Đã hơn một năm trôi qua kể từ khi tôi nói lời tạ từ với Trương Sinh. Mặc dù cuộc sống ở thủy cung rất vui vẻ, náo nhiệt nhưng chưa lúc nào tôi ngừng nhớ về những chuyện đã qua.
Tôi tên là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương. Mọi người thường nhận xét về tôi là người phụ nữ xinh đẹp, thùy mị, nết na. Đến tuổi lập thất, Trương Sinh đem một trăm lạng vàng đến nhà tôi hỏi cưới. Được sự đồng ý của cha mẹ, tôi nên vợ nên chồng với Trương Sinh. Biết chồng có tính đa nghi, lại hay phòng ngừa quá sức, tôi luôn cố gắng giữ gìn khuôn phép, không để lúc nào gia đình bất hòa. Cuộc sống yên ấm chưa được bao lâu thì chồng tôi bị bắt đi lính đánh giặc.
Trong buổi tiễn đưa, mẹ chồng tôi dặn dò kĩ lưỡng. Còn tôi nâng chén rượu đầy rồi nói với chồng những lời từ tận tâm can. Hai vợ chồng nhìn nhau, trào dâng nước mắt. Tất cả mọi người đều không giấu nỗi buồn bã, xúc động. Nói xong, chàng dứt áo ra đi. Sau khi chồng đi được mười ngày, tôi sinh con trai và đặt tên cho thằng bé là Đản. Tôi ở nhà một mình nuôi con và một lòng thủy chung chờ chồng về.
Mẹ chồng tôi vì thương nhớ con mà dần đổ bệnh. Tôi làm mọi cách từ thuốc thang, lễ bái thần phật đến hết lời khuyên lơn nhưng không được. Biết mình như "ngọn đèn trước gió", bà gọi tôi đến dặn dò rồi từ giã dương gian. Tôi thương xót vô cùng, cố gắng làm ma chay cẩn thận.
Độ một năm sau, khi đã đẩy lùi quân giặc, chồng tôi từ chiến trận trở về. Thấy mẹ đã mất, lòng chàng không khỏi xót xa. Chàng bế con ra mộ mẹ. Đến trưa, hai cha con về. Chàng một mực nghi ngờ tôi thất tiết. Chồng tôi quát um. Tôi vừa khóc vừa nói:
- Xin chàng hãy tin thiếp. Kể từ ngày chàng đi, thiếp luôn một mực thủy chung, chưa từng nghĩ đến chuyện quan hệ trai gái không đứng đắn. Đâu có sự mất nết, hư thân như những lời chàng đã nói. Mong chàng đừng một mực đổ oan cho thiếp.
Dù nói thế nào, Trương Sinh vẫn không tin. Tôi tắm gội sạch sẽ, chạy ra bến Hoàng Giang, ngửa mặt lên trời than rằng: "Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, bị chồng con rẫy bỏ. Thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ." Nói dứt lời, tôi gieo mình xuống dòng nước.
Sau đó, tôi được Linh Phi cho nương náu ở Thủy Cung. Một hôm, tôi gặp Phan Lang. Phan Lang là ân nhân của Linh Phi nên khi gặp nạn đã được Linh Phi giúp đỡ. Qua trò chuyện, Phan Lang kể rằng: chồng tôi tuy giận nhưng thấy vợ ra đi vẫn động lòng thương xót, cố gắng ra sông vớt xác vợ về. Một đêm nọ, chàng ngồi dưới ngọn đèn khuya, đứa con thấy vậy mới chỉ vào bóng nói cha về. Khi ấy, Trương Sinh mới hiểu ra ngọn ngành câu chuyện. Hóa ra, trong cơn nóng giận, chàng đã hiểu lầm tôi thất tiết vì cái bóng trên vách - "người cha" mà đêm đêm tôi vẫn đùa con lúc chàng vắng nhà. Dù hối hận nhưng mọi chuyện đã muộn màng. Tôi nghe thế cảm thấy đau đớn, nhớ thương hai cha con vô cùng. Ngôi nhà giờ đây chắc trở nên vắng vẻ, quạnh quẽ lắm!
Biết được lòng tôi, Phan Lang khuyên tôi nên trở về dương thế. Ban đầu, tôi không đồng ý vì chẳng còn mặt mũi nào nhìn mọi người. Song cảm vì nỗi nhớ quê nhà, tôi quyết định gửi một chiếc hoa vàng và nhờ Phan Lang nói với Trương Sinh. Đúng như lời dặn, Trương Sinh lập đàn tràng ở bến Hoàng Giang. Đến ngày thứ ba, tôi ngồi trên kiệu hoa, theo sau là năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng hiện lên giữa dòng. Nói xong lời từ biệt, tôi trở về thủy cung.
Câu chuyện buồn ấy vẫn luôn ám ảnh tôi khôn nguôi. Chưa có giây phút nào tôi ngừng nhớ về gia đình, chồng con. Nếu không có hiểu lầm, chắc hẳn bây giờ tôi vẫn hạnh phúc với những người thân yêu.
Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - Mẫu 1
Như thường lệ, mỗi năm một lần thủy cung lại mở hội mùa xuân. Năm nay để mừng thọ vua Thủy Tề, lễ hội mùa xuân được chuẩn bị công phu, chu đáo hơn mọi năm. Hôm đó ngay từ sớm Thủy cung đã được trang hoàng thật lộng lẫy. Từ xa đã thấy thấp thoáng bóng mấy hàng cờ hội tung bay phấp phới, tiếng trống, tiếng chiêng nổi lên rộn ràng. Đến nơi một khung cảnh tuyệt đẹp của chốn thần tiên đã hiện ra. Những khóm hoa màu sắc rực rỡ toả hương ngào ngạt, những bức trướng chạm khắc hình nổi trông thật tinh xảo, các cung nữ tết tóc cài trâm, thướt tha trong bộ xiêm y lộng lẫy. Khi vua Thủy Tề cùng Linh Phi bước ra cũng là lúc các hoàng tử, công chúa, và các quần thần đã có mặt đông đủ. Rồi khi mọi người đã yên vị và tiệc rượu chuẩn bị bắt đầu, bỗng nhà vua hướng về phía Vũ Nương và nói:
- Đã hơn một năm trôi qua, kể từ khi Vũ Nương được Linh Phi đưa về thủy cung sống cùng các nàng tiên trong cung nước, lúc nào ta cũng thấy vẻ u buồn hiện rõ trên nét mặt nàng. Có phải nàng vẫn đang ngày đêm nhớ về quê hương, gia đình không? Vậy nàng có thể kể cho ta, Linh Phi và mọi người ở đây biết về cuộc đời của nàng khi còn ở chốn dương gian được không? Nhà vua vừa dứt lời, đã có mấy tiếng nói ở phía sau cất lên:
- Đúng đấy, Vũ Nương kể đi! Kể đi cho mọi người ở đây được biết!Trước lời đề nghị của mọi người, biết không thể từ chối, Vũ Nương đã cất tiếng kể:
Tôi là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương, tuy xuất thân trong gia đình nghèo khó nhưng từ nhỏ đã được cha mẹ dạy bảo đến nơi đến chốn nên hiểu mọi lễ nghĩa, biết cư xử đúng mực. Đến tuổi 18 tôi đã trở thành một thiếu nữ nết na, xinh đẹp nổi tiếng trong vùng. Đã có biết bao chàng trai đánh tiếng muốn cưới tôi làm vợ. Cha mẹ tôi không muốn con vất vả nên đã đồng ý gả tôi cho Trương Sinh, con một nhà giàu có trong làng và thế là tôi được yên bề gia thất. Biết chồng là con nhà giàu nhưng ít học lại đa nghi, hay ghen nên tôi luôn cư xử khéo léo, giữ gìn khuôn phép vì thế mà vợ chồng tôi chưa bao giờ xảy ra mâu thuẫn.
Hạnh phúc gia đình chưa được bao lâu thì chiến tranh binh lửa đã khiến vợ chồng tôi phải xa cách nhau. Chồng tôi tuy là con nhà giàu nhưng vì ít học nên phải đi lính loạt đầu. Biết được tin này cả tôi và mẹ chồng tôi đều rất buồn rầu, lo lắng. Buổi tiễn chàng ra biên ải, mẹ tôi nghẹn ngào dặn chồng tôi rằng ra chiến trường, chỗ binh cách không nên ham quan cao tước lớn, quan trọng phải biết giữ mình để được bình an trở về thì mẹ mới yên lòng được. Nghe lời mẹ, chồng tôi quỳ xuống đất vâng lời dạy. Lúc này lòng tôi cũng nặng trĩu lo âu, phiền muộn, nghĩ chàng phải đi vào nơi gió cát nghìn trùng xa cách, việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, tôi lại càng thương chàng vô hạn. Tôi cầm tay chàng mà căn dặn rằng:
- Chàng đi chuyến này thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ mong ngày về mang theo được hai chữ bình yên thế là đủ rồi.Chẳng mấy chốc giờ phút chia tay đã hết, chàng dứt áo ra đi với biết bao lưu luyến bịn rịn. Mắt nhòa lệ, lòng tê tái đau xót, tôi thẫn thờ dõi theo bóng chàng cho đến khi khuất hẳn sau hàng dâu.
Sau khi chồng tôi đi được mươi ngày thì tôi sinh con trai đặt tên là Đản. Ngày qua tháng lại thoắt đã nửa năm chồng tôi đi lính xa nhà. Nén lại nỗi nhớ thương vơi đầy, một mình tôi vừa chăm sóc con thơ, vừa phụng dưỡng mẹ già và lo toan chu toàn cho gia đình nhà chồng. Tôi một lòng mong ngóng, chờ đợi chồng sớm về đoàn tụ. Trong thời gian chồng tôi đi lính mẹ chồng tôi vì thương nhớ con trai mà sinh bệnh. Tôi rất lo lắng, đã hỏi tìm mua thuốc khắp nơi, ai mách ở đâu có thuốc tốt tôi cũng tìm đến mua cho mẹ uống. Song bệnh tình của mẹ chồng tôi vẫn không thuyên giảm mà cứ mỗi ngày một nặng thêm. Tôi hết sức lo lắng cho mẹ, chẳng còn biết làm cách nào hơn để chữa bệnh cho mẹ, nên tôi đã chuẩn bị lễ cúng thần phật mong thần phật phù hộ độ trì cho mẹ tôi khỏi bệnh. Tôi cũng hết lời khuyên nhủ mong mẹ gắng gượng ăn uống, thuốc thang cho chóng khỏe đợi chồng tôi trở về. Song vì tuổi già bệnh nặng, vận trời khó tránh nên mẹ chồng tôi đã ko qua khỏi. Đau xót tột cùng, tôi khóc tang mẹ đến sưng cả hai mắt và lo việc ma chay tế lễ cho mẹ như với cha mẹ đẻ của mình.
Qua năm sau, giặc tan, chồng tôi trở về bình yên đúng như mong đợi, tuy buồn vì mẹ không còn nhưng tôi hy vọng gia đình sẽ hạnh phúc như xưa. Nhưng bé Đản vì chưa gặp cha bao giờ nên không chịu nhận dù tôi đã hết sức dỗ dành, có lẽ là còn trẻ con nên ương bướng. Ngay hôm sau, chàng bế con ra thăm mộ mẹ, còn tôi ở nhà chuẩn bị mâm cơm vừa để tạ ơn tổ tiên đã phù hộ cho chàng bình yên trở về vừa để mừng ngày vợ chồng tôi đoàn tụ. Không ngờ ngày vui ngắn chẳng tày gang. Buổi trưa khi hai cha con trở về, mặt đỏ bừng bừng chàng giận dữ lôi đình đi thẳng vào bếp, nơi tôi đang chuẩn bị cơm để la mắng, tra hỏi tôi. Chàng nói trong cơn giận dữ rằng trong thời gian chàng đi xa tôi đã làm chuyện xấu xa thất tiết trái đạo lý… Như sét đánh ngang tai, tôi chết điếng người, không hiểu rõ nguyên nhân vì sao chàng như vậy. Tôi hết lời giải thích cho chàng hiểu rằng mình là con nhà nghèo khó được nương tựa nhà giàu, trong thời gian chồng đi lính vẫn một lòng chung thủy chờ đợi, không hề làm chuyện xấu xa, thất tiết. Tôi cũng cầu mong van xin chàng đừng một m nghi oan để cứu vãn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ. Nhưng chàng không tin, hỏi chuyện kia do ai nói chàng cũng không nói. Mặc cho làng xóm bênh vực khuyên can, chàng vẫn một mực không nghe, cứ mắng nhiếc, lăng mạ rồi đuổi tôi ra khỏi nhà. Đau xót đến cùng cực vì tai họa bất ngờ ập xuống, tôi tha thiết phân trần nhưng chàng vẫn lạnh lùng không thay đổi. Tuyệt vọng, buồn chán vì không có cách nào cởi bỏ được mối nghi ngờ trong lòng chàng. Cuộc đời với tôi giờ ko còn ý nghĩa gì nữa, bao nhiêu vất vả lo toan cho gia đình, ngay cả tấm lòng thủy chung hết mực với chồng bây giờ cũng bị phủ nhận không thương tiếc. Tôi không thể sống mà mang tiếng xấu xa để người đời khinh rẻ nên chỉ còn một cách là lấy cái chết để minh oan. Tôi đã tắm gội chay sạch rồi ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời than, cầu mong thần linh chứng giám cho tấm lòng thủy chung của mình. Nói xong tôi gieo mình xuống sông tìm cái chết để giải thoát.Kể đến đây, Vũ Nương đã không thể kìm được nỗi đau xót, giọng nàng nghẹn ngào thổn thức và những giọt nước mắt đã lăn dài trên khuôn mặt đầy đau khổ. Thấy vậy vua Thủy Tề đã lên tiếng an ủi động viên Vũ Nương:
- Vũ Nương à! Nỗi oan khuất của nàng đã thấu tới chốn thủy cung của ta và ta đã cho các nàng tiên trong cung nước đợi sẵn để kịp thời rẽ nước mở đường đưa nàng về đây. Hôm nay câu chuyện của nàng đã cho ta hiểu rõ về nàng và càng thấy thương nàng hơn. Ta mong nàng từ nay hãy sống thật an lạc ở nơi này cùng Linh Phi và các cung nữ. Đây cũng là món quà mà ta muốn bù đắp cho những thiệt thòi của nàng trước đây. Nói xong nhà vua ra hiệu lệnh cho mọi người bắt đầu buổi tiệc. Và không khí lại rộn ràng vui tươi bởi tiếng chiêng tiếng trống hòa đã cùng tiếng nói tiếng cười, tiếng hát của mọi người.