1. Trong phân tử hydrogen (H2), mỗi nguyên tử hydrogen (H) có một electron trong lớp electron ngoài cùng. Các electron này không đủ để điền vào lớp electron thứ hai, do đó nguyên tử hydrogen có xu hướng tạo liên kết để chia sẻ electron và đạt được cấu hình electron bền hơn. 2. Tương tự, trong phân tử oxygen (O2), mỗi nguyên tử oxygen (O) có 6 electron trong lớp electron ngoài cùng. Lớp electron thứ hai của nguyên tử oxygen cũng có thể chứa thêm 2 electron nữa để đạt được cấu hình electron bền hơn. 3. Khi hai nguyên tử hydrogen gặp nhau, mỗi nguyên tử hydrogen chia sẻ một electron của mình với nguyên tử hydrogen khác. Kết quả là cả hai nguyên tử hydrogen có cấu hình electron bền hơn, với mỗi nguyên tử có hai electron trong lớp electron ngoài cùng. 4. Tương tự, khi hai nguyên tử oxygen gặp nhau, mỗi nguyên tử oxygen chia sẻ hai electron của mình với nguyên tử oxygen khác. Kết quả là cả hai nguyên tử oxygen có cấu hình electron bền hơn, với mỗi nguyên tử có 8 electron trong lớp electron ngoài cùng. 5. Sau quá trình chia sẻ electron, các nguyên tử hydrogen và oxygen được kết hợp lại thành phân tử H2 và O2. Trong phân tử H2, hai nguyên tử hydrogen được liên kết bởi một liên kết cộng hóa trị. Trong phân tử O2, hai nguyên tử oxygen được liên kết bởi hai liên kết cộng hóa trị. Quá trình tạo thành liên kết cộng hóa trị trong phân tử hydrogen và oxygen giúp các nguyên tử đạt được cấu hình electron bền hơn và tạo ra phân tử ổn định.