Nam Cao là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc giai đoạn 1930 – 1945, là một cây bút viết về người nông dân hết sức chân thực, có đóng góp nhiều cho sự thành công của dòng văn học hiện thực Việt Nam trước cách mạng tháng Tám.
Tên khai sinh của ông là Trần Hữu Tri, sinh năm 1917, mất năm 1951. Quê ở làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Nam Cao là cây bút luôn suy nghĩ, tìm tòi để “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”. Vì thế, đề tài của ông tuy không mới nhưng tác phẩm vẫn có những đặc sắc tâm lý. Tác phẩm của Nam Cao chủ yếu xoay quanh hai đề tài chính: người nông dân và người trí thức tiểu tư sản nghèo, ở đề tài người trí thức tiểu tư sản có những tác phẩm: “Trăng sáng, Đời thừa, Mua nhà, Nước mắt…” và những truyện đáng chú ý khi ông viết về người nông dân như: “Lão Hạc, Chí Phèo, Một bữa no, Lang Rận…”. Có thể nói dù viết về trí thức nghèo hay về người nông dân cùng khổ thì Nam Cao vẫn luôn day dứt, đau đớn trước tình trạng con người bị xói mòn về nhân phẩm, thậm chí huỷ diệt cả nhân tính trong cái xã hội phi nhân đạo đương thời. Nam Cao là người có ý thức trách nhiệm nhất về ngòi bút của mình, suốt cuộc đời lao động văn học, nhà văn luôn suy nghĩ về sống và viết.
Trong nền văn xuôi hiện đại nước ta, Nam Cao là nhà văn có tài năng xuất sắc và một phong cách độc đáo. Ngòi bút của Nam Cao vừa tỉnh táo, sắc lạnh, vừa nặng trĩu suy nghĩ và đằm thắm yêu thương. Văn Nam Cao hết sức chân thực, ông coi sự thực là trên hết, không gì ngăn được nhà văn đến với sự thực, vừa thấm đượm ý vị triết lí và trữ tình. Ông có sở trường diễn tả, phân tích tâm lý con người. Ngôn ngữ trong tác phẩm của ông sống động, uyển chuyển, tinh tế, rất gần với lời ăn tiếng nói của quần chúng. Với một tài năng lớn và giàu sức sáng tạo, Nam Cao đã góp phần quan trọng vào việc cách tân nền văn xuôi Việt Nam theo hướng hiện đại hoá.
Tác phẩm Nam Cao để lại chủ yếu là truyện ngắn, trong số những truyện ngắn viết về người nông dân, thì “Lão Hạc” là một truyện ngắn xuất sắc và tiêu biểu.
Truyện ngắn “Lão Hạc” được đăng báo lần đầu năm 1943. Truyện kể về nhân vật chính - lão Hạc, một lão nông dân nghèo khổ, có phẩm chất trong sạch, vợ lão Hạc mất sớm, để lại lão và cậu con trai, trong nhà tài sản duy nhất của hai cha con lão là một mảnh vườn và “cậu vàng” - con chó do con trai lão mua. Do không đủ tiền cưới vợ, con trai lão chán nản mà làm đơn xin đi mộ phu đồn điền cao su, để lão ở nhà một mình với cậu vàng. Lão Hạc hết sức thương con, lão chăm vườn, làm ăn dành dụm để khi con trai lão về thì cưới vợ cho nó. Thế nhưng, sau một trận ốm nặng, bao nhiêu tiền dành dụm cũng hết, sức khoẻ lão ngày một yếu đi, vườn không có gì để bán, lão Hạc trở nên đói kém hơn, phải lo từng bữa ăn. Lão ăn năn day dứt khi quyết định bán cậu vàng - người bạn thân thiết của lão. Lão gửi số tiền và mảnh vườn cho ông giáo và xin bả chó của Binh Tư để kết thúc cuộc sống túng quẫn của mình. Lão chết một cách đau đớn, nhưng cái chết làm sáng ngời phẩm chất trong sạch của lão Hạc.
Thông qua số phận và cái chết của lão Hạc, Nam Cao đã thể hiện một thái độ trân trọng và cái nhìn nhân đạo đối với lão Hạc nói riêng và người nông dân Việt Nam nói chung - những con người nghèo khổ nhưng sống trong sạch, thà chết chứ không chịu mang tiếng nhục, làm những điều trái với lương tâm cao cả của mình. Nam Cao cũng đã nêu lên một triết lý nhân sinh rằng: Con người chỉ xứng đáng với danh nghĩa con người khi biết trân trọng và chia sẻ, nâng niu những điều đáng quý, đáng thương ở con người. Đồng cảm với những số phận đáng thương, Nam Cao đã lên tiếng thông qua tác phẩm là tiếng nói lên án xã hội đương thời thối nát, bất công, không cho những con người có nhân cách cao đẹp như lão được sống. Tác phẩm “Lão Hạc” cũng mang một giá trị nghệ thuật sâu sắc, thể hiện được phong cách độc đáo của nhà văn Nam Cao.
Tóm lại, nhà văn Nam Cao đã có những đóng góp không nhỏ trong nền văn học Việt Nam. Các tác phẩm của ông đã để lại nhiều giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.
Thuyết minh về nhà văn Nam Cao - Mẫu 4
Nam Cao tên khai sinh là Trần Hữu Tri. Ông sinh năm 1917, trong một gia đình nông dân tại làng Đại Hoàng, thuộc tống Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam (nay thuộc xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam). Làng Đại Hoàng nằm trong vùng đồng chiêm trũng, nông dân quanh năm nghèo đói, lại bị bọn cường hào ức hiếp, đục khoét tàn tệ.
Nam Cao là con người duy nhất trong gia đình khá đông con - được ăn học tử tế. Học xong bậc Thành chung, Nam Cao vào Sài Gòn giúp việc cho một hiệu may. Thời kỳ này, ông bắt đầu sáng tác và mơ ước được đi xa, mở mang kiến thức, trau dồi tài năng, xây dựng một sự nghiệp văn học có ích. Nhưng rồi vì ốm yếu, Nam Cao lại trở về quê và thất nghiệp. Sau ông lên Hà Nội, dạy học ở một trường tiểu học tư thục. Nhưng cuộc đời "giáo khổ trường tư" đó cũng không yên: quân Nhật vào Đông Dương, trường của ông phải đóng cửa để làm chuồng ngựa cho lính Nhật. Nhà văn - lại thất nghiệp, sông lay lắt bằng nghề viết văn và làm gia sư, trong khi gia đình ở quê đang ngày càng khốn khó. Năm 1943, Nam Cao tham gia Hội văn hóa cứu quốc. Tháng 11 năm 1951, trên đường vào công tác vùng sau lưng địch thuộc Liên khu III, Nam Cao đã bị địch phục kích bắt được và bắn chết gần Hoàng Đan (thuộc tỉnh Ninh Bình khi đó). Nhà văn ngã xuống giữa lúc ông đang bước vào thời kỳ "chín" mới về tư tưởng và tài năng, hứa hẹn những sáng tác có tầm vóc về thời đại mới.
Trước cách mạng, Nam Cao thường mang nặng tâm sự u uất, bất đắc chí. Đó không chỉ là tâm sự người nghệ sĩ “tài cao, phận thấp, chí khí uất” (thơ Tản Đà), mà còn là nỗi bi phẫn sâu xa của người trí thức giàu tâm huyết trước cái xã hội bóp nghẹt sự sống con người khi đó. Song Nam Cao không vì bất mãn cá nhân mà trở nên khinh bạc, trái lại ông có một tấm lòng thật đôn hậu, chan chứa yêu thương. Đặc biệt, sự gắn bó ân tình sâu nặng với bà con nông dân nghèo khổ ruột thịt ở quê hương là nét nổi bật ở Nam Cao. Chính tình cảm yêu thương gắn bó đó là một sức mạnh bên trong của nhà văn, giúp ông vượt qua những cám dỗ của lối sống thoát ly hưởng lạc, tự nguyện tìm đến và trung thành với con đường nghệ thuật hiện thực “vị nhân sinh”.
Bình sinh, Nam Cao thường day dứt, hối hận vì những sai lầm - có khi chi trong ý nghĩ - của mình. Người trí thức “trung thực vô ngần” (lời Tô Hoài) ấy luôn nghiêm khắc tự đấu tranh bản thân để vượt mình, cố thoát khỏi lối sống tầm thường, nhỏ nhen, khao khát hướng tới “tâm hồn trong sạch và mơ tới những cảnh sống, những con người thật đẹp” (Nhật ký Nam Cao, ghi ngày 31 tháng 8 năm 1950). Có thể nói, giá trị to lớn của sự nghiệp văn học của Nam Cao gắn liền với cuộc đấu tranh bản thân trung thực, dũng cảm trong suốt cuộc đời cầm bút của nhà văn.
Cuộc đời lao động nghệ thuật vì lý tưởng nhân đạo, lý tưởng cách mạng và sự hy sinh anh dũng của Nam Cao mãi mãi là tấm gương cao đẹp của một nhà văn - chiến sĩ. Trong cuộc đời cầm bút, Nam Cao luôn suy nghĩ về “sống và viết”. Ban đầu, ông chịu ảnh hưởng sâu của phong trào lãng mạn đương thời, đã sáng tác những bài thơ, chuyện tình lâm li dễ dãi. Nhưng ông đã dần dần nhận ra rằng thứ văn chương đó rất xa lạ đối với đời sống lầm than của đông đảo quần chúng nghèo khổ xung quanh. Và ông đã đoạn tuyệt với nó để tìm đến con đường nghệ thuật hiện thực “vị nhân sinh”. Trong truyện ngắn “Trăng sáng” (1943), được coi là một tuyên ngôn nghệ thuật đanh thép, cảm động, ông viết: “Chao ôi! Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than…”. Theo Nam Cao, người cầm bút không được “trốn tránh” sự thực, mà hãy “cứ đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời…”
Lên án văn chương thoát ly, Nam Cao không tán thành loại sáng tác "chỉ tả được cái bề ngoài của xã hội". Trong truyện ngắn “Đời thừa” (1943), Nam Cao cho rằng một tác phẩm "thật giá trị" thì phải có nội dung nhân đạo sâu sắc: “Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình... Nó làm cho người gần người hơn”. Đồng thời, nhà văn đòi hỏi cao sự tìm tòi sáng tạo trong nghề văn và lương tâm người cầm bút. Ông viết: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có” (Đời thừa). Ông coi sự cẩu thả trong nghề văn chẳng những là "bất lương" mà còn là "đê tiện". Sau cách mạng, Nam Cao say mê, tận tụy trong mọi công tác phục vụ kháng chiến được giao, không nề hà lớn nhỏ, với ý nghĩa dứt khoát: lợi ích cách mạng, lợi ích dân tộc là trên hết.
Nam Cao có sáng tác đăng báo từ 1936, nhưng sự nghiệp văn học của ông chỉ thật sự bắt đầu từ truyện ngắn “Chí Phèo” (1941), sáng tác của Nam Cao trước cách mạng tập trung vào hai đề tài chính: cuộc sống người trí thức tiểu tư sản nghèo và cuộc sống người nông dân ở quê hương. Ở đề tài người trí thức tiểu tư sản, đáng chú ý là các truyện ngắn: Những truyện không muốn viết, Trăng sáng, Mua nhà, Truyện tình, Quên điều độ, Cười, Nước mắt, Đời thừa… và tiểu thuyết Sống mòn (1944). Trong những sáng tác này, Nam Cao đã miêu tả hết sức chân thực tình cảnh nghèo khổ, dở sống dở chết của những người nghèo, những “giáo khổ trường tư”, nhà văn nghèo, viên chức nhỏ… Nhà văn đặc biệt đi sâu vào những bi kịch tâm hồn của họ, qua đó, đặt ra những vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn, vượt khỏi phạm vi của đề tài. Đó là tấn bi kịch dai dẳng, thầm lặng mà đau đớn của người trí thức có ý thức sâu sắc về giá trị sự sống và nhân phẩm, có hoài bão lớn về một sự nghiệp tinh thần, nhưng lại bị gánh nặng về cơm áo và hoàn cảnh xã hội ngột ngạt làm cho “chết mòn”, phải sống cuộc “đời thừa”. Những tác phẩm đó đã phê phán sâu sắc xã hội phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống, tàn phá tâm hồn con người, đồng thời, đã thể hiện sự tự đấu tranh bên trong của người trí thức tiểu tư sản trung thực cố vươn tới một cuộc sống đẹp đẽ, thực sự có ý nghĩa, xứng đáng là cuộc sống con người.
Nam Cao để lại chừng hai chục truyện ngắn viết về cuộc sống tăm tối thê thảm của người nông dân đương thời. Những truyện đáng chú ý là: Chí Phèo, Trẻ con không được ăn thịt chó, Mua danh, Tu cách mõ, Điếu văn, Một bữa no, Lão Hạc, Một đám cưới, Lang Rận, Dì Hảo, Nửa đêm... Ở đề tài này, Nam Cao thường quan tâm tới những hạng cố cùng, những số phận hẩm hiu, bị ức hiếp nhiều nhất. Họ càng hiền lành, nhịn nhục thì càng bị chà đạp phũ phàng. Ông đặc biệt đi sâu vào những trường hợp con người bị lăng nhục một cách độc ác, bất công, mà xét đến cùng, chẳng qua chỉ vì họ nghèo đói, khốn khổ. Tuy giọng văn lắm khi lạnh lùng, nhưng kỳ thực, Nam Cao đã dứt khoát bênh vực quyền sống và nhân phẩm những con người bất hạnh, bị xã hội đẩy vào tình cảnh nhục nhã đó (Chí Phèo, Một bữa no, Tư cách mõ, Lang Rận). Viết về những người nông dân bị lưu manh hóa, nhà văn đã kết án sâu sắc cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thế xác và linh hồn người nông dân lao' động, đồng thời, ông vẫn phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện, đẹp đẽ của họ, ngay trong khi họ bị vùi dập tới mất cả hình người, tính người. Nhà văn đã đặt ra vấn đề phải xác định "đôi mắt" đúng đắn để nhìn nhận về quần chúng. Ông luôn ý thức "cố mà tìm hiểu" cái "bản tính tốt" của người nông dân nghèo thường bị "che lấp", vùi dập. Trong nhiều tác phẩm, Nam Cao không những đã vạch ra nỗi khổ cùng cực của người nông dân mà còn thể hiện cảm động bản chất đẹp đẽ, cao quý trong tâm hồn của họ (Lão Hạc, Một đám cưới, Dì Hảo...).
Có thể nói, dù viết về người trí thức nghèo hay về người nông dân cùng khổ, diều làm cho Nam Cao day dứt tới đau đớn là tình trạng con người bị xói mòn về nhân phẩm, thậm chí bị hủy diệt cả nhân tính, trong cái xã hội phi nhân đạo đương thời.
Cũng như các nhà văn tiểu tư sản khác chưa nắm được chân lý cách mạng, Nam Cao không thấy được khả năng đổi đời của những người khốn cùng và triển vọng của xã hội. Song trong truyện ngắn “Điếu văn” (1944), ông đã viết những dòng dự báo sôi nổi: “Sự đời không thể cứ mù mịt mãi thế này đâu. Tương lai phải sáng sủa hơn. Một rạng đông đã báo rồi!”. Đó là lời chào đón thắm thiết tia sáng rạng đông đang báo hiệu ở chân trời lúc bấy giờ. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Nam Cao lao mình vào mọi công tác cách mạng và kháng chiến. Truyện ngắn Đôi mắt (1948) là một thành công xuất sắc của văn nghệ kháng chiến khi đó. Nhìn vào hình ảnh một trí thức cũ đi tản cư theo kháng chiến nhưng giữ nguyên lối sống trưởng giả, nhởn nhơ và "đôi mắt" khinh thường đối với quần chúng - hình ảnh thật lạc lõng giữa cuộc sống kháng chiến lành mạnh sôi nổi lúc bấy giờ. Người trí thức đi theo cách mạng càng thêm dứt khoát từ bỏ con người cũ, lôi sông cũ và quyết tâm "cách mạng hóa tư tưởng, quần chúng hóa sinh hoạt", trở thành những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa. “Nhật kí ở rừng” (1948) viết trong thời kỳ nhà văn công tác ở vùng sâu Bắc Cạn và tập kí sự “Chuyện biên giới” (1950) viết khi ông đi chiến dịch Cao - Lạng đều là những sáng tác giá trị của nền văn xuôi mới còn non trẻ khi đó. Nhà văn hy sinh giữa lúc tư tưởng và tài năng đang độ phát triển nhất trong thời đại mới, đầy hứa hẹn.
Ngòi bút Nam Cao vừa tỉnh táo, sắc lạnh, vừa nặng trĩu suy nghĩ và đằm thắm yêu thương. Văn Nam Cao vừa hết sức chân thực - ông coi sự thực là trên hết, không gì ngăn được nhà văn đến với sự thực - vừa thấm đượm ý vị triết lý trữ tình. Ông có sở trường diễn tả, phân tích tâm lý con người. Ngôn ngữ trong văn đầy sống động, uyển chuyển, tinh tế, rất gần với lời ăn tiếng nói quần chúng.
Với một tài năng lớn, giàu sức sáng tạo, Nam Cao đã góp phần quan trọng vào việc cách tân nền văn xuôi Việt Nam theo hướng hiện đại hóa.
Thuyết minh về nhà văn Nam Cao - Mẫu 5
Nam Cao ( 1917 - 1951) là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Tên khai sinh của nhà văn là Trần Hữu Tri, sinh ra trong một gia đình nông dân. Quê ở làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, phủ Lý Nhân (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân), tỉnh Hà Nam. Sau khi học hết bậc Thành trung, Nam Cao vàng Sài Gòn kiếm sống và bắt đầu sáng tác. Sau hơn ba năm đau ốm, ông phải trở về quê. Sau đó, ông dạy học cho một trường tư thục ở ngoại ô Hà Nội. Nhưng cuộc đời của một ông giáo trường tư cũng không được yên ổn: Nhật kéo vào Đông Dương, trường học phải đóng cửa, ông sống chật vật, vất vả bằng nghề viết văn và làm gia sư.Đầu năm 1943, Nam Cao tham gia nhóm Văn hóa cứu quốc ở Hà Nội, nhưng bị địch khủng bố gắt gao, ông phải lánh về quê, tham gia cuộc Tổng khởi nghĩa (8 - 1945) ở Lý Nhân. Năm 1946, ông có mặt trong đoàn quân Nam tiến với tư cách là một phóng viên. Năm 1947, ông lên Việt Bắc làm công tác báo chí, tuyên truyền phục vụ kháng chiến. Tháng 11 năm 1951, trên đường vào công tác ở vùng địch hậu Liên khu III, ông bị giặc phục kích và sát hại.
Con người Nam Cao nhìn bề ngoài có vẻ lạnh lùng, vụng về, ít nói, nhưng đời sống nội tâm lại rất phong phú. Ông là người có tấm lòng đôn hậu, chan chứa yêu thương, gắn bó sâu nặng giàu ân tình với quê hương, những người nghèo khổ bị áp bức, khinh miệt trong xã hội cũ. Nam Cao quan niệm rằng không có tình yêu thương đồng loại thì không đáng gọi là con người (Đời thừa).
Trong suốt cuộc đời cầm bút, Nam Cao luôn suy nghĩ về vấn đề “sống và viết”, rất có ý thức về quan điểm nghệ thuật của mình. Khi mới cầm bút, Nam Cao còn chịu ảnh hưởng của văn học lãng mạn đương thời. Nhưng ông dần nhận ra thứ văn chương đó rất xa lạ với đời sống lầm than của nhân dân lao động, ông quyết định đoạn tuyệt với nó để tìm đến con đường nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa. Quan điểm nghệ thuật của Nam Cao được thể hiện ngay trong các tác phẩm của ông. Với Nam Cao, “Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì đó lớn lao, mạnh mẽ, đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn” (Đời thừa, 1943). Ông cũng luôn đòi hỏi rất cao sự tìm tòi sáng tạo trong nghề viết văn: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những gì chưa có” (Đời thừa, 1943). Sau Cách mạng, ông vẫn tích cực tham gia vào cuộc kháng chiến, sẵn sàng hy sinh thứ nghệ thuật cao siêu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ông quan niệm rằng: “Sống đã rồi hãy viết”, “góp sức vào công việc không nghệ thuật lúc này chính là để sửa soạn cho tôi một nghệ thuật cao hơn” (Nhật kí ở rừng, 1948).
Các sáng tác của nhà văn Nam Cao xoay quanh hai mảng đề tài chính. Đó là người nông dân nghèo đói bị vùi dập với các tác phẩm nổi tiếng như Lão Hạc, Chí Phèo, Dì Hảo, Một bữa no, Một đám cưới, Trẻ con không được ăn thịt chó, Mua danh… Và người trí thức nghèo, sống mòn mỏi bế tắc trong xã hội xưa cũ: Đời thừa, Giăng sáng, Những truyện không muốn viết, Mua nhà, Quên điều độ, Cười… Dù viết về người nông dân hay người trí thức, các sáng tác của Nam Cao vẫn chứa đựng một nội dung triết học sâu sắc. Ông luôn trăn trở về vấn đề nhân phẩm, thái độ trọng khinh đối với con người. Thậm chí ông luôn day dứt tới mức đau đớn trước tình trạng xã hội vô nhân đạo đã đày đọa con người trong sự nghèo đói, vùi dập ước mơ, lẽ sống cao đẹp của họ. Các sáng tác sau cách mạng của Nam Cao chủ yếu phục vị cuộc kháng chiến với các tác phẩm như: Nhật ký ở rừng (1948), truyện ngắn Đôi mắt (1948), tập kí sự Chuyện biên giới (1950)...
Mỗi nhà văn đều có phong cách sáng tác riêng. Đó là thứ “vân tay” để phân biệt dấu ấn của các tác giả. Nam Cao cũng vậy. Ông là nhà văn có biệt tài diễn tả, phân tích tâm lí nhân vật. Nam Cao tỏ ra sắc sảo trong việc phân tích, diễn tả những trạng thái, quá trình tâm lý phức tạp, hiện tượng lưỡng tính dở say dở tỉnh, dở khóc dở cười… Ngoài ra, ông còn tạo được những đoạn đối thoại, độc thoại nội tâm rất chân thật, sinh động.
Như vậy, Nam Cao quả là một nhà văn xuất sắc của nền văn học hiện thực Việt Nam. Bạn đọc yêu văn Nam Cao sẽ còn mãi nhớ đến những giá trị sâu sắc trong các sáng tác của ông.
Thuyết minh về nhà văn Nam Cao - Mẫu 6
Nam Cao (1917 - 1951) là một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Ông có nhiều đóng góp quan trọng đối với hoàn thiện truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam hiện trên quá trình hiện đại hóa ở nửa đầu thế kỉ XX.
Nam Cao tên khai sinh là Trần Hữu Tri. Quê làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân (nay là xã Hoà Hậu, huyện Lý Nhân), tỉnh Hà Nam. Ông được coi là một nhà văn hiện thực xuất sắc trước Cách mạng tháng 8, với những truyện ngắn, truyện dài chân thực viết về người nông dân nghèo đói bị vùi dập và người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ. Sau Cách mạng, Nam Cao sáng tác tận tụy sáng tác phục vụ kháng chiến. Ông đã hy sinh trên đường vào công tác vùng sau lưng địch tháng 11 năm 1951.
Nam Cao luôn quan niệm rằng: “Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì đó lớn lao, mạnh mẽ, đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn” (Đời thừa, 1943). Đối với nghề viết văn, Nam Cao cho rằng: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những gì chưa có” (Đời thừa, 1943). Ông còn cho rằng: “Nghệ thuật vị nhân sinh” - văn chương phải hướng đến cuộc sống của con người.
Nam Cao là nhà văn có biệt tài diễn tả, phân tích tâm lí nhân vật. Nam Cao tỏ ra sắc sảo trong việc phân tích, diễn tả những trạng thái, quá trình tâm lý phức tạp, hiện tượng lưỡng tính dở say dở tỉnh, dở khóc dở cười… Ngoài ra, ông còn tạo được những đoạn đối thoại, độc thoại nội tâm rất chân thật, sinh động.
Các sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng xoay quanh hai mảng đề tài chính: người trí thức nghèo và người nông dân nghèo. Về mảng đề tài người trí thức nghèo, Nam Cao miêu tả sâu sắc tấn bi kịch tinh thần của người trí thức nghèo trong xã hội đương thời trước 1945, đó là những “giáo khổ trường tư” - những nhà văn nghèo, những viên chức nhỏ. Họ là những trí thức có hoài bão, tâm huyết và tài năng; nhưng lại bị gánh nặng áo cơm và hoàn cảnh xã hội ngột ngạt làm cho “chết mòn” và phải sống như “một kẻ vô ích, một người thừa”. Qua đó nhà văn muốn phê phán sâu sắc xã hội ngột ngạt, phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống, tàn phá tâm hồn con người, đồng thời nói lên khao khát một lẽ sống lớn, có ích, có ý nghĩa, xứng đáng là cuộc sống con người. Về mảng đề tài người nông dân nghèo, Nam Cao đã vẽ lên một bức tranh chân thực về nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám với cảnh nghèo đói, xơ xác và thậm chí bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa. Nam Cao không hề bôi nhọ người nông dân, trái lại, đã đi sâu vào nội tâm nhân vật để khẳng định nhân phẩm và bản chất lương thiện ngay cả khi bị vùi dập, cướp mất cà nhân hình, nhân tính của người nông dân. Đồng thời, ông cũng kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo đó trước 1945. Sau Cách mạng, Nam Cao là cây bút tiêu biểu của văn học giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) với những tác phẩm phục vụ cuộc kháng chiến.
Các tác phẩm của Nam Cao thuộc nhiều thể loại khác nhau. Về truyện ngắn có Chí Phèo (1941), Giăng sáng (1942), Đời thừa (1943), Một đám cưới (1944), Đôi mắt (1948)...; tiểu thuyết: Sống mòn (1944)...; thể loại khác: Nhật kí ở rừng (1948), kí sự Chuyện biên giới (1951)...
Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Nam Cao có thể kể đến truyện ngắn Chí Phèo. “Chí Phèo” là một trong những truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn Nam Cao. Truyện ban đầu có tên là Cái lò gạch cũ. Nhưng khi in thành sách lần đầu, nhà xuất bản đã tự đổi tên là Đôi lứa xứng đôi (NXB Đời mới, Hà Nội, 1941). Năm 1946, khi in lại trong tập Luống cày, Nam Cao đã đổi tên thành Chí Phèo. Chí Phèo là một trong những kiệt tác văn xuôi Việt Nam hiện đại với giá trị hiện thực và nhân văn sâu sắc. Truyện kể về cuộc đời của Chí Phèo - một đứa trẻ mồ côi bị bỏ lại trong một cái lò gạch bỏ không. Sau này, Chí được dân làng truyền tay nhau nuôi lớn. Đến năm hai mươi tuổi, Chí đến làm canh điền cho nhà Bá Kiến. Chỉ vì một chuyện ghen tuông không đâu, bá Kiến đã đẩy Chí đi ở tù. Khi từ tù ra, Chí Phèo đã hoàn toàn thay đổi cả về nhân hình lẫn nhân tính. Hắn trở thành tay sai đi đòi nợ thuê cho Bá Kiến, chuyên đi uống rượu và vạch mặt ăn vạ. Cả làng Vũ Đại đều sợ Chí. Tình cờ, một lần Chí Phèo đã gặp Thị Nở - người đàn bà xấu đến ma chê quỷ hờn. Hắn ôm chầm lấy Thị Nở và ăn nằm với Thị. Sáng hôm sau, Chí Phèo bị cảm, Thị Nở nấu cho Chí bát cháo hành để giải rượu. Chính bát cháo đã làm Chí Phèo thức tỉnh, khao khát trở về làm người lương thiện. Nhưng lời nói của bà cô do thị Nở nhắc lại khiến Chí đau đớn và tuyệt vọng. Hắn uống rượu và xác dao định đến nhà đâm chết thị và bà cô. Nhưng Chí lại đến nhà đâm chết Bá Kiến rồi tự sát. Chí Phèo là nhân vật điển hình, có tính khái quát cho một bộ phận nhân dân lương thiện bị đẩy vào con đường lưu manh, tha hóa. Với nhân vật này, nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo đã tàn phá cả thế xác lẫn tâm hồn của người nông dân lao động. Đồng thời, qua đó Nam Cao cũng khẳng định bản chất lương thiện của họ ngay cả khi bị vùi dập mất cả nhân hình, nhân tính. “Chí Phèo” đã trở thành một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nam Cao.
Có thể thấy, Nam Cao là một nhà văn đã có những đóng góp to lớn cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Các tác phẩm của ông đã để lại nhiều bài học giá trị sâu sắc cho người đọc.
Thuyết minh về nhà văn Nam Cao - Mẫu 7
Nam Cao (1915 - 1951) là nhà văn Việt Nam, người đại diện tiêu biểu của trào lưu văn học hiện thực phê phán trong thời kì phát triển cuối cùng (1940 - 1945), là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp.
Tên khai sinh của ông là Trần Hữu Tri, quê làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân (nay là xã Hoà Hậu, huyện Lý Nhân), tỉnh Hà Nam. Ông được coi là một nhà văn hiện thực xuất sắc trước Cách mạng tháng 8, với những truyện ngắn, truyện dài chân thực viết về người nông dân nghèo đói bị vùi dập và người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ. Sau Cách mạng, Nam Cao chân thành, tận tụy sáng tác phục vụ kháng chiến. Ông đã hy sinh trên đường vào công tác vùng sau lưng địch, để lại một tấm gương cao đẹp của một nhà văn - chiến sĩ.
Quan niệm nghệ thuật của Nam Cao là: “Nghệ thuật vị nhân sinh” (tức là nghệ thuật phải viết về con người và hướng đến những điều tốt đẹp của con người); ông phê phán quan niệm “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Nhà văn đã có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam trên quá trình hiện đại hóa ở nửa đầu thế kỉ XX. Ông luôn suy nghĩ về vấn đề và rất có ý thức về quan điểm nghệ thuật của mình.
Về phong cách nghệ thuật, Nam Cao đề cao con người tư tưởng, đặc biệt chú ý tới hoạt động bên trong của con người, coi đó là nguyên nhân của những hoạt động bên ngoài - đây là phong cách rất độc đáo của Nam Cao. Ông quan tâm tới đời sống tinh thần của con người, luôn hứng thú khám phá “con người trong con người”. Tâm lí nhân vật trở thành trung tâm của sự chú ý, là đối tượng trực tiếp của ngòi bút Nam Cao. Ông thường viết về những cái nhỏ nhặt, xoàng xĩnh. Từ cái sự tầm thường quen thuộc trong đời sống hàng ngày của “Những truyện không muốn viết”, tác phẩm của Nam Cao làm nổi bật vấn đề xã hội có ý nghĩa to lớn triết lý sâu sắc về con người, cuộc sống và nghệ thuật. Giọng điệu riêng, thường có sắc thái buồn thương, chua chát. Ông có phong cách nghệ thuật triết lý trữ tình sắc lạnh.
Sự nghiệp sáng tác của Nam Cao được chia làm hai giai đoạn: trước Cách mạng và sau Cách mạng. Một số tác phẩm trước cách mạng như Chí Phèo, Trăng sáng, Đời thừa, Sống mòn. Một số tác phẩm sau Cách mạng như truyện ngắn Đôi mắt , tập nhật kí Ở rừng…
Trong số đó nổi bật là truyện ngắn Lão Hạc. Đây là một trong những truyện ngắn viết về người nông dân của Nam Cao, đăng báo lần đầu năm 1943. Tác phẩm được đánh giá là một trong những truyện ngắn khá tiêu biểu của dòng văn học hiện thực, nội dung truyện đã phần nào phản ánh được hiện trạng xã hội Việt Nam trong giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám. Câu chuyện kể về lão Hạc có một người con trai, một mảnh vườn và một con chó vàng. Con trai lão Hạc đi phu đồn điền cao su, lão chỉ còn lại “cậu Vàng”. Vì muốn để lại mảnh vườn cho con, lão phải bán con chó mặc dù hết sức buồn bã và đau xót. Lão mang tiền dành dụm được gửi ông giáo và nhờ trông coi mảnh vườn. Cuộc sống mỗi ngày một khó khăn, lão kiếm được gì ăn nấy và bị cảm một trận khủng khiếp. Lão từ chối tất cả những gì ông giáo giúp. Một hôm lão xin Binh Tư ít bả chó nói là để giết con chó hay đến vườn, làm thịt và rủ Binh Tư cùng uống rượu. Ông giáo rất buồn cho lão khi nghe tin Binh Tư kể chuyện ấy. Lão bỗng nhiên chết - cái chết thật dữ dội. Cả làng không hiểu vì sao lão chết, trừ Binh Tư và ông giáo. Cái chết của lão đau đớn và dữ dội, gây cho người đọc nhiều sự xúc động, xót xa. Truyện được thể hiện qua lời kể của nhân vật tôi - ông giáo, và dường như đâu đó trong nhân vật này ta thấy hiện lên giọng kể của tác giả.Nghệ thuật viết truyện của Nam Cao có những đặc sắc, độc đáo mà đa dạng.
Tác phẩm của Nam Cao vừa rất mực chân thật vừa có một ý vị triết lý, một ý nghĩa khái quát sâu xa. Ngòi bút hiện thực tỉnh táo nghiêm ngặt vừa sắc lạnh, gân guốc lại vừa thắm thiết trữ tình. Nhà văn tỏ ra có sở trường miêu tả tâm lí con người, nhất là khi đi vào những diễn biến tâm lý tinh tế, phức tạp. Có thể nói, về nhiều mặt, tác phẩm Nam Cao đánh dấu một bước phát triển mới của văn xuôi quốc ngữ Việt Nam, mới hình thành hơn nửa thế kỉ nhưng đang hiện đại hoá với một tốc độ thật nhanh chóng.
Có thể khẳng định được rằng, nhà văn Nam Cao đã để lại trong lòng độc giả yêu văn học hiện thực những ấn tượng vô cùng sâu sắc. Các tác phẩm của ông vẫn sẽ còn sống mãi với thời gian.