LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Viết một bài văn cảm nhận bài thơ Tràng Giang của nhà thơ Huy Cận

3 trả lời
Hỏi chi tiết
415
1
0
Nguyễn Hữu Huân
29/12/2018 19:24:47
Huy Cận là một trong những tác giả xuất sắc nhất trong phong trào thơ mới. Thơ ông rất giàu chất suy tưởng, triết lí, luôn thể hiện sự giao cảm giữa con người và vũ trụ. Tràng giang là một trong những bìa thơ tiêu biểu của tác giả, thể hiện đầy đủ tư tưởng và phong cách thơ của nhà thơ.
Ngay ở câu đề từ của bài thơ, nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn của cảnh vật cũng như của tâm trạng người thi sĩ, lời đề từ đã thâu tóm ngắn gọn và chính xác cả cảnh lẫn tình của bài thơ.
Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngã
Củi mội cành khô lạc mấy dòng
Đứng trước cảnh mênh mông sông nước, nỗi buồn của tác giả như được nhân lên. Ngay ở khổ thơ đầu tác giả đã dùng ngôn ngữ giàu hình ảnh để khái quát về cảnh vật, qua những cảnh vật ấy tác giả muốn thể hiện tâm trạng của mình. Hình ảnh "sóng gợn" gợi cho ta liên tưởng tới những làn sóng đang lan ra, loang ra đến vô tận cũng giống như nổi buồn của nhà thơ âm thầm mà da diết khôn nguôi. Con sóng ở giữa một dòng sông dài và rộng càng làm cho nỗi buồn của nhà thơ được nhân lên. Cảnh con thuyền và mọi cảnh vật đều cô đơn càng làm cho người thi sĩ mang đầy tâm sự trong lòng không biết bày tỏ tâm trạng cùng ai. Tác giả đã dùng những hình ảnh hết sức đời thường để đưa vào thơ ông và đó là sự sáng tạo độc đáo trong phong cách thơ của ông.
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng bến cô liêu
Lại một lần nữa tác giả đã dùng những hình ảnh "cồn, gió, làng, chợ, bến" để giãi bày tâm sự của mình. Bằng cảm nhận của tác giả cảnh vậy trở nên thưa và vắng mang đậm nét buồn, làm cho cảnh vật vắng lặng, buồn tẻ, im ắng và cũng chính vì im ắng nên nhà thơ cảm nhận được.
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Tác giả nhận được những âm thanh sinh hoạt của đời sống hằng ngày, nhưng âm thanh đó không rõ ở chỗ nào. Nhà thơ đã cố gắng tĩnh tâm để nghe ngóng cái âm thanh mơ hồ kia, nhưng không thể cảm nhận được và nhà thơ đã chuyển nhãn quan của mình đến một điểm mới.
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng bến cô liêu
Nhà thơ sử dụng nghệ thật đối ý nắng xuống và trời lên để gợi sự chuyển động hai chiều của đất trời và cũng là nỗi buồn trong tâm trạng của nhà thơ. Đứng giữa một vùng mênh mông sông nước, đất trời hun hút, con người càng nhỏ bé hơn và nỗi buồn thì dài vô tận.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Hình ảnh cánh bèo gợi cho ta liên tưởng tới một kiếp người trôi nổi, lênh đênh. Bèo trôi không biết dạt về đâu, không có một cái cầu, không chuyến đò để đưa khách, cảnh tưởng như vậy thì làm sao con người thoát được nỗi buồn. Miêu tả cảnh vật đó, tác giả đã thể hiện niềm khát khao giao cảm với đời, mong muốn thoát khỏi nỗi buồn u uất của cuộc đời để có cuộc sống tốt đẹp hơn.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Sau khi ngắm hết những cảnh vật xung quanh mình, nhà thơ đã hướng nhãn quan của ông đã hướng lên vũ trụ và ông thấy hình ảnh đầu tiên là những đám mây, với từ "đùn" cho thấy chúng chồng xếp mạnh mẽ lên nhau thành núi sau đó được ánh hoàng hôn chiếu vào tạo ra màu sắc lấp lánh mà nhà thơ gọi nó là "núi bạc". Hình ảnh này tuy rực rỡ nhưng lại ẩn chứa nổi buồn của ông, giống như nổi buồn của ông tích tụ như núi.cùng với đám mây còn có hình ảnh cánh chim.
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Tác giả đã dùng tự láy "dợn dợn" để diễn tã những con sóng vời theo con nước lan tỏa ra tích tắt cho thấy nổi nhớ nhà luôn thường trực trong ông và sẵn sàng lan tỏa ra khắp nơi.
Bài Tràng giang đã thể hiện nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương đến da diết của nhà thơ. Đứng trước cảnh thiên nhiên rộng lớn, nhà thơ đã tức cảnh mà sinh tình, đó là tình cảm chân thành với quê hương đất nước của nhà thơ. Với cách tiếp cận với những vấn đề gần gũi trong cuộc sống, Tràng giang đã trở thành một sáng tác tiêu biểu của văn học Việt Nam.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
2
0
doan man
29/12/2018 19:35:39
Trong cuốn “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh đã giúp ta nhận mặt các nhà thơ trong phong trào thơ mới: “Một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên và tha thiết, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu”. Mỗi nhà thơ khoác lên mình một bộ trang phục khác nhau, mang những điệu tâm hồn riêng biệt. Trong số đó, ta không thể nào không chú ý đến một tâm hồn thơ thường sầu buồn, ảo não của Huy Cận. Nét tâm trạng ấy đã được nhà thơ thể hiện khá đậm nét và thấm thía trong bài thơ “Tràng Giang”.
Bài thơ mở đầu bằng một bức tranh sông nước mênh mang:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
“Tràng giang” dài rộng gây ấn tượng bởi những con sóng nhỏ nối đuôi nhau không dứt. Động từ “gợn” không chỉ gợi hình mà còn gợi tiếng nhỏ, khẽ, êm đềm của dòng sông đang lặng lẽ trôi. Những con sóng miên man, không dứt như ẩn dụ cho nỗi buồn vô hạn trong lòng con người. Sóng sông đã hòa với sóng lòng, hữu hình hóa nỗi buồn trong lòng thi nhân, thấm vào cảnh vật. Con thuyền và dòng nước là hai sự vật vốn đi liền với nhau nhưng ở đây chúng lại ngược chiều, riêng biệt, tách bạch. Con thuyền như bất lực với chính mình, để mặc cho dòng nước cuốn đi đến tận cuối trời. Con thuyền nhỏ nhoi giữa sông nước mênh mang gợi ra bao nỗi sầu cùng trăm mối ngổn ngang, nỗi sầu của sông nước hay nỗi sầu từ lòng người? Với chi tiết cành củi khô, tác giả đã đưa vào thơ ca chất liệu của cuộc sống đời thường. Cành củi khô giữa mây trời sông nước càng nhấn mạnh vào sự ít ỏi, nhỏ bé, đơn côi, tăng ấn tượng vào sự héo hon, tàn tạ, mất hết sự sống. Cành củi khô còn gợi cho ta bao suy nghĩ về kiếp người nhỏ bé, nổi trôi, vô định, về thân phận lạc loài của con người trong buổi mất nước thời bây giờ.
Đến khổ 2, bức tranh sông nước tiếp tục được hoàn thiện với những chi tiết mới:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu”
Tuy đã có thêm cảnh vật nhưng chỉ làm thấm sâu hơn về cảm giác ít ỏi, nhỏ bé, đìu hiu cùng nỗi buồn thê lương hiu hắt. Chợ vốn là dấu hiệu của sự sống. Nhưng ở đây chỉ là một phiên chợ chiều đã vãn như được gọi từ trong quá khứ. Trong câu thứ 2, nhà thơ đã sử dụng rất thành công biện pháp nghệ thuật lấy động để tả tĩnh, càng làm tăng ấn tượng về sự buồn bã, thê lương. Điểm nhìn của nhà thơ bỗng đột ngột thay đổi, từ hai bên bờ ngước nhìn lên trời và trải ra xa hơn. “Sâu chót vót” là một sự kết hợp từ đầy độc đáo, mới mẻ. Câu thơ là cảm giác có thật bởi tác giả nhìn sâu xuống lòng sông và bắt gặp hình ảnh bầu trời đang phản chiếu dưới đáy sông. Không gian có cả chiều cao và chiều sâu càng làm tăng ấn tượng về sự vắng lặng, bến sông đã trở thành bến sầu, bến cô liêu. Trước không gian rộng lớn, rợn ngợp ấy, con người khó lòng tránh khỏi cảm giác về sự cô đơn, nhỏ bé. Buồn, sầu, cô đơn cũng là nét tâm trạng chung phổ biến của cả thanh niên thời đại thơ mới.
Bức tranh tràng giang được mở ra nhưng lại thiên về cảm giác mênh mang, vắng lặng:
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
Hình ảnh cánh bèo thường gợi sự nổi trôi vô định, nhắc về thân phận nhỏ bé, nổi lênh của kiếp người. Trong thơ Huy Cận là cả một đám bèo nhưng chỉ lặng lẽ từng hàng nối hàng, không biết trôi dạt về đâu. Hình ảnh cây cầu, chuyến đò trong thơ xưa thường được dùng với ý nghĩa để nối liền không gian xa cách, Huy Cận cũng gọi cầu, gọi chuyến đò, khao khát được kết nối, giao cảm, nhưng đáp lại lời thi sĩ chỉ là một sự phủ định tuyệt đối, càng khắc sâu hơn vào nỗi niềm, chia lìa, cách trở. Bờ xanh, bãi vàng vẫn như vậy ngàn đời không đổi, cảnh vật dù có tươi thắm hơn những không đủ sức để xua đi cái giá lạnh trong tâm hồn. Huy Cận như ôm trọn mối cô đơn vào trong lòng, không kẻ bầu bạn, không người sẻ chia.
Khổ thơ cuối bài đã diễn tả đúng nỗi niềm của “một linh hồn nhỏ, mênh mang thiên cổ sầu”:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Đằng sau bức tranh thiên nhiên là nỗi lòng của con người. Nỗi buồn dường như có sự tăng tiến, từ “điệp điêp”, “trùng trùng” đến “lớp lớp”. “Lớp lớp” diễn tả nhiều lớp mây nối tiếp nhau, lớp nọ liền lớp kia mãi không dứt. Chỉ một chữ “đùn” gợi sự chuyển động của những đám mây nhưng làm cho nó dường như có nội lực từ bên trong, lớp nọ đùn lớp kia tạo thành núi bạc. Câu thơ thứ 2 cũng dễ khiến người đọc liên hệ đến câu thơ nổi tiếng khác của Đỗ Phủ: “Mặt đất mây đùn cửa ai xa”. Cánh chim chao nghiêng như một nét chấm phá cho bức tranh thiên nhiên rộng lớn. Cánh chim vốn là một thi liệu quen thuộc thường dùng để tả buổi chiều trong thơ xưa: “Chim bay về núi tối rồi” hay “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”. Cánh chim nhỏ bé đối lập với vũ trụ mênh mang vô cùng vô tận một lần nữa lại gợi cảm giác bơ vơ, lạc lõng, buồn thương, tội nghiệp đã trở thành cảm xúc chủ đạo của cả bài thơ. Đến cuối bài, thi sĩ mới trực tiếp bộc lộ tâm trạng:
“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Từ láy “dợn dợn” thật giàu giá trị biểu cảm khi không chỉ diễn tả sóng nước lan ra mà còn gợi sóng lòng đang cuộn xoáy bên trong con người. Nỗi nhớ quê hương bắt gặp khung cảnh sông nước mênh mông, vắng lặng lại càng trở nên da diết, khắc sâu hơn vào tâm khảm. Ở câu thơ cuối bài, Huy Cận đã vận dụng sáng tạo hai câu thơ của Thôi Hiệu trong bài “Hoàng hạc lâu”
“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thuỷ sử nhân sầu”
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)
Nỗi nhớ của Huy Cận không chịu tác động từ ngoại cảnh mới bộc lộ. Nó lúc nào cũng thường chực sẵn trong lòng, chỉ đợi thời điểm để bùng lên tha thiết. Đứng trên mảnh đất quê hương mà nhớ quê, chỉ có thể là nhớ về quê hương của một thuở bình yên trong quá khứ. Đó cũng là tâm trạng chung của cả một thế hệ thanh niên thời trong thời buổi nước ta đang lầm than vì bóng đen nô lệ, đau đớn khi chịu cảnh nước mất nhà tan. Họ có tình yêu đối với quê hương đất nước, bất mãn với thời cuộc nhưng cô đơn, lạc lõng giữa ngã ba đường, chưa thể tìm thấy lối đi cho mình.
Với “Tràng Giang”, Huy Cận đã đánh dấu vị trí của mình trong phong trào thơ mới:
"Là Tràng giang", khổ nào cũng dập dềnh sóng nước
Là tâm trạng, khổ nào cũng lặng lẽ u buồn".
Người đọc hôm nay đến với thơ Huy Cận cùng một tấm lòng trân trọng “nỗi buồn thế hệ của ông”. Ẩn sau bức tranh sông nước trải dài mênh mang là một tâm sự yêu nước thầm kín, là nỗi lòng của cả một thế hệ “sống giữa quê hương mà bơ vơ như kiếp đi đày”.
1
0
Quỳnh Anh Đỗ
30/12/2018 06:57:45
Có những tác phẩm văn học vừa đọc xong, gấp lại là ta sẽ quên ngay, nhưng cũng có không ít những bài văn bài thơ, thật diệu kì, đã đi sâu vào lòng ta bằng một sức hút vô cùng mãnh liệt. Tràng giang của Huy Cận là một tác phẩm như vậy! Đọc Tràng giang, ta cảm thấy từng lời thơ, từng âm điệu... như những dòng chảy của một con sông, cứ len lỏi nhẹ nhàng nhưng chảy sâu vào tận đáy tâm hồn, khắc chạm vào đó những ấn tượng thâm trầm mà sâu sắc!...
“Thơ Huy Cận thường buồn”, Xuân Diệu, người bạn tri kỉ và cũng chính là người bạn đời thân thiết của Huy Cận cũng đã phải thốt lên như vậy! Là hai người bạn thân thiết của nhau, là hai người thi sĩ đa tình cùng yêu mếm và tìm đến với thế giới thiên nhiên vô tận, nhưng ở Xuân Diệu, thiên nhiên say đắm ngọt ngào hương vị ngôn ngữ tình yêu, còn nơi Huy Cận, thì cây cỏ núi sông lại bình thản lặng lẽ như thấm thía nỗi buồn của “cái tôi” lẻ loi cô độc. Tràng giang là một trong những kiệt tác kết tụ từ nỗi sầu “mang mang thiên cổ” đó! Đọc bài thơ, có lẽ ta sẽ bắt gặp được một nỗi buồn, nỗi buồn của chàng thanh niên mà “trọn kiết mắt chàng thường đẫm lệ”, nỗi buồn có lẽ rất… Huy Cận mà đã hơn một lần Xuân Diệu nói về nó như sau:
“Trong thơ Việt Nam, nghe bay dậy một tiếng địch buồn, không phai sáo thiên thai, không phải điệu ái tình, không phải lời li tao kể chuyện một cái tôi, mà ấy là một bản ngậm ngùi dài" có phải tiếng đìu hiu của khóm trúc bông lau, có phải niềm than vãn của bờ sông bãi cát, có phai mặt trăng một mình đang cảm thông cùng các vì sao? Tiếng rền rĩ dịu em sẽ vấn lấy ta như một dải lụa ôm ấp một vế đau, tiếng len thấm thía vào hồn ta như khí hậu của núi đèo, tiếng làm thành sương đọng lệ trên mắt ta…”.
Một lời nhận xét thật hay! Mà có lẽ chỉ cần bấy nhiêu đó thôi, ta đã hiểu được khá nhiều về thơ Huy Cận!
Và đặc biệt là đối với Tràng giang …
Bài thơ chính là một bức tranh thiên nhiên mà linh hồn của nó là một nỗi buồn xa xăm, hoang vắng, có một cái gì đó như tàn lụi cô đơn"
Sóng gợi Tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Nhìn những cơn sóng nhỏ đang lặng lẽ gối đấu nhau mà đi xa đến tận cuối chân trời, tâm hồn nhà thơ bỗng dâng lên một nỗi buồn “điệp điệp”. Từ “điệp điệp” đã tạo nên hình ảnh một nỗi buồn ngàn trùng, một nỗi buồn triền miên, lớp lớp… Thường người ta nói trùng trùng điệp điệp để chỉ núi non, nhưng ở đây tác giả lại đem nó để miêu tả một nỗi buồn, đúng là một sáng tạo thật độc đáo tong cách dùng từ để hình ảnh hóa một nỗi buồn thật là lãng mạn! Âm điệu thơ như ngân xa da diết, như thân thuộc quen quen! Có lẽ Huy Cận đã liên tưởng đến một câu ca dao:
Sóng bao nhiêu gợn, dạ em sầu bấy nhiêu
Ở đây, có bao nhiêu gợn sóng trên dòng Tràng giang từ là có bấy nhiêu nỗi buồn thi sĩ. Câu thơ không chỉ nghiêng về số liệu mà còn nặng về sắc thái, nỗi buồn chỉ nhẹ nhàng lặng lẽ thôi nhưng da diết và dai dẳng, nó như vô tình ngàn xa và tạo thành một tiếng buồn vô tình, vang vọng mãi giữa đất trời vũ trụ…
Và… nổi bật giữa những lớp sóng bạt ngàn đó là hình anh của một con thuyền, một con thuyền nhỏ nổi bật giữa những lớp sóng nhưng cũng đang khuất chìm trong chúng! Hình ảnh độc đáo vô cùng! Chiếc thuyền con như đang lênh đênh, bập bềnh không định hướng, cứ xuôi mãi, xuôi mãi … theo dòng nước vô tận nghìn trùng…
Cụm từ “nước song song” cũng là một cấu tứ lạ mà ta chưa từng đọc bao giờ, nó đối với “buồn điệp điệp” ở câu trên như để gợi ra một nỗi buồn mênh mông trùng điệp!
Sang câu thơ thứ ba, nước và thuyền đã chuyển động ngược chiều nhau, con thuyền đã không còn trôi xuôi theo dòng nước nữa:
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng…
Thế cân bằng song song của câu thơ đã bị phá vỡ. Thuyền về, mà về đâu? … Không rõ! Chỉ để lại một mặt sông vắng bóng thuyền, nỗi cô đơn như trải rộng ra dường như vô tận. Hình ảnh con thuyền cứ khuất dần, khuất dần rồi xa mờ hẳn, nước đành chia “sầu trăm ngả”. Huy Cận đã khéo léo trong việc miêu tả sự vận động của sự vật để nói đến bước đi của không gian. Thời gian vận chuyển theo tầm nhìn con thuyền và không gian cũng mở rộng cùng với nó. Nếu như lúc trước, không gian chỉ xác định theo dòng nước đang chuyển động song song cùng với con thuyền thì hình bóng con thuyền đã trở nên mất dạng, không gian chợt mở rộng ra đến “trăm ngả”, vô tận mênh mông không có lấy một điểm tựa nào! Chính vì vậy, câu thơ thứ ba đã trở thành một đòn bẩy để nâng câu thơ cuối tạo thành một chi tiết độc đáo vô cùng:
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Độc đáo về hình ảnh thơ và cả ý thơ! “Củi một cành khô” có lẽ là một hình ảnh mà ta chưa từng bắt gặp bao giờ, chính nó đã đưa đoạn thơ thoát khỏi bầu không khí cổ kính để trở về với thời hiện đại" một cành củi khô đang nổi trội dập dềnh giữa muôn vàn cơn sóng, lúc bị đẩy bên này, lúc lại dạt sang bên kia… Đó có phải chăng là hóa thân của một kiếp người lữ thứ, luôn lạc lõng bơ vơ, bị cuốn trôi theo chiều xoáy cuộc đời?
Tràng giang đó, vẫn bình thản suy tư qua lớp sóng “buồn điệp điệp”, qua dòng khơi “nước song song” và qua vẻ hừng hờ mặc cho “thuyền về nước lại” mặc cho nhánh củi lạc loài trôi!… Tràng giang!… Sóng gợn Tràng giang!…
Sang khổ thơ sau, tác giả đã đi sâu vào việc mô tả chi tiết nỗi buồn. Cái buồn bang bạc cả không gian giờ đã không còn đi lang thang vô địch trên sông mà đã tấp vào một cồn đất nhỏ:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Cảnh trong bài thơ chứa đầy tâm trạng. Có lẽ Huy Cận đã tập trung tất cả các hình ảnh và nhạc điệu để làm nổi bật lên cái buồn của con người trước cảnh trời rộng sông dài. Cảm giác buồn gởi trong vần điệu, trong các từ gợi hình mong manh và cô quạnh! “Lơ thơ” gợi hình ảnh, “đìu hiu” gợi cảm giác, cả hai từ láy như đã được nhà thơ phát huy hết hiệu quả để mô tả nỗi buồn, một nỗi buồn nhẹ nhàng nhưng sâu lắng, buồn đến lạnh lẽo cô đơn, đến rợp ngợp tâm hồn.
Câu thơ “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”, có thể hiểu là “đâu đây có tiếng làng xa vãn chợ”, nhưng đó cũng có thể là câu hỏi mà tác giả đặt ra cho chính bản thân mình" “đâu rồi”, “có đâu” tiếng “làng xa vãn chợ?”…
Ở đây, Huy Cận đã vận dụng khá tự nhiên một thủ pháp quan trọng trong thủ pháp cổ điển" mượn cái “động” để nói đến cái “tĩnh”, cố tìm kiếm và lắng nghe một âm thanh động để lặng đi trong bầu không khí tĩnh lặng đến rợn người!
Nỗi buồn ấy như càng trải rộng hơn trước cái nền không gian mà tác giả dựng nên bằng những từ ngữ vô cùng độc đáo:
Năng xuống, trời lên, sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu
Cùng một lúc, Huy Cận đã sử dụng thủ pháp của một nhà nhiếp ảnh và nghệ thuật của một nhà hội họa để dựng nên một bức tranh độc đáo. Thông thường từ “chót vót” chỉ được dùng để diễn tả chiều cao, vào thơ sâu thăm thẳm" không gian như vụt lớn hơn ra. Trên bức tranh sông dài hiện thêm một nét trời cao “sâu chót vót”, vài cồn đất nhỏ, “bến cô liêu”. Thiên nhiên phóng khoáng hơn và tưởng chừng sẽ sống động hơn, nhưng không! Khi lòng người còn “đìu hiu”, “cô liêu” thì “cảnh có vui đâu bao giờ”… Vài dải đất giữa sông dài, vài ngọn gió “đìu hiu”, chưa đủ để làm tươi cảnh vật và âm thanh của “tiếng làng xa vãn chợ chiều” thì mơ hồ và mong manh lắm! Quanh tác giả giờ đây chỉ còn có thiên nhiên, một thiên nhiên với cái buồn ảo não và da diết đến bang bạc cả không gian và thời gian" những lớp tiếng sóng gợn Tràng giang, tiếng đìu hiu heo hắt của bờ lau khóm trúc, nỗi sầu vạn cổ tự ngàn xưa chợt theo gió thổi về! Giờ đây, giữa thiên nhiên vũ trụ rộng mênh mông bao la ấy, chỉ còn lại có một mình tác giả, một mình đứng lặng chôn chân trong quạnh quẽ, cô liêu, cũng như Trần Tử Ngang, ngàn năm trước cũng đã có cuộc viễn du tương tự như thế:
Ao người trước đã qua!
Ai người sau chưa tới?
Giữa trời đất vô cùng
Mình ta luôn giọt lệ!
Người cô đơn lại gặp cảnh hoang vắng tịch liêu thì nỗi cô đơn ngày càng thêm đậm. Khổ thơ thứ ba như mở ra cái khunh cảnh dường như không có chút dấu vết nào của sự sống, một khung cnarh như đã bị chìm đắm trong thế giới của sự ngột ngạt đến vô cùng.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Nỗi buồn được mở rộng ra hơn, dù lời thơ có thêm được vài gam màu sắc nhạt nhòa! Cảnh có mở ra thêm bờ bờ bãi bãi, thêm ít màu sắc vàng tô điêm giữa bức tranh và thay thế "củi một cành khô" đơn độc lênh đênh đã là những đám bèo "hàng nối hàng" theo nhau đi mãi. Nhưng "hàng nối hàng" kia chợt xuất hiện trong dòng sông của nhà thơ như câu trả lời, đành để mặc cho tâm hồn mình trở thành một chiếc đảo cô đơn giữa mây trời sông nước" "Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề".
Một loạt các tình từ mênh mông lặng lẽ đã gợi lên không khí vắng vẻ u buồn, lại còn thêm những chi tiết phủ định" "Không một chuyến đò ngang”, không một chiếc cầu nối càng làng tăng nỗi cô liêu quạnh quẽ. Đến đây tình trạng cô đơn có lẽ đã lên tới đỉnh điểm, ước mong tìm thấy một "chút niềm thân mật" ở một “chuyến đò ngang”, một sự liên lạc nào đó với con người qua chiếc cầu nhỏ bé, nhưng tất cả đều không có được:
Thuyền không giao nối đây qua đó
Vạn thuở chờ mong một cánh buồm!
Đôi bờ sông như hai thế giới tách biệt nhau, bờ này tự thu mình không liên lạc với bờ kia! Dòng nước vẫn cứ vô tình hững hờ chảy. Tràng giang mỗi lúc một bao la, mỗi lúc mỗi ai hài dưới tâm tư trĩu nặng của người thi sĩ trẻ, đã sớm vương nỗi sầu thiên cổ mênh mang vaf những cánh bèo đang tản giạt trên lớp sóng nước kia có phải chăng chính là hình ảnh tượng trưng cho thân phận nhà thơ, của lớp người trẻ ở những năm ba mươi, cũng hoang mang vô địch, cũng mỏng manh nhỏ bé, cũng long đong nổi trôi theo dòng chảy bất tận của cuộc đời? Giống như tâm trạng mà Xuân Diệu một lần đã viết" "Chúng tôi cũng bơ vơ, mỗi hồn người là một cõi bơ vơ trong đất trời là một khung bơ vơ". Như vây, cái buồn của Huy Cận, của một chàng thi sĩ đã "hơn một lần gửi áo cho trăng" và lòng vẫn hay "sầu mưa", "tủi nắng” ấy không phải là cái buồn vô cớ, mà nó cũng chính là cái buồn của thời đại, mà nếu nói cho chính xác hơn thì đó là nỗi buồn của thanh niên tiểu tư sản trí thức lúc bấy giờ, những con người bị "giấc mơ con đè nát cuộc đời con" với những mảnh linh hồn nhưng lại bị "thiên hạ bỏ đìu hiu" với những đôi chân "muôn dấu rỗ, thủng gai đời"! Và có lẽ chính vì vậy hơn một lần họ đã từng than thở:
Nếu như chưa biết bao nhiêu lần hốt hoảng
Trong sầu đen đã gãy cánh như dơi
Nếu chưa biết bao nhiêu dòng lệ đắng
Chảy như sông không rửa sạch sầu đời!
Mượn dòng sông để soi linh hồn bé nhỏ cô đơn, nỗi buồn kia như lại càng thêm oằn sâu và trĩu nặng! Nhà thơ đã đem lại cái tâm trạng đầy cô đơn buồn bã ấy mà phủ lên cảnh vật thiên nhiên.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Trên giữa bầu trời xanh mênh mông, mây đùn lên trông giống như những ngọn núi bạc trắng xóa, chợt xuất hiện một cánh chim bé nhỏ mà "Bóng chiều sa nặng đến nỗi nó phải nghiêng cánh" (Xuân Diệu).
Dùng một vật hữu hình để diễn tả một cái vô hình. Thật khó để hình dung được ranh giới giữa cái nhỏ bé hữu hạn và cái lớn lao vô hạn mà Huy Cận đã đưa ra! Cảnh vật hiện lên trong thơ ông dù cho rất buồn nhưng vẫn chưa đựng được một cái gì đó hùng tráng và mạnh mẽ. Điều độc đáo ở đây chính là cách nhìn của nhà thơ! "Trong cánh chim nghiêng, tác giả đã thấy được bóng chiều sa!". Trong lúc Nguyễn Du thấy "bóng chiều" qua những nhánh "tơ liễu thướt tha" Hàn Mặc Tử thấy "bóng xuân sang" trên những giàn thiên lí, thì ở đây Huy Cận cũng tỏ ra tinh tế không kém khi nhận thấy "bóng chiều" về trên một cánh chim nghiêng! Một cánh chim lẻ loi, chấp chới trong ánh chiều đang xuống, khiến cho trời đất như rộng trải ra thêm! Không goian vừa mới trải mênh mông trong dáng dấp ngàn mây "lớp lớp" chất chồng, chợt ầm xuống hoàng hôn rất nhanh, đó cũng là khi tâm hồn người lữ khách chợt bâng khuâng nhớ đến quê nhà.
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Âm hưởng của thơ Đường triền miên trong câu cuối, mượn niềm luyến nhớ quê hương của Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc Lâu.
Nhật một hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
Nhưng Huy Cận đã bộc lộ tình yêu đậm đà tha thiết hơn! Tình yêu khắc khoải nên thủy triều rạo rực xôn xao. Điệp từ “dợn dợn” cũng rập rờn như sóng Tràng giang “điệp điệp”, cái rập rờn trùng điệp chan chứa biết bao tình. Ngày xưa, nhà thơ Đường phải có “khói sóng trên sông”, Hồ Dzếnh phải có “khói buồn bay lên mây” mới có thể gợi nhớ quê hương, mới có thể “nhớ nhà trong điếu thuốc”, nhưng còn ở đây thì lại khác. Nhân vật trữ tình trong thơ Huy Cận đứng trước cảnh không sương, không khói hoàn hôn mà cũng rung rung nỗi nhớ về một miền quê xa khuất phía chân trời. Huy Cận chẳng cần ngoại cảnh! Lúc này cái buồn đã thành hình, không chỉ còn là cái cảm giác sầu mênh mông vời vợi do xúc cảm sinh tình khi ngắm nước Tràng giang. Hai câu kết được gói gọn trong những dòng cảm xúc thiết tha và đẹp đẽ! Và nó làm ta gợi nhớ đến những câu thơ ngày trước:
Đạm đạm trường giang thủy
Du du viễn khách tình
Bao phủ toàn bài thơ là một nỗi buồn rộng khắp và thấm thía, một nỗi buồn mà Hoài Thanh đã từng nhận xét" “Người nói cùng ta nỗi buồn nơi quán chật đèo cao, nỗi buồn của sông dài trời rộng, nỗi buồn của người lữ thứ dừng ngựa trên non, buồn đêm mưa, buồn nhớ bạn… Người đã gợi dậy cái hồn buồn của Đông Á, người đã khơi gợi cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này!”.
Buồn nhưng không bi quan, không chán nản! Bài thơ hiện diện với tư cách là một bài thơ buồn nhưng vẫn đậm đà và lắng sâu một tình yêu quê hương tha thiết nồng nàn! Có phải chăng vì vậy mà Xuân Diệu đã từng ca ngợi" “Tràng giang là một bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc”.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 11 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư