Chính Hữu là nhà thơ trưởng thành trong quân đội. Thơ ông tuy không nhiều nhưng thường viết về người lính và chiến tranh với nhiều cảm xúc dồn nén, vừa bình dị, vừa thiết tha. Một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là bài thơ “Đồng chí”. Bài thơ mang vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội giản dị, mộc mạc mà sâu sắc của những người lính cách mạng trong những tháng ngày kháng chiến gian lao. Đứng trong hàng ngũ cách mạng, chiến đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc, người lính vượt lên trên mọi gian khổ bằng sự sẻ chia, tinh thần đoàn kết. Họ sống trong tình đồng chí, đồng đội cao đẹp, nhờ đồng đội, vì đồng đội…
Mở đầu bài thơ, ta bắt gặp lời giới thiệu mộc mạc như những lời chào hỏi, hỏi thăm, làm quen nhau trong buổi đầu gặp gỡ:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo, đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.”
Những người đồng đội ấy thường là những người nông dân mặc áo lính, điểm giống nhau về cảnh ngộ xuất thân giúp họ có thể dễ dàng gần gũi, đồng cảm với nhau. “Anh và tôi” từ những vùng quê khác nhau, chỉ giống nhau bới cái nghèo khó của đất đai, đồng ruộng. Anh từ miền quê ven biển “nước mặn đồng chua”, tôi ở vùng đất cao “cày lên sỏi đá”. Hình ảnh “quê hương anh” và “làng tôi” hiện lên với biết bao nối gian nan, vất vả mặc dù nhà thơ không chú ý miêu tả. Nhưng chính điều đó lại làm cho hình ảnh vốn chỉ là danh từ chung kia trở nên cụ thể đến mức có thể nhìn thấy được, nhất là dưới con mắt của những nguwoif con làng quê Việt Nam. Thành ngữ dân gian được tác giả vận dụng rất tự nhiên, nhuần nhụy khiến người đọc có thể dễ dàng hình dung ra những làng quê nghèo khó, nơi sinh ra những người lính dũng cảm. Khi nghe tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, họ sẵn sàng ra đi và nhanh chóng có mặt trong đoàn quân chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Trước ngày nhập ngũ, những con người này vốn rất xa lạ. Họ hiểu nhau, thương nhau, tri kỉ với nhau bằng tình tương thân, tương ái vốn có từ lâu giữa những người lao động. Nhưng họ quen nhau không phải do cái nghèo đói xô đẩy, mà họ quen nhau để đứng trong cùng đội ngũ do họ có một lý tưởng chung, cùng một mục đích cao cả là chiến đấu và bảo vệ Tổ quốc. Hình ảnh anh – tôi riêng biệt đã mờ nhòa, hình ảnh sóng đôi đã thể hiện sự gắn bó tương đồng của họ trong nhiệm vụ và lí tưởng chiến đấu:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kì
Đồng chí”
Điệp từ “súng” và “đầu” được nhắc lại hai lần như nhấn mạnh tình cảm gắn bó trong chiến đấu của người đồng chí. Tình cảm ấy đã nảy nở bền chặt trong sự chan hòa, chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui, niềm hạnh phúc. Đó là mối tình tri kỉ của những người bạn chí cốt mà tác giả biểu hiện bằng một hình ảnh thật cụ thể, giản dị mà hết sức gợi cảm: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Chính trong những ngày khó khăn, thiếu thốn ấy, từ “xa lạ” mà họ đã trở thành “tri kỉ” của nhau. Sự vất vả, nguy nan đã gắn kết những người đồng chí, khiến họ trở thành những người bạn tâm giao, gắn bó. Những câu thơ giản dị mà hết sức sâu sắc, như được chắt lọc từ cuộc sống, từ cuộc đời người lính đầy gian khổ, để rồi bao nhiêu yêu thương đã được thể hiện hết qua những hình ảnh vừa gần gũi, vừa tình cảm hàm súc ấy. Chính Hữu đã từng là một người lính, đã tair qua cuộc đời người lính nên câu thơ bình dị mà có sức nặng của tình cảm trìu mến, yêu thương với đồng đội.
Từ trong thâm tâm họ, bỗng bật thốt lên hai từ “đồng chí” thật ngắn gọn mà thiêng liêng. Từ “đồng chí” như một nốt nhấn đặc biệt mang những sắc thái biểu cảm khác nhau, nhấn mạnh sự thiêng liêng cao cả trong tình đồng chí, đồng đội. Tình cảm ấy phải trải qua bao khó khăn, thử thách, được tôi luyện trong gian khổ thì mới thực sự vững bền. “Anh” và “tôi” đã trở thành một khối đoàn kết, thống nhất gắn bó. Như vậy, trong tình đồng chí có tình cảm giai cấp, có tình bạn bè tri kỉ và có sự gắn bó giữa con người cùng chung lí tưởng, chung mục đích chiến đấu. Và khi họ gọi nhau bằng tiếng “đồng chí”, họ không chỉ còn là những người nông dân nghèo đói, lam lũ mà họ đã trở thành anh em trong cả một cộng đồng với một lí tưởng cao cả vì đất nước quên thân đẻ tạo nên chiến thắng cho dân tộc. Câu thơ vẻn vẹn có hai chữ như chất chứa, dồn nén bao cảm xúc sâu xa từ sáu câu thơ trước và khởi đầu cho những suy nghĩ tiếp theo.
Bằng việc sử dụng cấu trúc sóng đôi, đối xứng “quê anh” – “làng tôi”, thành ngữ “nước mặn đồng chua”, “đất cày nên sỏi đá”, hình ảnh thực mang nhiều ý nghĩa biểu tượng, bảy câu thơ đầu đã diễn tả sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân, về lí tưởng cao đẹp, về nhiệm vụ chiến đấu. Chính những sự tương đồng ấy đã trở thành niềm đồng cảm, là cơ sở cho tình đồng chí, đồng đội của người lính.
Không chỉ dừng lại ở tình đồng chí, đồng đội với những cơ sở tạo nên nó mà tác giả còn nói về sự thấu hiểu, chia sẻ những tâm tư, nỗi lòng của cuộc đời người lính.
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”
Họ là những người lính gác tình riêng ra đi vì nghĩa lớn, để lại sau lưng mảnh trời quê hương với những băn khoăn, trăn trở. Từ những câu thơ nói về gia cảnh, về cảnh ngộ, ta bắt gặp một sự thay đổi lớn lao trong quan niệm của người chiến sĩ. “Ruộng nương” gửi tạm cho “bạn thân cày”, “gian nhà không” để “mặc kệ gió lung lay”. Lên đường đi chiến đấu, ngừi lính chấp nhận sự hi sinh, tạm gạt sang một bên những toan tính riêng tư. Hai chữ “mặc kệ” đã nói lên đực sự kiên quyết, dứt khoát, mạnh mẽ của người lính. Song dù dứt khoát, kiên quyết đến vậy nhưng người lính vẫn luôn nặng lòng với quê hương bởi đó là nơi sinh ra, nuôi dưỡng tâm hồn họ - những người lính nông dân thật thà, chất phác. Hình ảnh hoán dụ mang tính nhân hóa: “Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính” càng tô đậm sự gắn bó, yêu thương của người lính đối với quê nhà, nó giúp người lính diễn tả một cách hồn nhiên và tinh tế tâm hồn mình.
Ba câu thơ với hình ảnh: ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa, hình ảnh nào cũng thật thân thương, chan chứa tình quê hương với bao nỗi nhớ thương vơi đầy. Hình ảnh hoán dụ mang tính nhân hóa làm nổi bật thêm tâm tư, nỗi nhớ nhung của những người đồng chí. Nhắc tới nỗi nhớ da diết ấy, Chính Hữu đã nói đến sự hy sinh không mấy dễ dàng của người lính. Dù vậy nhưng họ vẫn luôn thấu hiểu và chia sẻ cho nhau. Tình đồng chí đã được tiếp thêm sức mạnh bởi tình yêu quê hương, bởi sự đồng cam cộng khổ, sự sẻ chia những gian lao thiếu thốn của cuộc đời người lính.
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Là người lính, các anh đã từng trải qua những cơn sốt rét nơi rừng sâu trong hoàn cảnh thiếu thuốc men, lại thêm trang phục phong phanh giữa mùa đông lạnh giá. Tất cả những khó khăn, gian khổ được tái hiện bằng những chi tiết hết sức chân thực, không một chút tô vẽ bởi trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến, quân đội cụ Hồ mới được thành lập thiếu thốn đủ bề, khó khăn trăm đường. Nhưng dù có khó khăn như vậy mà họ vẫn giữ vững ý chí, quyết tâm cùng với bản lĩnh vững vàng để canh gác, chiến đấu vì Tổ quốc thân yêu của mình.
Chi tiết “miệng cười buốt giá” đã ấm lên, sáng lên tình đồng đội và tinh thần lạc quan của người chiến sĩ. Cử chỉ “thương nhau tay nắm lấy bàn tay” đã thể hiện được tình thương yêu đồng đội sâu sắc. Cách biểu lộ tình thương yêu ấy không ồn ào nhưng lại thấm thía. Cái nắm tay ấy cũng giống như những cái bắt tay qua cửa kính vỡ của những chàng trai thuộc tiểu đội xe không kính trong thời kì chống Mĩ. Tuy chỉ là một cái nắm tay, bắt tay bé nhỏ thôi nhưng nó lại ẩn chứa một biểu tượng thiêng liêng. Cái nắm tay ấy đã truyền cho những người lính niềm tin, sức mạnh để vượt qua tất cả. Nhà thơ đã phát hiện rất tinh tường cái sức mạnh tinh thần ẩn sâu trong trái tim người lính. Sức mạnh tinh thần ấy, trên cơ sở cảm thông và thấu hiểu sâu sắc lẫn nhau, đã tạo nên chiều sâu và sự bền vững của thứ tình cảm thầm lặng nhưng rất đối thiêng liêng này.
Đến với ba câu thơ cuối, ta bắt gặp được một bức tranh đẹp đẽ về tình đồng chí:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Ba câu thơ tả một đên phục kích giặc trong một không gian âm u, hoang vắng và lạnh lẽo: “rừng hoang sương muối”. Không chỉ cái gió, cái rét cứ đeo đuổi họ mà còn bao nguy hiểm đang rình rập người chiến sĩ. Nổi bật trên nền hiện thực khắc nghiệt ấy là những người lính “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”, cái nơi mà sự sống với cái chết chỉ đến trong gang tấc. Từ “chờ” ở đây cũng đã nói rõ lên cái tư thế hiên ngang, tự tin, sẵn sàng, chủ động đánh giặc của họ. Và khi đó, tầm vóc của những người chiến sĩ ấy càng trở nên lớn lao hơn.
Câu thơ cuối là một hình ảnh đẹp được nhận ra từ những đêm hành quân phục kích giặc của chính người lính. Đêm khuya, trăng trên vòm trời cao đã sà xuống thấp dần, ở một vị trí nào đấy, vầng trăng như được treo trên đầu mũi súng của người chiến sĩ đang phục kích chờ giặc. Tình cảm đồng chí ấm áp, thiêng liêng đã mang đến cho người lính nét lãng mạn, cảm hứng thi sĩ trong hiện thực đầy khắc nghiệt qua hình ảnh “đầu súng trăng treo”. Trong hoàn cảnh hết ức gian khổ, khốc kiệt: đêm đông giá lạnh, rừng hoang sương muối, cái chết cận kề, tâm hồn của người chiến sĩ vẫn tìm thấy chất thơ bay bổng trong vẻ đẹp bất ngờ của vầng trăng. Từ “treo” đã tạo nên một mối quan hệ bất ngờ độc đáo, nối hai sự vật ở cách xa nhau – mặt đất và bầu trơi, gợi những liên tưởng thú vị, bất ngờ. “Súng” là biểu tượng của chiến đấu, “trăng” là biểu tượng của hòa bình. Súng và trăng là hư và thực, là chiến sĩ và thi sĩ, là một cặp tô đậm vẻ đẹp của những đồng chí đang đứng cạnh bên nhau. Chính tình đồng chí đã làm cho người chiến sĩ cảm thấy cuộc đời vẫn đẹp, vẫn thơ mộng, tạo cho họ sức mạnh chiến đấu và niềm tin chiến thắng. Đây là một sáng tạo đầy bất ngờ, góp phần nâng cao giá trị bài thơ, tạo được những dư vang sâu lắng trong lòng người đọc. Đây cũng là minh chứng cho bút pháp tả thực và bút pháp lãng mạn của Chính Hữu.
Như vậy, tình đồng chí trong bài thơ là tình cảm cao đẹp và thiêng liêng của những con người gắn bó keo sơn trong cuộc chiến đấu vĩ đại của dân tộc. Tình cảm ấy được hình thành trên cơ sở là tình yêu quê hương, đất nước, cùng chung lí tưởng và mục đích chiến đấu. Hoàn cảnh chiến đấu gian khổ và ác liệt đã tôi luyện, thử thách làm cho tình đồng chí, đồng đội của người lính ngày càng bền chặt. Tình cảm thiêng liêng ấy đã giúp cho những người chiến sĩ vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, thiếu thốn của cuộc đời người lính, làm điểm tựa để tạo nên chiến thắng hào hùng cho dân tộc.
Bằng việc sử dụng thành ngữ, cấu trúc, hình ảnh sóng đôi giàu tính biểu tượng, hình ảnh hoán dụ mang tính nhân hóa, bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn, “Đồng chí” đã làm hiện và nổi bật lên tình đồng chí cao đẹp vừa giản dị lại vừa thiêng liêng, thơ mộng của những người lính cụ Hồ. Qua đây cũng thể hiện sự xuất sắc của Chính Hữu khi viết về đề tài người lính và chiến tranh.