vật điển hình - chị Dậu, trong một hoàn cảnh điển hình - làng Đông Xá khi mùa sưu thuế đến. Đến nay khái niệm “nhận vật điển hình” cần phải hiểu theo một cách chặt chẽ hơn).

Một hạn chế của tác phẩm Tắt đèn là nhà văn chưa nhìn thấy tiền đồ của những người nông dân mà ông trân trọng yêu quý. Tác giả đặt tên cho tác phẩm là Tắt đèn và kết thúc tác phẩm bằng cảnh “trời tối om như mực” và cái tiền đồ của chị Dậu.

Song, như đã phân tích ở trên, nhân vật chị Dậu có phần nào thoát khỏi cảm quan hiện thực đen lối của tác giả, gieo vào lòng người đọc ít nhiều niềm hy vọng ở sự đổi đời của người nông dân lao động.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k
Gửi câu hỏi
×