Trần Đăng Khoa là “hiện tượng” của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Những dòng thơ hồn nhiên, tươi mát, độc đáo của Trần Đăng Khoa bắt nguồn từ cảm nhận của nhà thơ về hình ảnh, âm thanh phong phú, muôn màu vẻ của làng quê Bắc bộ - mảnh đất “chôn nhau cắt rốn”, gắn bó với anh suốt một thời thơ ấu. Bài viết là những cảm nhận về những hình ảnh, âm thanh độc đáo của làng quê Bắc bộ trong thơ Trần Đăng Khoa.
Thơ Trần Đăng Khoa chinh phục độc giả bởi một thế giới nghệ thuật thơ mang màu sắc riêng, độc đáo. Đó là thế giới nghệ thuật giản dị, hồn nhiên, bắt nguồn từ những cảnh vật, thanh âm nhất mực bình dị, quen thuộc, thân thiết. Khởi đầu nghiệp thơ với những cảm nhận hết sức ngây thơ, hồn nhiên về hình ảnh con bướm vàng bay rập rờn trên bờ cỏ: “Con bướm vàng - Con bướm vàng - Bay nhẹ nhàng - Trên bờ cỏ - Em thích quá - Liền đuổi theo - Con bướm vàng - Nó vỗ cánh - Vút lên cao - Em nhìn theo - Con bướm vàng - Con bướm vàng”, thế mà Trần Đăng Khoa lại có cơ duyên đặc biệt với thi ca. Đến với thơ Khoa, ta không chỉ được sống lại tuổi thơ với bao điều lý thú mà còn rất tự nhiên cảm thấy bị quyến rũ vào một thế giới làng quê yên ả, thanh bình, tươi mát và trong trẻo đến vô ngần.
1. Thơ Trần Đăng Khoa mang đến hình ảnh của một làng quê Bắc bộ thân quen, yên ả, thanh bình:
Trong bài Từ ngọn lúa sinh ra, Khoa tâm sự: “Tôi chỉ có thể viết được cái gì tôi đã thực sự thấy bằng mắt, chỉ rung cảm về cái gì thực sự tôi đã trải trong tâm trí mình. Có thể tìm thấy trong thơ tôi những sự việc hoàn toàn có thực của bản thân tôi, gia đình tôi, làng quê tôi... Tôi thực sự biết ơn cái làng quê nhỏ bé của mình đã nuôi dưỡng tôi như vậy” [Từ ngọn lúa sinh ra – Báo Tiền phong số ra ngày 16/4/1974]. Chính mảnh đất làng thân thương đã nuôi lớn Khoa, và cũng chính tất cả sự sống tiềm tàng của cái làng quê ấy đã đem lại cho thơ Khoa một nhựa sống tràn trề không bao giờ vơi cạnQuanh sân, có nhiều nhân vật đã đi vào các bài thơ đặc sắc của Khoa, bình dị mà đượm sắc màu cổ tích thần tiên. Đó là ngọn mồng tơi - nhảy múa; là muôn nghìn cây mía – múa gươm; cây bưởi đu đưa - bế lũ con - đầu trọc lốc; xa hơn chút nữa là cây dừa - sải tay – bơi, đến bụi tre tần ngần - gỡ tóc. Khoảng sân này cũng là nơi diễn ra nhiều điều kì lạ khác: đó là những cơn mưa rào Sấm ghé xuống sân – khanh khách - cười; mưa chéo mặt sân - sủi bọt; cóc nhảy chồm chồm; cả Ông trời mặc áo giáp đen – ra trận…hay đám ma bác giun với: Họ hàng nhà kiến kéo ra – Kiến con đi trước, kiến già theo sau – Cầm hương kiến đất bạc đầu – Khóc than kiến cánh khoác màu áo tang – Kiến lửa đốt đuốc đỏ làng – Kiến kim chống gậy, kiến càng nặng vai – Đám ma đưa đến là dài – Qua những vườn chuối, vườn khoai, vườn cà... Chỉ với một góc sân quen thuộc, Khoa đã tạo ra được cả một thế giới huyền diệu chỉ trẻ thơ mới thấy, biết, thích thú.
Từ cái thế giới nho nhỏ ấy, hồn thơ của Khoa cất cánh, rộng mở, hướng tới không gian làng quê rộng lớn hơn, chứa bao điều hấp dẫn.
Đó là hương quê, từ mùi thơm ngát của hoa bưởi rụng đêm qua: Hoa rơi trắng mảnh sân con – Ôi hoa đã rụng vẫn còn ngát hương, của hương nhãn đặc lại – Thơm ngoài sân trong nhà đến mùi vị rất riêng của đất quê: Mùi bùn đang ngấu – Mùi phân đang hoai – Vôi chưa tan hẳn – Còn hăng rãnh cày. Hương vị của làng quê dẫu có thể không quen với ai đó nơi thị thành, nhưng với Khoa, nó đã thành máu thịt. Chính tự anh cũng cảm thấy: Đất trời cách một gang mây – Và tôi cùng với luống cày tỏa hương. Giữa đất và người có một sự giao cảm đặc biệt: Đi trong ngào ngạt – Niềm vui gieo trồng – Thịt da ta cũng – Tỏa hơi ruộng đồng. Cái hương đồng gió nội thân thương ấy như làm say cả chúng ta:
Trời đất hôm nay
Như chim mới hót
Như rượu mới cất
Như mật mới đông
Đó là những khung cảnh tự nhiên bình dị mà thân thương người ta chỉ có thể nhìn thấy ở đất làng: từ dưới mặt đất Hàng cây cau lặng đứng – Hàng cây chuối đứng im; … trời trở gió heo may - Sáng ra vại nước rụng đầy hoa cau; Dưới bóng đa, con trâu – Thong thả nhai hương lúa – Đủng đỉnh đàn bò về - Lông hồng như đốm lửa đến bầu không gian trên cao Bầu trời xanh biếc mênh mông - Cánh cò chớp trắng trên sông Kinh Thầy.
Nơi khởi phát nguồn thơ đầu tiên của Trần Đăng Khoa chính là khoảng sân nhỏ trước nhà. Cái sân nhỏ của ngôi nhà quê, nhưng là cả một vũ trụ chứa đầy thú vị đối với cậu bé Khoa.
Viết về con người ở làng quê, thơ Khoa là sự tái hiện chân thực mà đầy cảm xúc về những người nông dân. Người lao động thôn quê với bao nỗi nhọc nhằn: Áo mẹ mưa bạc màu – Đầu mẹ nắng cháy tóc; Những trưa tháng sáu – Chết cả cá cờ - Cua ngoi lên bờ - Mẹ em xuống cấy… Chỉ sinh ra và lớn lên trên mảnh đất làng mới có thể thấm thía đến thế nỗi cơ cực của mẹ, của các cô bác nông dân. Hơn thế, cậu bé Khoa đã rất tinh tế, sâu sắc cất lời ngợi ca, tôn vinh người lao động, chọn cho họ một vị thế xứng đáng, vị thế làm chủ, vươn lên trong cuộc sống. Kết thúc bài thơ Mưa, Khoa viết: Bố em đi cày về - Đội sấm – Đội chớp – Đội cả trời mưa. Không phải ngẫu nhiên mà Khoa viết thế. Khoa thực sự rung động trước tư thế “đội sấm”, “đội chớp”, “đội mưa” rất ung dung, bình tĩnh, tự tin của cha mình. Mọi hình ảnh của bài thơ Mưa quy tụ lại một điểm đẹp nhất, sáng nhất là bức chân dung người nông dân đầy dũng cảm, tự tin và chiến thắng.
Đọc thơ Khoa, ta cũng được hòa mình vào cái không khí vui tươi của ngày mùa. Những người làm nghề nông được gặt hái thành quả lao động của mình: Chị chủ nhiệm rũ rơm – Anh dân quân đập lúa – Thóc nở bung trời sao – Nhuộm vàng cả trời cao. Khó có thể tìm thấy ở đâu có niềm vui tập thể bình dị, trong trẻo như niềm vui trên đồng ruộng. Cũng khó có thể tìm thấy ở đâu hình ảnh Thóc nở bung trời sao đẹp và đáng yêu đến vậy.
Thơ Khoa không chỉ gây xúc động về hình ảnh mà còn tạo những bất ngờ thú vị về thanh âm của cuộc sống chỉ có ở làng quê Bắc bộ.
2. Thơ Trần Đăng Khoa mang đến những thanh âm cuộc sống của làng quê Bắc bộ đầy thú vị:
Sống ở thôn quê, tham gia vào tất cả những sinh hoạt văn hóa của làng, Trần Đăng Khoa rất tự nhiên hấp thụ vào mình tất cả những âm thanh bình dị, trong trẻo và vô cùng phong phú của một vùng nông thôn. Khoa phác họa lại trong rất nhiều bài thơ những thanh âm đó.
Từ tiếng của các con vật trong nhà: tiếng mấy chú gà liếp nhiếp, mụ gà cục tác như điên, tiếng con chó vện hay hỏi đâu đâu, tiếng con vịt bầu hay nói ầm ĩ… đến tiếng của các con vật ngoài đồng: Ếch nhái uôm uôm mở hội, Ếch con học nhạc, Dế Mèn ngâm thơ; tiếng các con vật trên cao: Xôn xao tiếng sẻ, tiếng ve báo mùa, Những chú chim chiu chít – Bay lên kêu chíp chíp, Tiếng chim chích chòe đang hót… thật sôi nổi, rộn ràng. Và đây là một thứ âm vang đặc trưng của không gian sinh hoạt văn hóa làng: Tiếng trống làng – Tùng! Tùng! Tùng… Âm vang – Đầy làng – Tiếng gà – Khát khát – Tiếng chó – Khau khau – Tiếng gọi nhau – Ơi ới – Tiếng những nồi cơm – Chín vội – Liềm hái – Va nhau… Tiếng ồn ào – Cánh đồng – Chân trời – Vàng rực.