Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích nhân vật ông hai trong tác phẩm làng

Phân tích nhân vật ông hai trong tác phẩm làng
4 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
74
2
3
Thành
04/09/2023 20:15:41
+5đ tặng

Nhà văn Kim Lân là một người được sinh ra và lớn lên ở vùng quê nên ông có sự am hiểu sâu rộng về nông thôn Việt Nam và cảm thông cho những cảnh ngộ của người nông dân. Bởi vậy, khi viết về mảng đề tài cuộc sống của con người ở nông thôn Việt Nam thì ông vô cùng thành công. Truyện ngắn "Làng" của ông là một truyện ngắn đặc sắc tiêu biểu cho chủ đề này. Truyện xoay quanh nhân vật ông Hai - một người nông dân hiền lành, chất phác và mang trong mình một tình yêu làng quê, yêu đất nước thật to lớn.

Truyện ngắn Làng của ông được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, khi mà những người dân miền Bắc được lệnh tản cư. Ông Hai trong tác phẩm là một người con của ngôi làng Chợ Dầu, ông cùng gia đình phải tản cư để phục vụ cho kháng chiến. Thế nhưng, rời xa nơi quê hương yêu dấu ấy, trong lòng ông vẫn luôn trăn trở, khôn nguôi nỗi nhớ thương về ngôi làng của mình.

Đầu tiên, tình yêu của ông với làng được thể hiện qua sự tự hào của ông về ngôi làng thân yêu ấy. Ông đi đến đâu cũng khoe về làng, thể hiện sự hãnh diện về ngôi làng của ông. Mỗi lần kể, ông luôn vô cùng say mê, khuôn mặt biến chuyển theo từng câu từ, đôi mắt hiện lên sự háo hức, ông có thể nói với bất kỳ ai về đề tài ấy mà chẳng biết mệt mỏi. Khi kể, ông cũng chẳng để ý người nghe có nghe không, có chú ý không, ông vẫn say sưa kể bất chấp tất cả. Thế nhưng giờ đây ông đã rời xa ngôi làng thân yêu ấy để đưa gia đình đi tản cư và rồi bao nỗi nhớ nhung từ đáy lòng ấy khiến ông phải thốt lên: "Chao ôi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá!" Càng yêu bao nhiêu, càng thương nhớ bao nhiêu thì ông lại càng mong chờ tình hình từ làng mình. Ngày nào cũng vậy, ông đều đến phòng thông tin mà nghe ngóng những thông tin về làng, về kháng chiến. Khi nghe được những tin tốt được truyền tới, ruột gan ông như nhảy múa, ông vui sướng đến tột cùng. Tâm lý đó chính là những gì thường thấy ở những người nông dân với làng quê, với đất nước, họ luôn mong ngóng từng ngày đất nước sạch bóng quân thù để được trở về làng, về nơi quê hương máu thịt của mình.

Thế nhưng một sự kiện bất ngờ đã xảy đến khiến ông Hai như sụp đổ: ông hay tin cả làng chợ Dầu theo giặc. Nghe tin dữ ây mà ông Hai như chết lặng đi: "Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như không thở được". Từ những sự vui tươi, tự hào thì ông Hai đã rơi vào sự xót xa, tuyệt vọng. Ông cố che giấu tâm trạng của mình, kiếm cớ lảng tránh, "cúi gằm mặt mà đi". Bên tai ông vẫn văng vẳng lên những tiếng chửi "giống Việt gian bán nước" sao đầy đau đớn, xót xa.

Về nhà, ông nằm vật ra giường, rồi lại đầy xót xa nhìn đàn con thơ mà nước mắt ông cứ dàn ra. Những suy nghĩ trong đầu cứ dằn vặt ông đầy day dứt, đau đớn: "Chúng nó là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta hắt hủi đấy ư?..." Càng ngẫm, ông lại càng căm thù cái lũ phản bội làng nước, để rồi ông phải nắm chặt hai tay mà rít lên: "Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này". Nhưng sau đó, chút niềm tin trong ông lại khiến ông ngờ ngợ, ông kiểm điểm lại từng người trong óc và ông đều khẳng định họ đều là những người có tinh thần kháng chiến, chẳng nhẽ nào họ lại đi làm cái điều bán nước cầu vinh đầy nhục nhã ấy. Cái tin làng ông theo giặc đã thành một sự ám ảnh, day dứt trong tâm trí khiến ông chẳng dám bước chân ra đến ngoài. Ông thu mình lại, cảm thấy đầy tuyệt vọng như thể chính bản thân ông cũng là người gây nên tội.

Sự tuyệt vọng được đẩy lên tới đỉnh điểm khi mà bà chủ nhà đánh tiếng muốn đuổi gia đình ông đi bởi "nghe nói bảo có lệnh đuổi hết những người làng chợ Dầu ra khỏi vùng này, không cho ở nữa". Lúc này ông Hai thật rối bời, ông chẳng biết đi đâu nữa. Cái suy nghĩ trở về làng cũng thoáng xuất hiện trong đầu nhưng ông đã gạt ngay đi bởi "về làng tức là chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây", là bỏ kháng chiến, phản bội lại cụ Hồ. Trong ông diễn ra một cuộc chiến đầy giằng xé nhưng cuối cùng ông vẫn phải đưa ra một quyết định đầy đau đớn "Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù". Tình yêu đất nước của ông đã bao trùm lên tinh yêu làng, thể hiện tấm lòng của ông với cách mạng, với Tổ quốc.

Bước ngoặt của câu chuyện lại đến khi mà tin cải chính đến, làng của ông không đi theo Tây. Lúc này ông hạnh phúc đến tột độ, cuộc đời ông như được hồi sinh lại lần nữa: "Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên". Ông đi khắp làng trên xóm dưới để khoe nhà của ông đã bị Tây đốt hết, đốt nhẵn. Đáng nhẽ ra tâm lý bình thường của một người khi bị mất đi thứ tài sản lớn như ngôi nhà thì sẽ buồn bã, đau lòng, thế nhưng ông Hai lại tràn ngập niềm vui khi nhận được tin này. Bởi thông tin này đến khiến ông thoát khỏi cái tên"người làng Việt gian", nó khẳng định rằng làng ông vẫn một lòng đứng về kháng chiến, ủng hộ cách mạng... Và giờ đây, ông lại tiếp tục được khoe với mọi người về ngôi làng mà ông rất đỗi tự hào. Sự bất hợp lý ấy lại trở nên vô cùng hợp lý, thể hiện sự tài tình của nhà văn Kim Lân. 

Truyện ngắn "Làng" được nhà văn Kim Lân vận dụng đầy sáng tạo với những tình huống kịch tính, ngôn ngữ bình dị, khả năng miêu tả tâm lý nhân vật để đẩy ông Hai vào sự bế tắc và rồi làm nổi bật lên được tâm hồn và tình yêu làng quê, đất nước của nhân vật này. Qua hình tượng ông Hai, người ta đã thấy một hình ảnh tiêu biểu cho những người nông dân Việt Nam trong cuộc chiến giành độc lập của dân tộc. 

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
3
3
Hồng Anh
04/09/2023 20:16:51
+4đ tặng

Khi tạo nên một tác phẩm văn học, một nhà văn chân chính cho dù viết về đề tài nào thì điểm xuất phát và đích đến cuối cùng vẫn luôn hướng đến những sự trung thực và dung dị về còn người. Bởi vậy mà nhà văn Nguyễn Minh Châu từng nói rằng: "Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người". Khi đắm chìm vào mỗi tác phẩm, chúng ta lại bắt gặp những con người khác nhau với những nét tính cách khác nhau, tất cả đã tổng hoà tạo nên một thế giới văn chương đa sắc màu. Đến với truyện ngắn "Làng" của nhà văn Kim Lân, chúng ta được gặp một người nông dân hiền lành, chất phác, chịu khó với một trái tim yêu làng tha thiết, một linh hồn yêu nước đến nồng nàn - đó chính là nhân vật ông Hai.

Truyện ngắn "Làng" của nhà văn Kim Lân được ra đời vào năm 1948 với bối cảnh của một cuộc tản cư trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp. Truyện xoay quanh nhân vật ông Hai - một người nông dân làng chợ Dầu phải đi tản cư bởi chiến tranh. Thế nhưng trong ông vẫn luôn là những sự trăn trở, nhớ thương về làng mình với biết bao những lưu luyến khôn nguôi. Từ một con người yêu làng, yêu quê hương của mình ông đã trở thành người của kháng chiến, của cách mạng chung.

Ông Hai trước tiên hiện lên với hình ảnh của một người vô cùng yêu làng, tình yêu ấy thể hiện bằng cái sự hay khoe làng của ông. Có lẽ hình ảnh về ngôi làng thân thuộc ấy luôn in sâu, hiện hữu ở trong tâm trí người nông dân ấy để khi nói đến làng quê của mình thì "hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển, hoạt động". Hơn nữa, ông Hai khoe làng xuất phát từ sự nhiệt tình ở trong trái tim. Ông chẳng cần những người xung quanh chú ý, cũng chẳng biết họ có đang nghe hay không, ông nói như thể để thoả nỗi mong nhớ, để thể hiện sự tự hào của mình về làng. Thời gian trôi đi thì những lời kể của ông về ngôi làng thân thuộc ấy cũng có những sự biến chuyển. Thế nhưng tình yêu làng trong ông thì vẫn vậy, vẫn vẹn nguyên mà chẳng hề đổi thay.

Dù phải xa quê hương đến sống nơi đất khách quê người, thế nhưng tấm lòng của ông thì luôn hướng về quê hương, về làng. Trong ông là những mảng kí ức về ngày tháng được cùng các anh em đào đường, lấp ụ, xẻ hào, khuân đá.... Và càng hồi tưởng, nỗi nhớ ấy ở trong ông lại càng trào dâng mãnh liệt, nỗi nhớ ấy giống như những cơn sóng dồn dập đánh vào trái tim ông và để rồi ông Hai phải thốt lên: "Chao ôi, ông lão nhớ làng. Nhớ cái làng quá!". Ẩn sau sự nhung nhớ ấy chính là một niềm khao khát mãnh liệt được trở về chốn cũ, là một tình yêu làng bất diệt. Cũng vì nhớ, vì yêu làng đến da diết nên ông Hai thường hay tới phòng thông tin để nghe tin tức về kháng chiến. Trên đường đi, gặp ai ông cũng níu lại, cười cười, ông vui với cả cái nắng chang chang bởi Tây nó ngồi trong vị trí giờ bằng ngồi tù. Ông lại càng phấn khởi hơn khi nghe được những tin thắng lợi của kháng chiến, những chiến công đáng khâm phục của làng mình.

Thế nhưng trong lúc tâm trạng đầy phấn khởi như vậy ông Hai như chết lặng đi khi hay tin làng Chợ Dầu đã theo giặc. Lúc này "cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng không thở được". Thế giới nội tâm đầy phức tạp của ông Hai đã được nhà văn Kim Lân làm hiện lên thật tài tình qua miêu tả chân thực nét mặt và cử chỉ của nhân vật. Ông lão bàng hoàng và sững sờ, như thể đang có một bàn tay vô hình bóp nghẹt lấy trái tim ông. Cái tin dữ ấy đến một cách đầy bất ngờ mà ông chẳng thể tiếp nhận được. Ông hỏi đi hỏi lại như đang hi vọng rằng đó chỉ là một lời đồn vô căn cứ: "Liệu có thật không hở bác. Hay là chỉ lại...". Và rồi khi được nghe câu trả lời đầy chắc nịch rằng làng Chợ Dầu "Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi" thì tất cả trong ông như sụp đổ. Biết bao sự tin yêu, tự hào về chốn quê hương mà ông luôn đem đi khoe với mọi người như đã tan biến mất. Và rồi ông bâng quơ thốt lên: "Hà, nắng gớm. về nào". Câu nói nghe tưởng chừng rất bình thường nhưng là cái cớ để ông vin vào đó rời khỏi đây bởi ông chẳng thể nào có đủ can đảm đứng lại để nghe họ đàm tiếu về làng mình, về nơi mà ông đã từng vô cùng tự hào. Nếu như trên đường ông đi tới phòng thông tin vui vẻ, hiên ngang biết bao thì giờ đây, trên đường về ông lại "cúi gằm mặt mà đi". Lúc này, tâm trạng của ông lão đầy những ngổn ngang, như thể ông vừa mất đi thứ gì thiêng liêng lắm. 

Ôi, ngôi làng mà ông luôn tự hào, luôn khoe khoang như một điển hình về đấu tranh chống giặc ngoại xâm mà giờ đây ông lại nghe tin làng của mình theo giặc. Ông mang theo những hỗn độn về tới nhà rồi "nằm vật ra giường", ông chẳng còn tâm trí, sức lực để làm điều gì cả. Nhìn đám con của mình, trong tâm trí ông hiện ra bao câu hỏi đầy giằng xé, cay đắng: "Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu...". Nhà văn Kim Lân đã vô cùng thành công khi dùng nghệ thuật độc thoại nội tâm để thể hiện cho người đọc thấy nỗi lòng của ông Hai. Lão nông ấy vừa thương xót cho số phận chính mình, vừa thương cho đám trẻ non nớt ấy bởi đè nặng lên gia đình ông - những người làng Chợ Dầu giờ đây là cái tên "giống Việt gian bán nước". Chao ôi, sao giờ đây ông căm ghét lũ phản nước theo giặc đến vậy, Tất cả những nỗi phẫn uất, căm hận như được dồn nén vào từng câu chữ của ông: "Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này". Ông điểm lại trong đầu từng người anh em cùng nhau đồng cam cộng khổ, thế nhưng trong tâm trí ông những con người ấy đều tràn đầy một lòng yêu nước đến nồng nàn. Thế nhưng "Mà thằng chánh Bệu thì đích thị là người làng không sai rồi. Không có lửa làm sao có khói? Ai người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì?". Những suy nghĩ ấy cứ dồn dập kéo tới, như ngàn vạn nhát dao đâm vào tim ông và ông buộc phải tắt đi những đốm lửa niềm tin cuối cùng còn le lói. Trước tin dữ ấy, ông bất lực, tâm hồn ông đã bị những đau thương xâm chiếm không thể nào diễn tả bằng lời. Ông đau cho chính mình, đau cho làng và cả những người đồng hương chung cảnh hộ: "Lại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã rõ cái cớ sự này chưa?". Nỗi bứt rứt trong lòng của ông bị dồn nén, ông không muốn nghe đến những điều tồi tệ đó bởi nó chẳng khác nào việc xát muối vào vết thương. Nỗi lo ấy khiến ông trằn trọc không ngủ được, nó hành hạ ông cả về thể xác lẫn tinh thần. Từ khi đón tin dữ làng theo giặc, ông Hai chẳng khác nào người mất hồn. Ông cũng cảm thấy như thể mình là người có tội, ông tuyệt giao với mọi người và chẳng bước chân ra đến ngoài. Với ông, một người luôn yêu làng, tự hào về làng thì cái tin ấy chẳng khác nào một cú đánh trực diện, đánh vào tự tôn, danh dự của ông. 

Và rồi gia đình ông thực sự rơi vào bế tắc khi mụ chủ nhà đánh tiếng muốn đuổi gia đình ông đi. Trong cái lúc tuyệt vọng tột cùng ấy, ông đã thoáng nghĩ hay quay trở về làng. Thế nhưng ông đã dập tắt ngay cái ý nghĩ đó bởi dù có yêu làng da diết đến đâu thì ông vẫn biết giờ làng đã theo gót Tây, "về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ". Sự yêu nước vẫn đang không ngừng chảy khắp từng tế bào trong cơ thể của ông. Và rồi ông đã đưa ra một quyết định dứt khoát nhưng đầy đau đớn: "Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù". Đứng trước sự lựa chọn đầy khó khăn ấy, ông Hai đã một lần nữa khẳng định rằng tình yêu nước, yêu dân tộc của ông mạnh mẽ đến nhường nào.

Qua biết bao nhiêu những sự buồn vui lẫn lộn, những hi vọng rồi tuyệt vọng, từ hãnh diện tự hào đến những đau đớn tủi nhục thì cái tin làng cải chính đã đến với ông Hai. Ông như được tái sinh, như cởi bỏ được hết những gánh nặng đè lên ông bấy lâu nay và rồi "cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên". Và rồi ông vui sướng đến tột độ, ông đi báo tin làng bị giặc phá với một niềm hạnh phúc "Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ, đốt nhẵn...". Chao ôi, ngôi nhà là một tài sản lớn lao thế nhưng lúc này nhà bị đốt ông lại thấy vui, ông vui bởi nó chứng tỏ một điều rằng làng ông không hề theo giặc và vẫn yêu nước, vẫn ủng hộ kháng chiến, ủng hộ cụ Hồ. Và từ lúc này đây ông đã thoát được cái tên "người làng Việt gian", ông lại tiếp tục được khoe khoang về ngôi làng mà ông rất đỗi yêu thương, tự hào. 

Nhà văn Kim Lân đã vô cùng thành công khi xây dựng một cốt truyện tâm lý, tình huống truyện được tạo ra đầy căng thẳng để từ đó làm bộc lộ tâm trạng, tính cách của nhân vật. Ông cũng rất thành công khi sử dụng ngôn ngữ rất giản dị, chân thật của người nông dân Bắc Bộ để tạo nên sự gần gũi, thân thuộc với người đọc. Tất cả những yếu tố như nhân vật, ngôn ngữ, tình huống truyện... đã được tổng hoà, biến tấu một cách đầy khéo léo để cho người đọc cảm nhận được từng biến chuyển, bước ngoặt trong diễn biến tâm lý của nhân vật ông Hai.

Có thể nói Làng là một trong những truyện ngắn rất thành công về khả năng miêu tả tâm lý nhân vật của nhà văn Kim Lân. Nhân vật ông Hai là đại diện những người nông dân cần cù, chất phác, thật thà, dám hi sinh tất cả mọi thứ chứ không khuất phục giặc. Đó chính là vẻ đẹp tình yêu quê hương, đất nước, là sự giác ngộ cách mạng của những người nông dân ấy - một vẻ đẹp thật đáng trân trọng.

1
2
Tiến Dũng
04/09/2023 20:17:33
+3đ tặng

Nếu như trước Cách mạng Tháng Tám, Ngô Tất Tố mang tới một chị Dậu với sức sống mãnh liệt của người nông dân, Nam Cao mang tới một Lão Hạc đầy lòng tự trọng và tình yêu thương con vô bờ bến,… thì sau Cách mạng Tháng Tám, Kim Lân – nhà văn nông dân – mang tới cho bạn đọc hình ảnh người nông dân thời kì đổi mới. Đó chính là nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” với tình yêu làng quê và lòng yêu nước sâu đậm, tha thiết.

Sinh ra và lớn lên nơi làng quê Việt Nam, giữa những người nông dân chất phác, nhà văn Kim Lân đã sớm gắn bó và am hiểu sâu sắc về cuộc sống ở nông thôn, sáng tác nhiều tác phẩm về đề tài này. Trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, khi người dân miền Bắc được lệnh tản cư, ông lại một lần nữa khắc họa hình ảnh người nông dân trong truyện ngắn “Làng”, không phải trong những vấn đề thường nhật, mà về tình yêu làng quê và đất nước của những con người chân lấm tay bùn ấy. Tác phẩm được đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn nghệ năm 1948, đánh dấu bước chuyển biến tích cực trong hình tượng người nông dân và nhân thức của họ, đặc biệt qua nhân vật ông Hai.

Nét tính cách đầu tiên và dễ nhận thấy nhất ở ông Hai là tình yêu tha thiết đối với làng ông. Đối với người nông dân, làng không chỉ là một đơn vị hành chính, địa lí. Ở đó chứa đựng cuộc sống của họ, tất cả những gì gần gũi và thân thuộc với họ. Làng chính là quê hương, là cuộc đời họ. Ông Hai cũng vậy, ông có tính hay khoe làng với tất cả niềm hãnh diện. “Ông nói về cái làng ấy một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai mắt ông sáng hẳn lên, khuôn mặt biến chuyển hoạt động.” Tình yêu làng đã biến ông Hai thành một con người hoàn toàn khác so với một ông Hai bị gò bó, tù túng trong căn bếp tản cư. Một nguồn sinh lực mới như dồi dào trong ông lúc đó. Tối này đến tối khác, ông nói đi nói lại về cái làng của ông.

Kim Lân điểm nhịp câu chuyện bằng những lời trách móc ông hàng xóm nhãng ý không nghe chuyện, nhưng kỳ thực là để cho ta thấy rằng ông Hai không thực sự cần bác Thứ nghe, ông nói cho chính mình, nói để cho sướng miệng và cũng để thỏa nỗi nhớ làng. “Ông lại nghĩ về cái làng của ông, lại nghĩ đến những ngày cùng làm việc với anh em. […] Ông lại muốn về làng, lại muốn được cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá.” Những ký ức về làng xưa, xóm cũ trở thành niềm an ủi, động viên ông Hai mỗi khi chán nản. Chỉ cần được ở lại làng, cùng chiến đấu với anh em thì như có một luồng sinh lực mới chảy dồi dào trong ông, và dù có gian khổ, khó nhọc, nguy hiểm đến bao nhiêu ông cũng chịu được. Hình ảnh đó hoàn toàn trái ngược với ông Hai lúc nào cũng buồn chán, bức bối, không biết làm gì trong căn bếp tản cư. Thế nhưng đó cũng chỉ là hồi ức, một hồi ức tươi vui và đầy tự hào đến nỗi mỗi khi nhớ lại, trong ông lại trào dâng một nỗi nhớ khôn nguôi : “Ông Hai nhớ cái làng, nhớ cái làng quá.” Với ông, ngôi làng của ông vốn đã là một điều gì đó vô cùng thiêng liêng và đẹp đẽ. Nay ở trong căn bếp tản cư chật hẹp, cái làng ấy lại càng đẹp hơn, trở thành một niềm mong ước, khao khát mãnh liệt. Điều đó hoàn toàn không phải phóng đại. Tâm sự của ông Hai là tâm sự của một người gắn bó với làng tha thiết, yêu làng bằng một niềm tự hào chân chính.

Tình yêu làng của ông Hai được thể hiện nổi bật và đậm nét nhất khi ông nghe tin làng ông theo Tây. Như sét đánh ngang tai, ông từ chối tin vào điều đó. “Cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng chừng như không thở được. Một lúc sau ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ.” Nếu như tin dữ ấy là cái làng đẹp đẽ của ông bị đốt trụi, nhà cửa, ruộng vườn của ông bị cướp mất thì có lẽ ông cũng không đau khổ bằng tin làng mình theo Tây. Tội nghiệp ông lão vui tính, xởi lởi giờ đây phải “cúi gằm mặt đi thẳng”, “nước mắt ông cứ dàn ra”. Giá ông không quá yêu làng, không quá tự hào về làng thì ông đã không thấy tủi nhục đến thế. Mấy chữ “cả làng chúng nó Việt gian theo Tây” như găm vào trái tim ông, vào niềm tự hào về cái làng mà ông yêu vô cùng. Tất cả những gì ông trân trọng giữ gìn trong tim giờ đây như đều sụp đổ tan tành.

Ông không chấp nhận được sự thật ấy và đấu tranh nội tâm dữ dội. Lúc đầu là nghi ngại (“Nhưng sao lại nảy ra cái tin như vậy được ?“), nhưng sau đó là đau đớn khi được biết những bằng chứng rõ ràng (“Mà thằng chánh Bệu thì đích là người làng không sai rồi“). Phải thừa nhận cái tin đó, không thể nào tả được nỗi đau của ông lúc ấy. “Chao ôi ! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian !” Có lẽ trong đời mình, ông Hai chưa từng chịu đựng hay thậm chí tưởng tượng được một nỗi đau, nỗi nhục như thế. Những tiếng ấy như thốt lên từ trái tim bị tổn thương, từ niềm tự hào bị chà đạp của ông, khiến người đọc cũng như cảm nhận được nỗi xót xa, tủi nhục của ông lúc ấy. Mà ông Hai đâu chỉ đau cho mình, đau cho làng, mà ông còn đau cho những người đồng hương, đồng cảnh ngộ. “Lại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa ?” Có thể những con người ấy trước kia có hiềm khích với ông, nhưng trước nỗi đau, nỗi nhục quá lớn này, tình yêu làng trỗi lên thật mạnh mẽ và đánh thức tình đồng hương trong ông. Kim Lân đã rất tài tình khi sử dụng hàng loạt câu cảm, câu hỏi liên tiếp trong nghệ thuật độc thoại nội tâm để lột tả sự đau khổ, xót xa, uất ức mà ông Hai phải chịu đựng. Lúc này đây, làng không chỉ là nơi chôn rau cắt rốn nữa, mà là một cái gì đó lớn lao hơn, là lòng tự trọng, là danh dự.

Không chỉ thế, tình yêu làng còn trở thành một nỗi ám ảnh day dứt trong ông, buộc ông phải lựa chọn giữa làng và nước. Nếu lúc trước ông tự hào, ông thao thao bất tuyệt về làng mình bao nhiêu thì bây giờ ông xấu hổ, trốn tránh bất nhiêu. Cái tin đồn quái ác kia trở thành một nỗi ám ảnh, một nỗi sợ vô hình luôn đè nặng lên tâm trí ông. “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông… là ông lủi ra một góc nhà, nín thít.

Thôi lại chuyện ấy rồi !” Lẽ thường tình, khi người ta suy nghĩ quá nhiều về một điều gì đó, lúc nào ta cũng có cảm tưởng những người khác cũng như vậy. Thế thì nỗi ám ảnh và lo sợ của ông Hai phải lớn đến chừng nào để ông bị dằn vặt tới vậy ! Lòng yêu làng của ông phải lớn biết chừng nào ! Kim Lân đã diễn tả rất cụ thể và sâu sắc tâm trạng nặng nề ấy, vì bản thân tác giả cũng từng gặp hoàn cảnh tương tự. Ông Hai đã trải qua những giờ phút không thể đau đớn và tủi hổ hơn khi bị mụ chủ nhà nói móc nói máy để đuổi khéo. Người đọc như cảm nhận được từng lời từng chữ của mụ như xoáy sâu vào tình yêu làng vốn đã quá tổn thương của ông. Dù đã dứt khoát đi theo kháng chiến, ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm sâu đậm với làng quê, và vì thế mà ông càng đau xót, tủi hổ hơn.

Bên cạnh tình yêu làng, nhân vật ông Hai còn ghi dấu trong mắt người đọc bằng lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến. Ông luôn theo sát tin tức kháng chiến và tự hào về những chiến công mà nhân dân ta đã lập nên. “Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá !” Nhưng đến khi phải lựa chọn giữa làng và nước, tình yêu ấy mới bộc lộ rõ rệt. Dù bị tin đồn làng mình theo Tây dồn vào “tuyệt đường sinh sống”, ông vẫn nhất quyết không trở về làng. Đến đây, ta mới hiểu rõ về con người hay chuyện tưởng chừng rất đơn giản, bộc trực kia. Tình yêu làng giờ đây đã trở thành tình yêu có ý thức, hòa nhập và lòng yêu nước. “Về làm gì cái làng ấy nữa. Về làng là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ.” Nhớ lại những tháng ngày đen tối bị đàn áp xưa kia, ông đã có quyết định rõ ràng, đúng đắn. Là người nông dân chân lấm tay bùn nhưng ông Hai có nhân thức cách mạng rõ ràng : “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.” Nhận thức rất mới này là một nét đặc biệt trong tính cách của ông Hai, đánh dấu sự thay đổi của người nông dân sau Cách mạng Tháng Tám.

Ông luôn luôn muốn được giãi bày nỗi lòng ấy của mình. Tuy nói chuyện với đứa con, nhưng thực chất ông đang mượn lời đứa trẻ để bày tỏ tâm sự. Những gì đứa trẻ nói chính là những gì đang dâng trào trong lòng ông mà không nói ra được. “Ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ.” Ông Hai nói với đứa con như thể nói với anh em đồng chí, để minh oan cho tấm lòng thành thật của mình, để nỗi khổ tâm trong lòng như vơi đi được đôi phần. Lòng yêu nước của ông thật giản dị nhưng vô cùng chân thành, sâu sắc và cảm động. Chính điều ấy đã giúp ông chịu đựng được tin đồn quái ác về làng mình, vì ông có niềm tin vào cách mạng, vào kháng chiến. Từ đây, ông Hai nói riêng hay người nông dân nói chung, đã nhìn rộng hơn, xa hơn lũy tre làng. Không chỉ yêu làng, trong ông còn có một tình yêu lớn gấp nhiều lần – lòng yêu nước.

Đến khi tin làng chợ Dầu theo giặc được cải chính, tình yêu làng, yêu nước của ông Hai mới được vẽ lên hoàn chỉnh. Ông Hai như sống lại. “Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên.” Một lần nữa, tình yêu làng, yêu nước của ông được thể hiện một cách chân thực, cảm động. Nguồn sinh lực ngày nào lại trở về trong ông. Ông Hai lại là ông Hai xưa. Ông lại nói về làng mình, về “Tây nó đốt nhà tôi rồi, đốt nhẵn !” Niềm vui sướng của ông được thể hiện thật hồn nhiên, chân thật và rất mãnh liệt. Có lẽ không ai trên đời lại đi khoe, đi mừng việc nhà mình bị đốt như thế. Nhưng với ông Hai, điều đó đâu có là gì so với niềm vui khi thanh danh của làng được rửa. Vì sự mất mát ấy cũng là sự hồi sinh của một làng Chợ Dầu mà ông hằng yêu và xứng đáng với tình yêu ấy : làng Chợ Dầu kháng chiến. Tình yêu làng là cơ sở, là biểu hiện hùng hồn nhất của tình yêu nước trong ông Hai. Quả đúng như nhà văn I-li-a Ê-ren-bua đã từng nói : “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê làm nên lòng yêu tổ quốc.” Nếu so với lão Hạc của Nam Cao hay chị Dậu của Ngô Tất Tố trước Cách mạng tháng Tám – những người nông dân cả cuộc đời đầu tắt mặt tối trong ruộng vườn thì nhân vật ông Hai đã có nhận thức rõ ràng về cách mạng, về kháng chiến. Ông đã nhận ra rằng: Đất nước còn thì làng còn, đất nước mất thì làng cũng mất. Đây không chỉ là sự thay đổi trong suy nghĩ người nông dân, mà còn là suy nghĩ của mỗi người dân Việt Nam thời điểm đó. Họ sẵn sàng hy sinh những cái riêng, những cái nhỏ vì sự nghiệp chung, vì cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Họ không hề quên đi cội nguồn của mình mà gìn giữ nơi ấy ở trong tim, biến thành động lực chiến đấu để giải phóng đất nước, giải phóng quê hương.

Truyện ngắn “Làng” đã xây dựng thành công nhân vật ông Hai, đặc biệt qua tình huống làng Chợ Dầu bị đồn là theo Tây. Nguyễn Minh Châu từng nói : “Tình huống là một loại sự kiện đặc biệt của đời sống, được sáng tạo ra theo hướng lạ hóa. Tại đó, vẻ đẹp nhân vật hiên ra sắc nét, ý nghĩa tư tưởng phát lộ toàn diện.” Kim Lân đã sáng tạo được một tình huống truyện có tính căng thẳng để thử thách nhân vật. Nó đã cho ta thấy chiều sâu của nhân vật ông Hai, những nét tính cách, những chuyển biến trong nhận thức và tính cảm của ông, và hơn hết là tình yêu làng, yêu nước tha thiết. Nhà văn cũng vô cùng thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, khi thì miêu tả cử chỉ hành động, khi thì độc thoại nội tâm, độc thoại, đối thoại để lột tả tính cách nhân vật. Ngôn ngữ kể chuyện rất linh hoạt, tự nhiên, lúc dềnh dàng, lúc đột ngột tùy theo diễn biến. Bên cạnh đó, tác giả vốn am hiểu cuộc sống nông thôn nên ngôn ngữ của ông Hai là khẩu ngữ, rất bình dị và gần gũi, đậm chất nông dân. Với nhân vật ông Hai, Kim Lân quả thực rất xứng đáng là một cây bút “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”.

Nguyễn Đình Thi từng viết rằng: “Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của mình góp vào đời sống chung quanh.” Truyện ngắn “Làng” đã được viết nên từ những điều nhà văn từng trải nghiệm, khắc họa một cách chân thực nhất những tháng ngày đi tản cư của nhân dân miền Bắc trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, cũng như những chuyển biến trong nhận thức và tình cảm của họ.. Thông qua nghệ thuật xây dựng tình huống truyện và miêu tả tâm lí, ngôn ngữ nhân vật, Kim Lân đã mang đến cho bạn đọc nhân vật ông Hai với tình yêu làng quê và lòng yêu nước sâu đậm, thiết tha.

2
3
Tú Quyên
04/09/2023 20:19:32
+2đ tặng
Trong tác phẩm "Làng" của nhà văn Kim Lân, nhân vật "Ông Hai" được miêu tả là một người đàn ông trung niên, sống trong một ngôi làng nông thôn. Ông Hai là một nhân vật đặc biệt và có vai trò quan trọng trong việc tái hiện cuộc sống và tâm lý của người dân làng.

Ông Hai được miêu tả là một người có tâm hồn nhạy cảm và sâu sắc. Ông là người thấu hiểu và quan tâm đến cuộc sống của người dân làng, luôn lắng nghe và chia sẻ những khó khăn, vui buồn của họ. Ông có khả năng nhìn thấu bên trong tâm hồn con người và hiểu rõ những khó khăn, mất mát và hy vọng của họ.

Ông Hai cũng là một người có lòng yêu thương và sẵn lòng giúp đỡ người khác. Ông luôn sẵn lòng chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm của mình với người khác, giúp đỡ họ vượt qua khó khăn và tìm ra giải pháp cho những vấn đề trong cuộc sống. Ông là một người đáng tin cậy và được người dân làng tôn trọng và ngưỡng mộ.

Ngoài ra, Ông Hai còn là một người biết trân trọng và yêu quý đất nước và làng quê. Ông có tình yêu sâu sắc đối với văn hóa và truyền thống của làng quê, và luôn cố gắng bảo tồn và phát triển nó. Ông là một người gắn bó mật thiết với đất đai và người dân làng, và luôn mong muốn đem lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho mọi người.

Từ những đặc điểm trên, nhân vật "Ông Hai" trong tác phẩm "Làng" được xem là biểu tượng của sự tình nguyện, lòng nhân ái và tình yêu đối với quê hương. Ông Hai đại diện cho những giá trị truyền thống và tinh thần của người dân làng, và qua đó, tác giả muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của sự đoàn kết và yêu thương trong cuộc sống.
Hồng Anh
Thấy bị dis like nè =))
Tú Quyên
check chat

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k
Gửi câu hỏi
×