Tự tình II và Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ dù chưa rõ thời điểm sáng tác, nhưng người đọc có thể dễ dàng đoán chúng đã được viết nên khi nhà thơ đang ở trong tâm trạng chua xót nhất, cay đắng nhất trước những éo le trên con đường tình duyên.
Ba bài thơ là một sự chuyển biến tâm lí rất lôgíc mà cũng mang nặng một bi kịch của người phụ nữ gặp trắc trở trong hạnh phúc lứa đôi. Nếu Tự tình I là một khao khát mãnh liệt đến không chịu nổi của tác giả, giọng thơ mang đầy vẻ thách thức, nhất quyết không cam chịu một số phận hẩm hiu:
Tài tử văn nhân ai đó tá?
Thân này đâu đã chịu già tom.
Đến Tự tình II, những đợi chờ, hi vọng dần bị thời gian tàn nhẫn làm cho chai sạn, lạnh lùng, làm nguội đi trái tim đang bừng bừng khao khát của tác giả Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại/ Mảnh tình san sẻ tí con con... Càng hi vọng bao nhiêu thì càng thất vọng bấy nhiêu, Hồ Xuân Hương dần trở nên ngao ngán và mất niềm tin vào cuộc đời. Và khi Tự tình III được đặt bút, là khi tác giả đã chìm xuống tận cùng của hố sâu thất vọng, bà không còn mong mỏi điều gì nữa, mà buông xuôi, để mặc cho số phận đưa đẩy Chiếc bánh buồn vì phận nổi nênh/ Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh. Ôi, còn đâu là con người mạnh mẽ, cá tính, bướng bĩnh, không chịu khuất phục điều gì. Thế mới biết số phận tàn nhẫn có thể làm lạnh lùng cả một tâm hồn cứng rắn nhất, mạnh mẽ nhất, biến nó thành thờ ơ, vô cảm. Và đó quả thật là một bi kịch, bi kịch của những người phụ nữ gặp éo le trong số phận cuộc đời:
Đềm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non
Mở đầu bài thơ là một âm thanh khá âm vang và đầy hối hả: Trống canh dồn. Nhưng, dù mãnh liệt đến mấy, tiếng trống cũng vẫn chỉ là âm thanh duy nhất trong đêm vắng, nếu không có nó thì đêm khuya sẽ trở nên vô cùng vắng lặng. Cái động đã được sử dụng để tôn lên cái tĩnh, cái cô độc, trống trải của đêm khuya. Nửa đêm là thời gian sum họp vợ chồng, là thời điểm của hạnh phúc lứa đôi. Vậy mà lại có một người phụ nữ tỉnh dậy vào đúng thời khắc thiêng liêng ấy hay vì cả đêm người phụ nữ ấy đã không ngủ được vì thiếu vắng một điều gì đó, vì tâm trạng đang mang nặng một nỗi niềm? Tiếng trống canh âm vang từ xa vọng lại như đang thúc giục thời gian qua mau, gợi đến một điều vô cùng đáng sợ đối với một người đàn bà vẫn còn thân đơn gối chiếc: Tuổi già. Tuổi già càng đến gần nghĩa là hi vọng càng tuột xa, mọi mong mỏi, khát khao càng trở nên vô vọng. Tiếng trống dồn dập cứ xoáy vào tâm can tác giả, nó âm vang, trong tâm tưởng, âm vang trong suy nghĩ, không tài nào dứt ra được. Dồn dập, hối hả, tiếng trống không chỉ bao trùm lên không gian mà còn lên cả thời gian nữa, và ta tự hỏi, đây có thật là tiếng trống hiện hữu trong đời sống thực tại hay phải chăng đó là tiếng trống cất lên từ tấm lòng thổn thức của tác giả, tiếng trống ám ảnh về một bi kịch đang đến gần hơn với bà.... Trơ cái hồng nhan với nước non. Khi thời gian cứ lướt qua càng lúc càng dồn dập, thì cũng là lúc cái hồng nhan ngày một trơ ra với đời. Hồng nhan là một từ dùng để chỉ nhan sắc, chỉ gương mặt xinh đẹp của người phụ nữ.
Đó là điều không phải, bất cứ người phụ nữ nào cũng có được, điều này khiến họ hết sức tự hào, hết sức coi trọng và nâng niu. Nhưng từ cái gắn liền với hồng nhan như một hòn đá kéo nặng cả câu thơ xuống, đập tan bao nhiêu niềm tự hào, bao nhiêu trân trọng mà biến hồng nhan trở thành một thứ đồ vật tầm thường không hơn không kém. Hồng nhan để làm gì khi nửa đêm phải tỉnh giấc, trong cái trống trải lạnh lẽo đến đắng cay? Hồng nhan để làm gì khi nó đâu phải là vĩnh cửu mà sẽ nhanh chóng vỡ tan theo từng nhịp trống dồn? Tác giả ý thức được nhan sắc của mình nhưng cũng ý thức được những bất hạnh và chua xót mà mình đã, đang và sẽ phải nếm trải. Và khi nỗi đau lên đến đĩnh điểm, người phụ nữ sẽ trở nên trơ ra với nước non, với cuộc đời. Từ trơ được đảo lên đầu câu nhằm nhấn mạnh sự vô cảm, lạnh lùng, thờ ơ trước những đớn đau đã trở nên quá quen thuộc. Còn gì đau xót hơn khi những bất hạnh lại trở thành một điều gì đó rất thường tình, cứ đeo đẳng, bám lấy con người ta và thậm chí khiến người ta trở nên nhàm chán, mất hết cảm xúc và trở nên trơ ra như gỗ đá?
Chưa hết, từ trơ trong câu thơ còn mang một nghĩa khác, một hàm ý cay đắng và chua xót không kém: Trơ trọi. Tác giả nhận thấy mình không có gì cả, không có tình yêu, không có hạnh phúc, chỉ đơn độc, lẻ loi một mình trong cuộc đời này. Từ trơ đặt ở đầu câu cộng với cách ngắt nhịp 1/3/3 đẩy từ trơ tách biệt một mình đã xoáy sâu, nhấn mạnh vào tẩm trạng cay đắng, tủi hổ và bẽ bàng của bà. Câu thơ như một lời đay nghiến, mỉa mai chính mình, có hồng nhan mà phải trơ ra như thế. Thật đáng thương cho số phận của nhà thơ, đáng thương cho một kiếp người tài hoa mà bất hạnh. Và cũng thật đáng thương cho những người phụ nữ đương thời bị đè nén, áp bức bởi những hủ tục phong kiến đến mức xơ xác, héo mòn cả một phận hồng nhan...
Nhưng dù đáng thương, chua xót đến mức nào, chúng ta vẫn phải công nhận một bản lĩnh Xuân Hương rất đáng nể phục trong hai câu thơ, khi mà trơ không chỉ là một sự bẽ bàng hay vô cảm mà còn là thách thức. Trơ kết hợp với nước non và hồng nhan được xếp ngang tầm thiên nhiên vũ trụ đã cho ta thấy sự can đảm, dám đương đầu với những gì lớn lao nhất, khó khăn nhất của bà. Đó quả thật là một ý chí đáng nể phục, một bản lĩnh đáng ngưỡng mộ của Hồ Xuân Hương.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Hai câu thơ vẽ lên một khung cảnh rất thật mà cũng chứa chan bao nỗi niềm của tác giả. Một người phụ nữ mà phải ngồi uống rượu một mình trong đêm vắng thì quả là một sự bất hạnh. Con người ta chỉ uống rượu vì hai mục đích: Một là để sẻ chia và hai là để quên sầu. sẻ chia là khi con người ta nhất định phải uống cùng bạn bè, đặc biệt là tri kỉ, để nói lên những nỗi lòng, tâm sự cho nhau nghe và nhận lại được sự cảm thông và thấu hiểu. Chẳng thế mà Nguyễn Khuyến từng viết: Rượu ngon không có bạn hiền / Không mua không phải không tiền không mua. Còn khi muốn quên sầu, là lúc con người ta đang ở trong tâm trạng cay đắng nhất, khi xung quanh không có một ai để có thể chia sẻ nỗi niềm và ta chỉ còn biết tìm quên trong men rượu, một mình. Nhưng liệu chén rượu có làm tan đi bao nỗi cô đơn, tủi nhục trong lòng hay Hồ Xuân Hương? Bà uống rượu mà như uống bao giọt sầu giọt tủi, như nuốt từng giọt đắng giọt cay. Chén rượu là chén sầu mà người uống chẳng thể đổ đi được mà chỉ có thể lặng lẽ, âm thầm nuốt vào cổ họng, để đau khổ cũng chẳng mất đi đâu mà lại trở lại trong chính tâm trí mình. Say lại tỉnh. Uống rượu có thể say, nhưng sau cơn say người ta sẽ lại tỉnh. Tỉnh rồi, người ta mới nhận ra, hương rượu còn để lại vị đắng chát trên đầu lưỡi. Và những đau khổ, chua xót sau cơn say càng được nhân lên vạn lần. Cụm từ này đã cho ta thấy một vòng luẩn quần, đầy bế tắc rất đỗi xót xa của tác giả. Bà cứ bị đẩy qua đẩy lại liên hồi trong vòng tuần hoàn nghiệt ngã của số phận. Và ta nhớ đến một hình ảnh bẽ bàng tủi nhục của nàng Kiều ngày nào Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh/ Giật mình mình lại thương mình xót xa... Đến câu thơ tiếp theo, nỗi đau lại tiếp tục được thể hiện rõ ràng và đậm nét. Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn. Có vẻ như Hồ Xuân Hương đã ngồi một mình bên chén rượu như thế đến hết đêm, đến tận khi mặt trăng bóng xế, nhường chỗ cho một ngày mới. Bà cứ ngồi uống rượu và ngắm trăng như vậy, như mong chờ một sự đồng cảm và sẻ chia. Nhưng bà đã nhìn thấy gì? Một sự đồng cảm chăng? Hay bà chỉ thấy số phận dở dang của mình đang hiện diện trong một vầng trăng khuyết? Trăng vốn là một biểu tượng của hạnh phúc, là hình ảnh đại diện cho những ước mơ và hy vọng. Nhưng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương lại xót xa đến mức khuyết chưa tròn, một hạnh phúc không hề trọn vẹn, một cuộc đời còn dang dở với những éo le, trắc trở trong tình duyên. Hạnh phúc của bà chỉ như vầng trăng khuyết mà bà không thể biết ngày mai trăng sẽ lại khuyết tiếp hay sẽ tròn. Ánh trăng sáng lạnh lẽo vô cùng khi ẩn hiện trong nó một nỗi cô đơn, trống vắng. Và bóng xế đi kèm với trăng lại gợi nên một nỗi niềm trong lòng tác giả: nỗi lo sợ trước tuổi thanh xuân đang mất đi. Trăng đã xế mà vẫn khuyết chưa tròn, giống như tuổi xuân của Xuân Hương đang dần mất đi mà tình duyên vẫn không được trọn vẹn. Hình ảnh mặt trăng là hình ảnh ẩn dụ vô cùng độc đáo và đặc sắc, miêu tả chính xác và vô cùng sinh động ngoại cảnh mà cũng bộc lộ được tâm cảnh, những suy nghĩ, tâm tư đang hiện hữu trong lòng bà.
Nhưng dù có thất vọng, dù có đau xót, chán chường đến mức nào, Hồ Xuân Hương vẫn là một người phụ nữ đầy bản lĩnh. Và sâu thẳm trong tâm trí bà, dù yếu ớt đến đâu vẫn luôn lóe lên một ánh lửa khát khao, hy vọng, không chịu khuất phục mà muốn vùng lên thay đổi cuộc sống của mình. Hai câu thơ tiếp theo đã nói lên điều ấy:
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn...
Một hình ảnh thiên nhiên rất dữ dội, đầy cử động, giống như tính cách bướng bỉnh, không chịu khuất phục điều gì của chính tác giả vậy. ở Hồ Xuân Hương, sự buồn tủi bao giờ cũng gợi nên những phản ứng tích cực. Bà không buông xuôi, không đầu hàng mà luôn cố gắng tìm cách để thay đổi vận mệnh, cho dù những cố gắng đó mới chỉ dừng lại trong suy nghĩ. Hai câu thơ tương như chỉ miêu tả cảnh vật xung quanh, nhưng chính đặc điểm của những cảnh vật đó đã được dùng để bộc lộ tâm trạng của con người. Hàng loạt động từ mạnh, đầy sắc thái biểu cảm như xiên, đâm được đảo lên đầu câu cùng với những bổ ngữ độc đáo, ấn tượng đi kèm với nó đã thể hiện rất rõ cảm xúc của bà. Rêu xiên ngang, dàn trải như bao phủ khắp cả mặt đất. Không phải xiên dọc hay xiên chéo gì cả mà phải là xiên ngang, những tảng rêu như chọc thủng mặt đất để đâm lên một cách đầy ngang tàng, ngạo nghễ.
Đá đâm toạc chĩa lên nhọn hoắt đầy đe dọa như muốn xuyên thủng cả bầu trời. Và cũng chẳng phải đâm thủng hay đâm xuyên gì hết mà là đâm toạc, tảng đá dường như đã bị dồn nén tất cả những căm hận, phẫn uất mà đâm thẳng lên, xé toạc tất cả những gì đang gò bó, áp đặt chúng. Chỉ là những cảnh vật bình thường, không có gì đặc biệt như rêu và đá, nhưng qua cái nhìn đầy ấm ức, bất mãn của tác giả, chúng đã trở nên vô cùng sống động. Cử động, nổi loạn, phá phách, muốn đập tan những gì gò bó để được tự do vùng vẫy giữa đất trời, thiên nhiên hòa hợp với con người, đặc điểm thiên nhiên cũng chính là nỗi niềm của nhân vật. Và ta cũng thấy được tâm trạng phẫn uất của Hồ Xuân Hương với tuổi già và những luật lệ phong kiến cũng như số phận hẩm hiu đang tàn nhẫn ra tay bóp chết hạnh phúc của bà.
Những uất hận ấy bị đè nén, gò ép trong lòng bà đến không chịu nổi chỉ chực vỡ òa ra, bà khao khát muốn đạp tung tất cả, muốn lật đổ mọi thứ, muốn tự do biết nhường nào. Nhưng dù sao, bà vẫn chỉ là một người phụ nữ phong kiến, một thân phận nữ nhi cô độc, dù phá phách, dù nổi loạn đến đâu thì tất cả vẫn chỉ kết thúc trong giới hạn ngôn từ. Bà không thể làm gì hơn được nữa.... Mặc dù ta vẫn phải công nhận, đây là một suy nghĩ vô cùng mới mẻ, một tư tưởng đi trước thời đại,
một tính cách hoàn toàn khác biệt so với những người phụ nữ thời bấy giờ. Đó là một bản lĩnh, một cá tính Xuân Hương đáng trân trọng...
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con...
Những khát khao, vùng vẫy, nổi loạn cuối cùng cũng đã bị dập tắt trong sự chán chường, bất lực. Hồ Xuân Hương đã không thể vượt khỏi thân phận mình, vị thế nhỏ nhoi, cô độc của mình trong xã hội. Kết thúc bài thơ là một sự cam chịu được thốt lên trong một tiếng thở dài ngao ngán. Bà đã phát ngán, đã chán lắm rồi cái vòng xoay luẩn quẩn của số phận. Càng cố bao nhiêu thì càng thất bại bấy nhiêu, hi vọng càng nhiều thì thất vọng càng lớn, càng chua xót. Thế thì còn cố gắng đê làm gì nữa? Xuân, hình ảnh nổi bật trong câu thơ có thể là mùa xuân, cũng có thể là tuổi xuân của tác giả. Những mùa xuân cứ đến và đi, dòng thời gian cứ chầm chậm chảy, cũng có nghĩa là tuổi xuân của bà đang tuột mất từng ngày. Và nỗi đau của bà lại càng được nhân lên gấp bội. Hai chữ lại đứng ở cuối câu chứa đựng biết bao sự ngán ngẩm nặng nề của bà khi cảm nhận tuổi xuân đang trôi đi từng ít một.
Không phải xuân đến mà xuân lại vì nếu nói xuân đến có chút gì đó háo hức mong chờ nhưng xuân lại thì có chút gì đó ngán ngẩm, chán chường. Bà chán ghét số phận hẩm hiu của mình, chán ghét vòng tình duyên ngang trái luôn đeo đẳng, chán ghét hạnh phúc ít ỏi đến nỗi gần như không tồn tại. Mảnh tình, một cụm từ mang nặng nỗi trớ trêu của số phận. Tình yêu vốn là một điều gì đó thật cao cả thiêng liêng nhưng tình yêu của Hồ Xuân Hương lại như một mảnh vỡ nhỏ bé được san sẻ từ hạnh phúc của người khác. Tình yêu của bà rẻ mạt như một sự bố thí, như một thứ đồ vật đã qua sử dụng người ta vứt lại cho bà. Đau xót biết mấy, khi mảnh tình lại là một thứ được chia năm sẻ bảy mà bà chỉ được nhận duy nhất một mảnh tí con con. Hạnh phúc của bà chẳng những không trọn vẹn mà còn nhỏ bé, ít ỏi đến mức tội nghiệp. Tình duyên như thế thì có để làm gì, chỉ càng thêm tủi nhục đắng cay.
Cách dùng từ giản đơn mà vẫn vô cùng độc đáo đã cực tả nỗi niềm của tác giả. Hồ Xuân Hương ngang tàng thách thức đầy nổi loạn ở trên là thế, nhưng cuối cùng, tất cả vẫn chìm vào vô vọng trong sự bất lực tột cùng và chán chường mệt mỏi. Những cố gắng vùng vẫy của bà chỉ là vô ích, bởi số phận của bà vốn đã là một bi kịch và mãi mãi chỉ là một bi kịch mà thôi. Có lẽ trong giờ phút ấy, bà đã muốn buông xuôi, muốn bỏ mặc tất cả cho số phận đưa đẩy, bà đã mất hết hy vọng...
Liệu Hồ Xuân Hương có thể vượt qua tất cả để có thể trở lại là một người phụ nữ yêu đời, mạnh mẽ không sợ gì cả như ngày nào? Đó vẫn là một câu hỏi còn dở dang của những thân phận phụ nữ đem thân đi làm lẽ, phận người mà hạnh phúc không bao giờ trọn vẹn mà chỉ nhỏ nhoi như một mảnh gương vỡ... Câu thơ đã diễn trả được đỉnh điểm bi kịch của Hồ Xuân Hương và cũng là của những người phụ nữ thời bấy giờ...